Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Luận văn tốt nghiệp - Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn ODA cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.56 KB, 101 trang )

Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
MỤC LỤC
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mối quan hệ giữa việc phát triển cơ sở hạ tầng và sự nghiệp xóa đói giảm
nghèo đã được chứng minh rất rõ ở Việt Nam thông qua một loạt các chương trình,
dự án do Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB) và Chính
phủ tài trợ. Cơ sở hạ tầng nông thôn được coi là điều kiện cần thiết cho sự thành
công của sự nghiệp giảm nghèo. Thực trạng cơ sở hạ tầng ở khu vực miền núi phía
Bắc lâu nay kém phát triển, những công trình hiện có chất lượng thấp do thực tế sử
dụng quá tải so với tiêu chuẩn thiết kế kỹ thuật ban đầu. Tình trạng công tác duy tu
bảo dưỡng định kỳ và thường xuyên chưa phù hợp vẫn luôn là thách thức ở khu vực
này cộng với tình hình biến đổi khí hậu khắc nghiệt và đầy biến động.
Thấy rõ vai trò đặc biệt quan trọng của sự nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc, trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà
nước đã tập trung, ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc đầu tư cho phát
triển cơ sở hạ tầng nông thôn cần số vốn đầu tư rất lớn. Vì vậy, Đảng và Nhà nước
chủ trương huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện những mục
tiêu và nhiệm vụ phát triển nông nghiệp nông thôn.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho
vay ưu đãi là một trong những nguồn lực từ bên ngoài có những ưu việt nổi trội, rất
phù hợp để hỗ trợ các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước nông nghiệp nghèo
như Việt Nam. ODA được đánh giá là một trong những nguồn vốn quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển nông nghiệp và đặc biệt là phát triển cơ sở hạ
tầng nông thôn. Trong giai đoạn 2011 - 2015, nguồn vốn ODA đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp Việt Nam nhiều nhất từ Ngân hàng Thế giới (WB), kế đó là Ngân hàng
Phát triển Châu Á (ADB). Nguồn vốn ODA từ ADB đã đóng một vai trò quan trọng
trong sự tăng trưởng và phát triển của cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam. Tuy


nhiên, tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn này trong ngành phát triển cơ sở hạ
1
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
tầng nông thôn vẫn còn một số bất cập, đòi hỏi phải có một số giải pháp điều chỉnh
phù hợp với thực tế của ngành tại Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống lại và làm rõ một số vấn đề lý luận chung về ODA đối với sự phát
triển của cở sở hạ tầng nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc.
- Phân tích, đánh giá tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của ADB
trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường thu hút ODA cho các dự án phát triển
cơ sở hạ tầng nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tình hình thu hút và sử dụng các nguồn vốn ODA
trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn miền núi phía Bắc
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung chủ yếu vào các khoản vay khu vực công của
ADB trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với việc sử dụng các phương pháp cụ
thể như:
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp phân tích (phân tích định tính và phân tích thống kê).
- Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp so sánh để làm sáng tỏ hơn các kết
luận rút ra trong từng hoàn cảnh cụ thể.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hoá lý luận về vốn ODA và khẳng định vai trò
vốn ODA, đặc biệt ODA của ADB đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn các
tỉnh miền núi phía Bắc.
2

Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở phân tích thực trạng tình hình thu hút và sử
dụng vốn ODA, đánh giá những kết quả đạt được, tồn tại từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm tăng cường thu hút vốn ODA cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc. Nó sẽ giúp cho Chính phủ, các Bộ, Ngành,
địa phương đề ra phương hướng và kế hoạch để thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn
ODA cho ngành cơ sở hạ tầng của Việt Nam nói chung và khu vực miền núi phía
Bắc nói riêng.
6. Kết cấu luận văn
- Tên Luận văn: "Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn ODA cho các
dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về nguồn vốn ODA và sự cần thiết phải đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng nông thôn ở miền núi phía Bắc.
Chương 2: Thực trạng việc thu hút và sự dụng nguồn vốn ODA trong các Dự án
phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn ở khu vực miền núi phía Bắc.
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thu hút ODA cho các dự án phát triển cơ sở
hạ tầng nông thôn ở khu vực miền núi phía Bắc.
3
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN ODA VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG NÔNG THÔN KHU VỰC
MIỀN NÚI PHÍA BẮC
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của nguồn vốn ODA
1.1.1 Khái niệm vốn ODA
Thuật ngữ hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance -
ODA) xuất hiện từ sau chiến tranh Thế giới II và gắn liền với yếu tố chính trị. Sau
chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước bị tàn phá nặng nề về kinh tế, nhất là các
nước châu Âu. Trong lúc đó, Mỹ không những không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh

mà còn giàu lên nhờ bán vũ khí. Với sức mạnh vượt trội về mọi mặt, đặc biệt là về
kinh tế, Mỹ đã đưa ra kế hoạch Marshall hỗ trợ cho các nước Tây Âu sau chiến
tranh. Kế hoạch này vừa là để trợ giúp các nước Tây Âu khôi phục kinh tế nhưng
cũng nhằm chi phối, kiểm soát các nước này. Vì vậy, bản chất của hỗ trợ phát triển
chính thức là nguồn tài trợ của nước này dành cho nước khác nhằm hỗ trợ và thúc
đẩy cho quốc gia đó phát triển về kinh tế xã hội. Còn nguồn gốc sâu xa của sự ra
đời ODA chính là do yếu tố chính trị.
Đến nay, thuật ngữ ODA được sử dụng khá phổ biến. ODA được hiểu là
nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (các Chính phủ, các tổ chức phi Chính
phủ, các tổ chức quốc tế hoặc các địa phương) cung cấp cho các nước chậm và đang
phát triển, nhằm thúc đẩy kinh tế và phúc lợi ở các nước này [16,tr.282]. Mặc dù
gọi là hỗ trợ phát triển, nhưng phần vốn cho không chỉ chiếm 25% vốn cung cấp.
Chính vì thế, cần có sự quan niệm đầy đủ và đúng đắn về nguồn vốn này, không sử
dụng lãng phí ODA.
Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) định nghĩa: “ODA là một
giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển hoặc kém phát triển, điều kiện tài
4
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố hỗ trợ không hoàn lại chiếm
ít nhất 25%” [15, tr.6]
Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ Việt Nam (thay
thế cho Nghị định 17/2001/NĐ-CP ngày 14/05/2001) định nghĩa: Hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc
Chính phủ Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với nhà tài trợ là Chính phủ
nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên Quốc gia hoặc liên
Chính phủ [10, tr.5].
Như vậy, có thể hiểu khái niệm về ODA như sau: Hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) là nguồn hỗ trợ (tiền tệ, vật chất, công nghệ) của các nước phát triển,
các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ (gọi chung là các đối tác

viện trợ nước ngoài) dành cho các nước đang và chậm phát triển (gọi là bên nhận
viện trợ) nhằm giúp cho các nước ngày tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
1.1.2. Phân loại vốn ODA
1.1.2.1. Theo tính chất
+ Viện trợ không hoàn lại
Là loại ODA mà bên nước nhận không phải hoàn lại, nguồn vốn nầy nhằm
để thực hiện các dự án ở nước nhận vốn ODA, theo sự thoả thuận trước giữa các
bên. Có thể xem viện trợ không hoàn lại như một nguồn thu ngân sách của nhà
nước, được cấp phát lại theo nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước
Viện trợ không hoàn lại chiếm 25% tổng số ODA trên thế giới và được ưu
tiên cho những dự án về các lãnh vực như y tế, dân số, giáo dục, môi trường
+ Viện trợ có hoàn lại ( còn gọi là tín dụng ưu đãi).
Vốn ODA với một lãi suất ưu đãi và một thời gian trả nợ thích hợp, tín dụng
ưu đãi chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thê giới. Nó không được
sử dụng cho mục tiêu xã hội, môi trường mà thường được sử dụng cho các dự án về
cơ sở hạ tầng thuộc các lãnh vực giao thông vân tãi, nông nghiệp, thủy lợi, năng
lượng làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế. Các điều kiện
ưu đãi bao gồm:
5
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
• Lãi suất thấp
• Thời gian trả nợ dài
• Có khoảng thời gian không trả lãi hoặc trả nợ
+ Viện trợ hỗn hợp: là các khoản vừa cho không, vừa cho vay (có thể cho
vay có ưu đãi, hoặc cho vay thông thường), thậm chí có loại ODA vốn vay kết hợp
với 3 loại hình gồm một phần ODA không hoàn lại, một phần vốn ưu đãi và một
phần tín dụng thương mại. Hiện nay, yếu tố không hoàn lại thường chiếm khoảng
20- 25% trong các dự án ODA.
Cách phân loại này giúp các quốc gia nắm rõ được tình trạng nợ của quốc gia
mình trong từng thời kì, qua đó mà xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng từng

nguồn cho phù hợp.
1.1.2.2 Theo mục đích sử dụng
- Hỗ trợ đầu tư phát triển (chiếm 50-60%): Vốn này được chính phủ các
nước tiếp nhận trực tiếp tổ chức đầu tư, quản lý dự án và có trách nhiệm trả nợ phần
vốn vay, bao gồm: (i) đầu tư các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất; (ii) đầu tư
các dự án phát triển bền vững như tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ tài
nguyên môi trường; (iii) đầu tư các dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp
hoặc linh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong loại hình thứ ba này,
Chính phủ giao cho các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh, đầu tư, quản lý dự án và
có trách nhiệm thu hồi vốn trả nợ.
- Hỗ trợ cán cân thanh toán (còn gọi là vốn tín dụng điều chỉnh cơ cấu tài
chính): Loại vốn này giúp chính phủ các nước thanh toán các khoản nợ đến hạn và
các loại lãi suất được tính lãi từ những năm trước đó (cộng dồn). Trong một số
trường hợp, đây là vốn tài trợ giúp các nước khắc phục khủng hoảng tài chính (như
IMF cho Inđônêxia, Hàn Quốc, Thái Lan vay trong cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ năm 1997-1998). Nguồn này chủ yếu được lấy từ ODA đa phương.
6
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
- Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá): Chính phủ nước nhận ODA tiếp
nhận một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với các khoản cam kết, bán cho thị
trường nội địa và thu nội tệ cho ngân sách.
- Hỗ trợ theo chương trình: Là hỗ trợ theo khuôn khổ đạt được bằng Hiệp
định với các nhà tài trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA trong một khoảng thời
gian mà không phải xác định trước một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế
nào. Đây là loại hình ODA trong đó các bên lồng ghép một hay nhiều mục tiêu với
tập hợp nhiều dự án. Loại hỗ trợ này hiện nay Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
và Ngân hàng Thế giới (WB) đang nghiên cứu áp dụng trong lĩnh vực Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn để tăng hiệu quả sử dụng nguồn ODA, tránh sự chồng chéo.
- Hỗ trợ theo dự án: Tức là trước khi nhận được khoản hỗ trợ, nước nhận hỗ
trợ phải chuẩn bị chi tiết dự án. Loại hình hỗ trợ này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong

nguồn ODA và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như
giao thông, thuỷ lợi, nước sạch, giáo dục, y tế và môi trường. Đây thường là những
khoản vay ưu đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật: là các khoản vốn tài trợ để đào tạo chuyên gia, nâng cao
năng lực tổ chức và quản lý, thực hiện cải cách thể chế và cơ cấu kinh tế. Mục đích
của viện trợ kỹ thuật là giúp các cơ quan quản lý nhà nước của các nước nhận vốn
nâng cao năng lực quản lý của mình, bao gồm cả năng lực sử dụng viện trợ tài
chính. Về mặt kinh tế, hình thức này không có đầy đủ các yếu tố của hoạt động đầu
tư và do vậy thường là các khoản viện trợ không hoàn lại (thường chiếm từ 20- 30%
tổng vốn ODA).
- Viện trợ nhân đạo và cứu trợ: Vốn được sử dụng cho các mục đích cứu trợ
đột xuất, cứu đói, khắc phục thiên tai, chiến tranh. Phần này chiếm một tỷ trọng nhỏ
trong nguồn vốn ODA.
- Viện trợ quân sự: Chủ yếu là viện trợ song phương cho các nước đồng
minh trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Mỹ và Liên Xô cũ là hai nước trước đây viện
7
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
trợ quân sự nhiều nhất. Từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, viện trợ quân sự giảm
mạnh.
1.1.2.3. Theo điều kiện
- ODA không ràng buộc: Bên nhận ODA sẽ được sử dụng mà không bị ràng
buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
- ODA có ràng buộc: Trong quá trình sử dụng, bên nhận ODA bị ràng buộc
bởi những yếu tố như: (i) ràng buộc vào nguồn sử dụng: có nghĩa là dùng ODA để
mua sắm hàng hoá hay thiết bị, dịch vụ, thì việc mua sắm đó chỉ giới hạn trong một
số công ty trợ (đối với viện trợ song phương) hoặc công ty của các nước thành viên
(đối với viện trợ đa phương); (ii) ràng buộc vào mục đích sử dụng: chỉ được sử
dụng ODA vào một số lĩnh vực nhất định, hoặc một số dự án cụ thể.
- ODA có ràng buộc một phần: Một phần chỉ ở các nước viện trợ, phần còn
lại ở bất cứ nơi nào.

1.1.2.4. Theo hình thức
- Hỗ trợ dự án: sử dụng ODA vào các dự án cụ thể. Loại hình này có thể hỗ
trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể cho không hoặc cho vay ưu đãi. Đây là hình
thức chủ yếu của ODA.
- Hỗ trợ phi dự án, gồm có: (i) hỗ trợ cán cân thanh toán: có thể là hỗ trợ tài
chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại
tệ, hàng hoá được chuyển vào các nước có thể được dùng để hỗ trợ ngân sách; (ii)
hỗ trợ trả nợ: các nước đang phát triển thường có số nợ lớn, mà khả năng trả nợ
kém. Khoản này sẽ giúp các nước trả bớt một phần nợ để có thể tiếp tục được vay
thêm hoặc giảm bớt gánh nặng nợ nần, giảm sức ép đối với nền kinh tế; (iii) viện
trợ chương trình: là khoản ODA dành cho một mục đích rộng lớn; trong một thời
gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như
thế nào.
1.1.2.5. Theo cơ chế quản lý
8
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
- ODA do quốc gia điều hành: Đây là dạng ODA mà nước tiếp nhận vốn
được trực tiếp điều hành việc thực hiện dự án trên cơ sở văn kiện dự án đã được ký
kết, hay được thoả thuận bằng những Hiệp định, văn bản thoả thuận riêng. Nhà tài
trợ không can thiệp sâu vào công việc điều hành cũng như cơ chế quản lý tài chính
kế toán của bên nhận tài trợ liên quan đến dự án được tài trợ. Tuy nhiên, nhà tài trợ
thực hiện việc kiểm tra giám sát thông qua các đoàn làm việc theo định kỳ hoặc
thông qua một tổ chức tư vấn quốc tế. Loại này thường là ODA vay (cả song
phương và đa phương), ODA không hoàn lại của các tổ chức quốc tế dành cho đầu
tư xây dựng cơ bản.
- ODA do nhà tài trợ quản lý toàn bộ: Loại này nhà tài trợ quản lý toàn bộ
nguồn kinh phí dự án mà họ tài trợ. Tất cả các khoản chi tiêu cho dự án đều do nhà
tài trợ quyết định. Trách nhiệm cụ thể của các bên trong việc thực hiện và quản lý
tài chính dự án được qui định trong văn kiện dự án. Thông thường nhà tài trợ trực
tiếp thanh toán các khoản phát sinh liên quan đến dự án tài trợ tại nước họ mở tài

khoản tại Ngân hàng thương mại của nước nhận tài trợ tại nước họ (lương chuyên
gia, trang thiết bị, chi phí đi lại), trường hợp đặc biệt thì họ mở tài khoản tại Ngân
hàng thương mại của nước nhận tài trợ nhưng Chủ tài khoản là người đại diện của
bên tài trợ. Dạng này chủ yếu là ODA không hoàn lại song phương, tài trợ các dự
án hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực thể chế sử dụng chuyên gia nước ngoài.
- ODA theo cơ chế đồng quản lý: Đây là dạng ODA đồng giám đốc, một đại
diện cho bên tài trợ, một đại diện cho bên nhận tài trợ. Với dạng dự án này thông
thường mọi hoạt động của dự án được quản lý và xử lý theo một cơ chế thống nhất
và được đồng thuận của đại diện cả hai bên. Thuộc loại này gồm các dự án hỗ trợ
tổng hợp (vừa có chuyên gia, vừa trang bị kỹ thuật, vừa đào tạo tập huấn, chuyển
giao công nghệ) do một số nước tài trợ như Đan Mạch, EU, và các tổ chức quốc tế
của Liên hợp quốc.
Dựa trên những tiêu thức khác nhau để phân phối vốn ODA thành các loại
như trên là nhằm giúp cho quá trình vận động, thu hút nguồn vốn, xây dựng dự án,
9
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
quản lý điều hành và xây dựng cơ chế chính sách vĩ mô của Nhà nước liên quan đến
ODA.
1.1.3. Đặc điểm của nguồn vốn ODA
- ODA là nguồn vốn hợp tác phát triển: ODA là hình thức hợp tác phát triển,
của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế với các nước đang phát triển hoặc chậm
phát triển. Như vậy, ODA sẽ bao gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản vay với
điều kiện ưu đãi của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế.
- ODA là nguồn vốn có nhiều ưu đãi: Với mục tiêu hỗ trợ cho các quốc gia
đang phát triển hoặc kém phát triển, ODA mang tính ưu đãi hơn bất kỳ hình thức tài
trợ nào khác. Tính chất ưu đãi của nguồn vốn này được thể hiện qua những ưu điểm
sau:
Thứ nhất, lãi suất thấp: Các khoản vay ODA thường có mức lãi suất rất thấp,
ví dụ như lãi suất các khoản vay ODA của Nhật Bản dao động từ 0,75 – 2,3%/ năm;
mức lãi suất của Ngân hàng Thế giới (WB) là 0%/năm nhưng phải trả phí dịch vụ là

0,75%/năm; mức lãi suất của Ngân hàng Phát triển Châu Á thường từ 1-1,5%/năm.
Thứ hai, thời hạn vay dài: Các khoản vay của Nhật Bản thường có thời hạn dài là
30 năm; Ngân hàng Thế giới là 40 năm; Ngân hàng Phát triển Châu Á là 32 năm.
Thông thường ODA bao gồm một phần là viện trợ không hoàn lại hay còn
gọi là “thành tố hỗ trợ” đạt ít nhất 25% của khoản vay. “Thành tố hỗ trợ” được tính
toán trên công thức dựa vào các yếu tố như lãi suất viện trợ, thời gian vay và thời
gian ân hạn.
Thứ ba, thời gian ân hạn dài: Đối với các khoản vay ODA thời gian từ khi
vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên tương đối dài như đối với Nhật Bản và Ngân hàng
Thế giới là 10 năm, Ngân hàng Phát triển Châu Á là 8 năm.
- Nguồn vốn ODA thường đi kèm theo các điều kiện ràng buộc: Nhìn chung, các
chủ thể cung cấp ODA đều có chính sách riêng và những qui định ràng buộc khác nhau
đối với các nước tiếp nhận. Họ muốn vừa đạt được ảnh hưởng về chính trị, vừa đem lại
10
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
lợi nhuận cho hàng hoá và dịch vụ nước họ. Do vậy, ODA luôn bị ràng buộc trực tiếp
hoặc gián tiếp. Đi kèm theo với ODA bao giờ cũng có những ràng buộc nhất định về
chính trị, kinh tế hoặc khu vực địa lý.
- Nguồn vốn ODA có tính nhạy cảm: Vì ODA là một phần GDP của nước tài
trợ nên ODA rất nhạy cảm với dư luận xã hội ở nước tài trợ. Những nước tài trợ lớn
trên Thế giới có luật về ODA, Quốc hội kiểm soát chặt chẽ Chính phủ trong việc
cung cấp tài trợ ODA mang tính nhân đạo.
- Về điều kiện của giải ngân ODA: Một đặc điểm nổi bật của nguồn vốn
ODA đó là vấn đề giải ngân ODA. Nó được coi là thước đo năng lực tiếp nhận và
sử dụng hỗ trợ phát triển chính thức, do vậy thường xuyên được Chính phủ các
nước nhận tài trợ và các nhà tài trợ quan tâm. Đối với loại dự án Quốc gia điều hành
(chủ yếu là ODA vay ưu đãi) thì điều kiện giải ngân thường là điều kiện khung và
có nhiều hình thức giải ngân để bên tiếp nhận lựa chọn sao cho việc giải ngân thuận
tiện và nhanh nhất. Loại ODA do nhà tài trợ trực tiếp quản lý thì điều kiện giải
ngân do bên tài trợ qui định một cách chi tiết và hình thức giải ngân chủ yếu là

thanh toán trực tiếp từ người (tổ chức) đại diện bên tài trợ cho đối tác liên quan đến
dự án được tài trợ, cơ quan đại diện bên nhận tài trợ (cơ quan dự án) không được
mở tài khoản để tiếp nhận tiền tài trợ, không trực tiếp thanh toán các khoản chi tiêu
liên quan đến dự án.
1.1.4. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu
Hội nghị các nhà tài trợ dành cho Việt Nam họp tại Pa-ri diễn ra vào tháng
11 năm 1993 đã đánh dấu quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và Cộng đồng
tài trợ quốc tế được khôi phục hoàn toàn.
Trong thời gian qua, công tác vận động ODA luôn được chú trọng theo chủ
trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Cho đến nay, 14 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho
Việt Nam (Hội nghị CG) đã được tổ chức. Đây là diễn đàn quan trọng được tổ chức
thường niên để trao đổi ý kiến giữa Chính phủ và Cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế
11
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
tại Việt Nam về quá trình phát triển của Việt Nam và hoạt động điều phối ODA để
hỗ trợ quá trình này. Ngoài Hội nghị CG thường niên còn tổ chức Hội nghị CG giữa
kỳ không chính thức tại các địa phương, tạo điều kiện cho các nhà tài trợ nắm bắt
nhu cầu phát triển ưu tiên, cũng như tiếp xúc với những người thụ hưởng viện trợ.
Công tác vận động ODA còn được thực hiện thông qua các hoạt động đối ngoại của
các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, các Bộ,
ngành và địa phương, các đoàn thể chính trị, xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao
nước ta ở nước ngoài.
Hiện nay ở Việt Nam có 51 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa
phương hoạt động ở hầu hết các lĩnh vực ưu tiên của Việt Nam. Trong đó Nhật Bản
là đối tác lớn nhất, riêng vốn ODA của Nhật Bản chiếm tới 42.31% tổng ODA của
Việt Nam, tiếp đến là ngân hàng thế giới (WB) với 26.61% và ngân hàng phát triển
Châu Á (ADB) với 14.49%. Xét theo nhà tài trợ song phương thì đứng đầu là Nhật
Bản đứng đầu với 77.18%, tiếp theo là Pháp (6.17%), Đức (3.6%). Xét theo tài trợ

đa phương thì WB và ADB là hai đối tác lớn nhất.
12
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
Bảng 1: 10 nhà tài trợ chính của Việt Nam giai đoạn năm 1993 - 2008
Đơn vị: Triệu USD, %
Nhà tài trợ Tổng giá trị ODA (triệu USD) Tỷ trọng (%)
EU 269.83 1.35
Australia 282.32 1.4
Trung Quốc 301.08 1.5
Thụy Điển 412.83 2.06
Đan Mạch 549.48 2.74
Đức 597.35 2.98
Pháp 1133.78 4.56
ADB 3593.49 14.49
WB 7026.39 26.61
Nhật Bản 10455.66 42.31
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhật Bản là đối tác lớn nhất của Việt Nam, trong đó ngân hàng quốc tế Nhật
Bản (JBIC) chiếm 36% tổng dự án, tương đương 83% tổng vốn giải ngân (10455.66
triệu USD). Trong số các dự án của Nhật Bản 47% là dành cho phát triển cơ sở hạ
tầng với 6688.11 triệu USD, tương đương 78.96 tổng ODA của Nhật Bản cho Việt
Nam.
WB là nhà tài trợ lớn thứ hai với 7026.39 triệu USD với các dự án sử dụng
vốn ODA tập trung chủ yếu cho hỗ trợ chính sách (chiếm 58% tổng số vón giải
ngân và 60% tổng vốn vay). Tiếp theo là phát triển cơ sở hạ tầng chiếm 30% tổng
vốn giải ngân và 24% tổng vốn vay.
ADB là nhà tài trợ lớn thứ ba, chiếm 14.49% tổng vốn ODA. Các dự án của
ADB tập trung nhiều nhất vào đầu tư cơ sở hạ tầng 3593.49 triệu USD chiếm 44%
tổng vốn giải ngân và 22% tổng số dự án; tiếp theo là phát triển nông thôn chiếm
26% tổng vốn giải ngân, 20% tổng dự án; thứ ba là hỗ trợ chính sách chiếm 24%

tổng vốn giải ngân.
Bảng 2: Tình hình giải ngân ODA của nhóm sáu ngân hàng phát triển
giai đoạn (1998-2009)
Đơn vị: Triệu USD
13
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
Năm ADB JICA WB AFO KfW Kexim
Tổng
giải
ngân
1998 127.80 286.00 255.40 15.60 26.30 9.80 720.90
1999 148.30 454.00 157.80 26.60 33.70 0.80 821.20
2000 171.00 693.40 174.30 10.20 9.30 9.6 1067.80
2001 176.20 328.50 278.40 26.00 13.70 32.80 855.60
2002 185.20 257.20 260.60 37.20 18.00 18.5 776.70
2003 174.00 376.80 467.00 39.90 26.60 8.00 1092.30
2004 147.40 540.70 343.90 56.70 33.90 25.00 1147.60
2005 223.70 552.00 371.20 46.40 35.50 6.5 1235.30
2006 184.10 579.80 332.00 65.40 27.40 1.9 1190.6
2007 229.80 672.80 756.30 67.8 39.5 2.00 1768.20
2008 278.62 733.33 608.27 88.32 34.11 34.61 1777.26
2009 325.45 809.81 655.83 93.24 31.09 27.85 1943.27
Tổng 2371.57 6284.34 4661 573.36 329.1 177.36 13206.13
Nguồn: Phòng kế toán BQL dự án
Các số liệu về tình hình giải ngân của nhóm sáu ngân hàng phát triển trong
11 năm qua cho thấy năm 1998 mức giải ngân đạt được là lớn nhất. Điều này có ý
nghĩa quan trọng vì nhóm sáu ngân hàng phát triển cung cấp khoảng 80% vốn ODA
cho Việt Nam với nhiều chương trình, dự án quy mô lớn giúp Việt Nam phát triển
cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội.
1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thu hút và sử dụng ODA

1.1.5.1. Các nhân tố khách quan
- Tình hình kinh tế chính trị ở quốc gia tài trợ
Các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tổng thu nhập quốc dân, lạm phát thất
nghiệp hay những thay đổi chính trị có tác động đến các hoạt động hỗ trợ phát triển
cho các quốc gia khác. Chẳng hạn, đối với các quốc gia cung cấp ODA do nền kinh
tế gặp khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp tăng hay thay đổi về thể chế,v.v. có thể làm
cho mức cam kết ODA hàng năm của quốc gia này giảm.
- Các chính sách, quy chế của nhà tài trợ
14
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
Nhìn chung, mỗi nhà tài trợ đều có chính sách và thủ tục riêng đòi hỏi các
quốc gia tiếp nhận viện trợ phải tuân thủ khi thực hiện các chương trình, dự án sử
dụng vốn ODA của họ. Các thủ tục này khác nhau cơ bản ở một số lĩnh vực như
xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, các thủ tục về đấu thầu, các thủ tục về
giải ngân hay chế độ báo cáo định kỳ,v.v. Các thủ tục này khiến cho các quốc gia
tiếp nhận viện trợ lúng túng trong quá trình thực hiện dự án. Tiến độ các chương
trình dự án thường bị đình trệ, kéo dài hơn so với dự kiến, giảm hiệu quả đầu tư.
Vì vậy, việc hiểu biết và thực hiện đúng các chủ trương hướng dẫn và quy định
của từng nhà tài trợ là một điều vô cùng cần thiết đối với các quốc gia tiếp nhận
viện trợ.
- Môi trường cạnh tranh
Thời gian gần đây, có thể thấy tổng lượng ODA trên Thế giới đang có chiều
hướng suy giảm trong khi đó nhu cầu ODA của các nước đang phát triển tăng liên
tục, nhất là sau các cuộc khủng hoảng kinh tế và các cuộc sung đột vũ trang khu
vực. Hiện đang diễn ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đang phát triển để
tranh thủ nguồn vốn ODA. Vì vậy, để thu hút được những nguồn vốn ODA trong
thời gian tới đòi hỏi các quốc gia tiếp nhận viện trợ phải không ngừng nâng cao hơn
nữa trình độ kinh nghiệm và năng lực của họ trong công tác quản lý, điều phối và
thực hiện các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn này.
1.1.5.2. Các nhân tố chủ quan

Thông thường các nhà tài trợ đầu tư vốn ODA vào các nước có mối quan hệ
chính trị tốt và sử dụng vốn ODA có hiệu quả. Vì vậy, các nhân tố kinh tế chính trị
của nước nhận tài trợ có ảnh hưởng lớn đến thu hút nguồn vốn ODA. Do đó, các
nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn ODA phải kể đến là:
- Tình hình kinh tế, chính trị ở quốc gia tiếp nhận viện trợ
Trong môi trường này, các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tổng thu nhập
quốc dân, lạm phát, thất nghiệp, cơ chế quản lý kinh tế, sự ổn định chính trị,v.v. sẽ
15
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
có những tác động trực tiếp đến quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA. Ví dụ, ở các
quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, 1% GDP viện trợ dẫn đến mức tăng trưởng
bền vững tương đương với 0,5 % GDP. Vì vậy, ổn định về mặt chính trị, tăng
trưởng về kinh tế là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng để vận động và thu
hút ODA cho đất nước.
- Qui trình và thủ tục của nước tiếp nhận viện trợ
Đây là nhân tố quan trọng nhất tác động trực tiếp tới hoạt động thu hút và sử
dụng vốn ODA. Ở những quốc gia có qui trình và thủ tục thông thoáng, thuận lợi
cho công tác thực hiện các chương trình, dự án ODA thì ở nơi đó các chương trình,
dự án ODA sẽ triển khai thuận lợi, đúng tiến độ và phát huy hiệu quả tốt qua đó sẽ
làm tăng khả năng thu hút thêm nguồn vốn này.
- Năng lực của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn ODA
Năng lực của các cán bộ thực hiện chương trình, dự án ODA cũng là một
nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới công tác thu hút và sử dụng vốn ODA. Các cán bộ
hoạt động trong lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn ODA cần phải có năng lực về đàm
phán, ký kết dự án, triển khai thực hiện quản lý vốn.v.v. đòi hỏi các cán bộ cần có
kiến thức chuyên môn sâu về pháp luật, kinh tế, kỹ thuật, ngoại ngữ. Bởi vì trên
thực tế, các hoạt động thực hiện dự án vừa phải tuân thủ các qui định, luật pháp của
Chính phủ Việt Nam vừa phải tuân thủ các qui định, hướng dẫn của nhà tài trợ.
Ngoài những năng lực kể trên về năng lực công tác chuyên môn đòi hỏi các cán bộ
quản lý dự án nhất thiết phải có những phẩm chất đạo đức tốt.

- Năng lực tài chính của các nước tiếp nhận viện trợ ODA
Đối với các chương trình dự án ODA để tiếp nhận 1 USD vốn ODA thì các
quốc gia tiếp nhận phải có ít nhất 15% vốn đối ứng (khoảng 0,15 USD). Ngoài ra,
cần một lượng vốn đầu tư từ ngân sách cho công tác chuẩn bị các chương trình dự
án cũng không nhỏ. Vì vậy, để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA các
16
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
quốc gia tiếp nhận vốn phải biết tăng cường và phát huy năng lực tài chính của
mình là chính.
1.2. Cơ sở hạ tầng và sự cần thiết phải xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn ở
miền núi phía Bắc
1.2.1. Các đặc điểm về cơ sở hạ tầng nông thôn
- Tính hệ thống, đồng bộ
Mức độ và phạm vi ảnh hưởng của các bộ phận trong CSHT nông thôn tới sự
phát triển KT_XH của toàn bộ khu vực nông thôn là khác nhau. Tuy nhiên chúng
lại có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với nhau trong quá trình hoạt động, khai thác và
sử dụng. Do vây, quy hoạch tổng thể phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn phải phối
hợp với các bộ phận khác nhau trong một hệ thống đồng bộ. Khi đó trong quá trình
vận hành, sử dụng sẽ giảm được tối đa chi phí và tăng tối đa công dụng của các
công trình giao thông nông thôn
- Tính định hướng
Cơ sở hạ tẩng nông thôn có tính định hướng vì:
Vốn đầu tư cao, thời gian sử dụng lâu dài, khả năng thu hồi vốn thấp là
nguyên nhân khiến việc đầu tư phát triển CSHT nông thôn chủ yếu thuộc về Nhà
nước. Ngoài ra, hệ thống CSHT nông thôn phát triển còn tạo điều kiện thuận lợi cho
các hoạt động KT-XH, nâng cao đời sống vật chất của người dân, mở rộng giao lưu
kinh tế - văn hóa giữa các vùng miền trong cả nước, nhất là khoảng cách giữa thành
thị và nông thôn.
Vì vậy, CSHT nông thôn phải được hình thành và phát triển trước một bước
để tạo tiền đề cho các hoạt động KT_XH khác. Sự phát triển của CSHT nông thôn

về quy mô, chất lượng còn thể hiện rất rõ tính định hướng phát triển KT-XH của
từng vùng, từng miền, từng địa phương. Điều cơ bản khi tiến hành đầu tư phát triển
CSHT nông thôn phải thực hiện tốt chiến lược ưu tiên, tập trung xây dựng các công
trình, hạng mục cần thiết trước nhằm nâng cao tính tiên phong định hướng và giảm
nhẹ nhu cầu huy động vốn đầu tư
- Tính địa phương, tính vùng và tính khu vực
17
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
Xây dựng và phát triển CSHT nông thôn mang tính vùng và địa phương rõ
nét. Điều này thể hiện trong quá trình tạo lập, xây dựng cũng như tổ chức, quả lý và
sử dụng chúng. Do địa bàn nông thôn rộng, dân cư phân bố không đều và điều kiện
sản xuất nông nghiệp đa dạng, phức tạp lại có sự khác biệt giữa các địa phương, các
khu vực khác nhau. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như địa lý, địa hình, trình độ phát triển…
Vì thế, trong việc phân bố hệ thống CSHT nông thôn, thiết bị, đầu tư và sử
dụng nguyên vật liệu phải đặt trong hệ thống chung của quốc gia đồng thời phù hợp
với đặc điểm, điều kiện từng địa phương, từng vùng, từng lãnh thổ.
- Tính xã hội và tính cộng đồng cao
Trong sử dụng, hầu hết hệ thống CSHT nông thôn đều được sử dụng nhằm
phục vụ việc đi lại, buôn bán, sản xuất, nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của người dân,
giao lưu của người dân với các cơ sở kinh tế, dịch vụ. Do vậy các công trình này
thường là những công trình công cộng, phục vụ cho đa số người dân, không loại trừ
bất kỳ ai.
Nguồn vốn xây dựng các công trình này được huy động từ rất nhiều thành
phần trong nền kinh tế trong đó sự đóng góp của người dân có vai trò vô cùng quan
trọng. Bởi vậy người dân có quyền tham gia giám sát từ khâu xây dựng, quản lý,
vận hành, bảo dưỡng các hệ thống CSHT nông thôn.
1.2.2. Vai trò của cơ sở hạ tầng nông thôn đối với việc phát triển kinh tế xã hội
ở vùng nông thôn
1.2.2.1. Đóng góp của cơ sở hạ tầng đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam

Củng cố mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng của Việt Nam là một chương
trình đầu tư quan trọng cấp quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực CSHT. Trong mỗi năm
từ năm 1997, tổng đầu tư cho CSHT đã vượt mức tăng trưởng GDP (trung bình
dưới 10% GDP mỗi năm – cao hơn bất kỳ nước nào ở Đông Á, kể cả Trung Quốc,
chiếm 45% tổng đầu tư của Nhà Nước trong giai đoạn này)
1
.
1
18
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
Xây dựng CSHT đã đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dưới
rất nhiều hình thức. Ví dụ, (i) từ năm 1990 mạng lưới đường bộ đã tăng hơn gấp đôi
về chiều dài, và chất lượng cũng tăng lên đáng kể, (ii) tất cả khu đô thị và gần 90%
khu vực nông thôn đã có điện, (iii) trên 50% dân số có nước sạch để sử dụng (tăng
gấp đôi so với năm 1993), (iv) 25% dân số có cầu tiêu hợp vệ sinh (so với chỉ 10%
năm 1993).
Trong rất nhiều nghiên cứu về sự đóng góp của giao thông và CSHT đến
tăng trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam nói chung, ‘Diễn đàn phát triển Grips’
(2003) cho thấy CSHT giao thông quy mô lớn đang phát triển ở Việt Nam đã góp
phần mở ra những cơ hội làm ăn mới, thúc đẩy đa dạng hóa nguồn thu nhập và tạo
ra nhiều việc làm phi nông nghiệp. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng những CSHT
này đã mở rộng các quan hệ kinh tế giữa các trung tâm phát triển và vùng nông thôn
phụ cận, chứng minh tầm quan trọng sống còn của việc liên kết các vùng xa xôi hẻo
lánh với những khu vực đông đúc.
Mặc dù hiện đang có những nghi ngờ về khả năng Việt Nam có thể tiếp tục
duy trì hiệu quả của đồng vốn đầu tư vào CSHT (vì khi nguồn vốn đầu tư vào
CSHT tăng lên thì hiệu suất biên tế của vốn đầu tư hàng năm vào CSHT có xu
hướng giảm – gọi là Tỉ Suất Sản Phẩm Trên Vốn – ICOR), nhiều nghiên cứu đã
chứng minh hiệu quả của các hoạt động đầu tư vào tất cả các loại hình CSHT (cả sự
gia tăng quy mô tuyệt đối trong nguồn vốn lẫn hiệu quả đều rất đáng kể)

2
. Chỉ số
ICOR của Việt Nam hiện nay là xấp xỉ 6, tăng đáng kể so với con số 3 cách đây một
thập kỷ. Mặc dù vậy, việc giảm lợi nhuận có xu hướng xảy ra khi mạng lưới CSHT
được mở rộng thêm. mở một con đường cấp phối mới tới một làng nông thôn có thể
mang lại lợi ích biên tế cao, nhờ tạo điều kiện đến chợ dễ dàng; sau đó tráng nhựa
con đường này có thể tăng thêm đôi chút lợi ích nhưng chắc chắn không mang lại
nhiều lợi ích biên tế như lúc mới mở đường
3
.
Ở Việt Nam (cũng như đối với bất cứ nước nào khác), sau khi hoàn thiện
mạng lưới CSHT quốc gia (đặc biệt đối với đường nông thôn) và/hoặc đảm bảo khả
2
3
19
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
năng tiếp cận các dịch vụ dễ dàng, bước tiếp theo sẽ là chuyển trọng tâm chú ý sang
mục tiêu vận hành và bảo dưỡng sao cho có hiệu quả. Nói một cách cụ thể hơn, việc
phân bổ các nguồn tài chính cần dịch chuyển từ đầu tư mới sang các hoạt động bảo
dưỡng sau đầu tư.
1.2.2.2. Cơ sở hạ tầng nông thôn với ngành tài nguyên thiên nhiên & nông nghiệp
Một nghiên cứu về lịch sử và hiện trạng ngành tài nguyên thiên nhiên và
nông nghiệp trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của cả nước cho thấy triển
vọng của ngành trong tương lai sẽ có mối liên quan trực tiếp đến chất lượng của hệ
thống CSHT NT theo hai cách, và cả 2 đều quan trọng hơn ở bất cứ quốc gia nào có
cùng giai đoạn phát triển. Mối liên quan đầu tiên là vai trò của CSHT NT trong việc
liên kết nhà nông với người tiêu dùng và thị trường, và (thứ hai) là vai trò của
CSHT NT trong quá trình chuyển đổi ngành nghề từ nông dân trở thành công nhân
làm việc trong các khu công nghiệp và khu đô thị.
Ngày nay, nhu cầu thị trường (cả trong và ngoài nước) giữ vai trò định

hướng cho sản xuất và buôn bán trong lĩnh vực nông nghiệp. Thị trường trong nước
chi phối ngày càng mạnh, do thu nhập ngày càng tăng và quá trình đô thị hóa khiến
cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng, cả về tính đa dạng và chất lượng sản phẩm
của cây trồng, vật nuôi và thủy sản. Bên cạnh đó, xu hướng phát triển ra thị trường
thế giới – dự kiến rõ nét hơn khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) – cũng giúp cho việc lựa chọn trồng cây gì, nuôi con gì của nông dân tiến
gần hơn đến nhu cầu và giá cả của thị trường thế giới. Các ví dụ được nêu trên đây
về sự tăng trưởng của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong những
năm gần đây cho thấy nông dân Việt Nam đã hòa nhập hơn vào thị trường trong
nước và quốc tế so với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á – hiện nay 70%
tổng sản phẩm nông nghiệp trở thành hàng hóa, so với con số 48% của 9 năm trước
đây. Điều này có nghĩa là điều kiện và chi phí vận chuyển là các yếu tố mang tính
quyết định nhu cầu, nguồn cung và giá cả, lợi nhuận sản xuất và thu nhập từ nông
nghiệp – ngược lại, tất cả các yếu tố này phụ thuộc vào CSHT NT và các dịch vụ có
thể cung cấp.
20
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
Tầm quan trọng của triển vọng này đã được khẳng định qua những phân tích
gần đây về các yếu tố quyết định tăng trưởng nông nghiệp
4
, xác định sự đóng góp
tương đối của những thay đổi trong đầu vào của các yếu tố sản xuất – lao động, đất
đai, máy móc và phân bón – và của ‘tổng năng suất các yếu tố” - cách giải thích
khác cho sự tăng trưởng của ngành tài nguyên thiên nhiên và nông nghiệp (tổng
năng suất của các yếu tố bao gồm sự phát triển thể chế, CSHT NT, và phát triển xã
hội cũng như công nghệ và khoa học nông nghiệp). Số liệu từ các nghiên cứu này
chỉ ra một cách rõ ràng rằng việc sử dụng phân bón ngày càng tăng đóng vai trò
chính trong việc đạt được tỉ lệ tăng trưởng cao – vào thập kỷ 90, hơn một nửa sự
tăng trưởng trong sản xuất nông nghiệp (một tỉ lệ lớn hơn nhiều so với tất cả các
quốc gia trong khu vực) là do sự gia tăng của việc sử dụng phân bón – nhưng việc

này cũng chỉ ra rằng sự tăng trưởng trong tương lai sẽ phải đến từ các nguồn tổng
năng suất các yếu tố (bao gồm cả những lợi ích về mặt hiệu quả của CSHT NT).
Thứ hai, do CSHT giao thông nông thôn hiện tại đang đóng vai trò quyết
định đối với sản lượng ngành tài nguyên thiên nhiên và nông nghiệp, nó cũng được
xem là chất xúc tác quan trọng của quy trình phát triển chung của quá trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế. Mặc dù tầm quan trọng tương quan của ngành trong toàn bộ nền
kinh tế bị giảm đáng kể, nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong trong sinh
kế của đại bộ phận dân Việt Nam: 4/5 dân số Việt Nam vẫn đang sống ở khu vực
nông thôn và ngành này vẫn thu hút khoảng 2/3 lực lượng lao động cả nước toàn
thời gian hoặc bán thời gian).
Tuy nhiên, tỉ lệ lao động nông nghiệp bán thời gian ngày càng tăng (và lực
lượng lao động nữ cũng ngày càng tăng so với nam giới) – chỉ khoảng ¼ hộ gia
đình nông thôn tham gia sản xuất nông nghiệp trong khi số còn lại kết hợp sản xuất
nông nghiệp với các công việc phi nông nghiệp và được trả lương. Bức tranh ngày
càng rõ nét qua các nghiên cứu
5
về nghèo đói và thu nhập gần đây trên khắp cả
nước là trong khi rất nhiều hộ gia đình ở nông thôn đang đa dạng hóa các hoạt động
của họ, phần lớn đều mong muốn giữ việc sản xuất nông nghiệp như là một nguồn
4
5
21
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
thu nhập ổn định (ít nhất là cho một vài thành viên của gia đình)
6
. Điều này có
nghĩa là đối với lao động nói chung và đối với từng thành viên của gia đình đều có
thể làm công việc này, chi phí vận chuyển rẻ và đáng tin cậy ở nông thôn cũng quan
trọng như sự sẵn có các cơ hội kiếm thu nhập ngoài nông nghiệp
1.2.2.3. Vai trò của cơ sở hạ tầng nông thôn miền núi phía Bắc đối với việc phát

triển kinh tế xã hội của đất nước
Thực tế cho thấy rằng sự thịnh vượng của một quốc gia thì cần phải có sự
phát triển của tất cả các vùng hợp lại. Sự phát triển của vùng sẽ cải thiện được đời
sống của nhân dân trong vùng, nâng cao được trình độ hiểu biết của họ, tăng khả
năng đóng góp GDP cho đất nước.
Ở nhiều nước trong đó có Việt Nam, thực tế đã khẳng định rằng khi cơ sở hạ
tầng nông thôn được cải thiện sẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và mang lại lợi ích
kinh tế cho nông dân, việc cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như y tế,
giáo dục, tăng cường trao đổi mua bán, mang lại thêm nhiều cơ hội tạo thêm thu
nhập phi nông nghiệp và giảm áp lực lên những vùng nhạy cảm và sinh thái. Ngoài
ra, mối liên hệ giữa nghèo đói và cơ sờ hạ tầng nông thôn yếu kém cũng được minh
chứng rõ ràng qua thực tế.
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác có cùng tình trạng cơ
sở hạ tầng nông thôn yếu kém, tỉ lệ nghèo rõ ràng cao hơn hẳn những nước có cơ sở
hạ tầng hoàn chỉnh gồm mạng lưới đường giao thông, hệ thống thủy lợi, hay trạm
cấp nước sạch và các chợ…được xây dựng để thúc đẩy giao lưu buôn bán. Sự đóng
góp của cơ sở hạ tầng nông thôn trong xóa đói giảm nghèo đã được minh chứng qua
những thành quả của dự án ngành cơ sở hạ tầng nông thôn (RISP) do ADB tài trợ
trong những năm 1998-2004. Các báo cáo đánh giá và kết thúc dự án cho thấy tỉ lệ
nghèo trong vùng có tiểu dự án giảm đáng kể và một trong số những lợi ích khác đó
chính là thu nhập hộ gia đình tăng bình quân trên 40%.
Khi các cơ sở hạ tầng nông thôn được cải thiện thì nó sẽ mang lại những lợi
ích tổng thể cho dân cư đó là:
- Tăng khả năng đưa hàng hóa ra chợ và mở rộng sản xuất nông nghiệp.
6
22
Trương Thị Bích Ngọc Lớp QTKD – TT2
- Tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội và các công trình công ích như
trạm y tế và trường học.
- Tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đa dạng hóa sinh kế và các nguồn

thu nhập.
- Tăng cường sự tham gia của người nghèo vào các hoạt động kinh tế, giảm tỉ
lệ nhiễm bệnh do sử dụng nguồn nước không an toàn và một số bệnh tật khác.
- Thúc đẩy giao lưu buôn bán và trao đổi thông tin.
- Góp phần trong công tác xóa đói giảm nghèo
1.2.2.4. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn ở miền núi
phía Bắc
Ở nhiều nước trong đó có Việt Nam, thực tế đã khẳng định rằng khi cơ sở hạ
tầng nông thôn được cải thiện sẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và mang lại lợi ích
kinh tế cho nông dân, cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như y tế và
giáo dục, tăng cường trao đổi mua bán, mang lại thêm nhiều cơ hội tạo thu nhập phi
nông nghiệp và giảm áp lực lên những vùng nhạy cảm về sinh thái. Ngoài ra, mối
liên quan giữa nghèo đói và cơ sở hạ tầng nông thôn yếu kém cũng đã được minh
chứng rõ ràng. Ở Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển khác có cùng tình
trạng CSHT nông thôn yếu kém, tỉ lệ nghèo rõ ràng cao hơn hẳn những nước có
CSHT hoàn chỉnh gồm mạng lưới đường giao thông, hệ thống thủy lợi, trạm cấp
nước sạch và các chợ, v.v. được xây dựng để thúc đẩy giao lưu buôn bán. Sự đóng
góp của CSHT nông thôn trong xóa đói giảm nghèo đã được minh chứng qua những
thành quả của dự án ngành CSHT nông thôn (RISP) do ADB tài trợ trong những
năm 1998 – 2004. Các báo cáo đánh giá và kết thúc dự án cho thấy tỉ lệ nghèo trong
vùng có tiểu dự án giảm đáng kể, và một trong số nhiều lợi ích khác chính là thu
nhập hộ gia đình tăng bình quân trên 40%.
Kết quả khảo sát hệ thống CSHT nông thôn ở các tỉnh miền núi phía Bắc
tham gia dự án khẳng định rằng – (i) đầu tư thêm cho CSHT nông thôn là một yêu
cầu bắt buộc; và (ii) nhiều CSHT hiện nay cần cải tạo nâng cấp. Ở tất cả các tỉnh
tham gia dự án, tỉ lệ đường giao thông cấp huyện đã được trải nhựa hoặc thảm bê
23

×