Tải bản đầy đủ (.doc) (138 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT ĐẾN MÔI TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI THỊ XÃ TỪ SƠN TỈNH BẮC NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.6 MB, 138 trang )

1 | P a g e
1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của vấn đề
Đất đai là tài nguyên của mỗi quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn
phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, an ninh và quốc
phòng. Việc quản lý sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên đất là mục tiêu của
mọi quốc gia.
Vấn đề quản lý và sử dụng đất đai đã có những ảnh hưởng lớn đối với
sự phát triển KTXH. Trong quản lý, sử dụng đất đai, việc chuyển đổi cơ cấu
sử dụng đất quyết định đến tốc độ phát triển KTXH và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế giữa các ngành nghề. Tốc độ tăng trưởng KTXH hàng năm cao, giá trị
sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ chiếm phần lớn trong
nền kinh tế cho thấy diện tích đất sử dụng trong các ngành này tăng lên đáng
kể đã xâm lấn vào quỹ đất nông nghiệp. Việc quản lý, sử dụng đất đai,
chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở nhiều địa phương đã thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhưng nó cũng có tác động mạnh mẽ đến những vấn đề xã hội và bảo
vệ môi trường.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008 Thủ tướng Chính phủ có Nghị định số 01/QĐ-
CP về việc thành lập thị xã Từ Sơn, với 7 phường và 5 xã. Thị xã Từ Sơn được
thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích của huyện Từ Sơn, với 12 đơn vị hành
1
2 | P a g e
chính bao gồm các phường: Đồng Kỵ, Trang Hạ, Đồng Nguyên, Đình Bảng,
Tân Hồng, Châu Khê, Đông Ngàn và các xã: Tam Sơn, Tương Giang, Hương
Mạc, Phù Khê, Phù Chẩn.
Thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh nằm ở vị trí địa lý rất thuận lợi: Cách không
xa các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là khu tam giác kinh tế trọng điểm phía
Bắc: Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, đó là lợi thế cho Từ Sơn trong quá trình
sản xuất và phát triển. Cùng với sự phát triển chung của tỉnh Bắc Ninh, quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của thị xã phát triển


mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 21,05%.
Nhìn chung tình hình quản lý, sử dụng đất đai cơ bản thực hiện theo Luật
đất đai, từng bước tuyên truyền hướng dẫn cho các đối tượng sử dụng đất hiểu
rõ về Luật đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất để họ yên tâm và có
kế hoạch sử dụng đất đai đúng mục đích, đúng pháp luật.
Tuy vậy việc quản lý đất đai chưa thật chặt chẽ, còn tình trạng lấn chiếm
đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất sai nguyên tắc còn xảy ra ở một số nơi.
Việc triển khai lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giải quyết khiếu nại tố cáo
về tranh chấp đất đai còn chậm.
Tốc độ công nghiệp hóa hiện đại hóa, quá trình đô thị hóa trên địa bàn thị
xã Từ Sơn diễn ra rất mạnh mẽ nhất là từ năm 2003 đến nay. Diện tích đất nông
nghiệp bị chuyển sang phi nông nghiệp là 972,77 ha để xây dựng các khu công
nghiệp (KCN), khu đô thị mới, kiến thiết cơ sở hạ tầng. Việc chuyển đất nông
2
3 | P a g e
nghiệp sang phi nông nghiệp đã góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên địa bàn thị xã. Tuy nhiên nó cũng gây tác động không nhỏ đến
những vấn đề xã hội và môi trường như:
- Ảnh hưởng đến đời sống người dân có đất bị thu hồi.
- Ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực.
- Ảnh hưởng đến môi trường sống và tính bền vững trong quá trình phát
triển.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Đánh giá tác động xã hội và môi trường trong quản lý sử dụng đất thị xã Từ
Sơn tỉnh Bắc Ninh”.
3
4 | P a g e
1.2 Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá tác động của việc quản lý đất đai, chuyển mục đích sử dụng đất
đến tình hình phát triển kinh tế xã hội (KTXH) thị xã Từ Sơn nhằm phát hiện

những vấn đề ảnh hưởng bất lợi đến đời sống người dân để có giải pháp khắc
phục.
- Đánh giá tác động của việc chuyển mục đích sử dụng đất hình thành
các dự án xây dựng các khu công nghiệp, làng nghề đến môi trường, nhằm góp
phần giảm thiểu ô nhiễm trên địa bàn thị xã.
4
5 | P a g e
2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Tổng quan về đánh giá tác động xã hội
2.1.1 Những lý luận cơ bản về đánh giá tác động xã hội
Đánh giá tác động xã hội là việc phân tích có hệ thống các tác động có thể
về mặt xã hội của một hành động đối với cuộc sống thường nhật của con người
hay cộng đồng. Đánh giá tác động xã hội là một việc cần thiết khi xem xét, nhận
định về các mục tiêu KTXH của các dự án, phương án quy hoạch.
Đánh giá tác động xã hội bao hàm một loạt các chu trình và quá trình để
đưa khía cạnh xã hội vào các dự án phát triển. Đánh giá tác động xã hội được
tiến hành để đề phòng các ảnh hưởng nghiêm trọng đối với đời sống con người
trong khu vực của dự án. Đối với ảnh hưởng xấu sẽ đưa ra các biện pháp giảm
thiểu và phòng tránh [2].
Đánh giá tác động xã hội có thể định nghĩa là đánh giá tác động chuyên
ngành liên quan đến đánh giá những thay đổi trong cấu trúc và chức năng của
trật tự xã hội. Đặc biệt là những thay đổi mà việc phát triển có thể tạo ra trong
quan hệ xã hội, trong cộng đồng (dân số, cấu trúc, tính ổn định và các thông số
khác), trong chất lượng và lối sống, ngôn ngữ và tập quán. Như một đánh giá
chuyên ngành, Đánh giá tác động xã hội giải quyết một cách tổng thể quá trình
và phương pháp liên kết các giá trị xã hội vào việc xây dựng dự án [1].
2.1.2 Mục đích và nguyên tắc đánh giá tác động xã hội.
5
6 | P a g e
2.1.2.1 Mục đích đánh giá tác động xã hội.

- Đánh giá tác động xã hội có mục đích xác định giá trị và lợi nhuận về
mặt xã hội của dự án được phân bổ như thế nào trong xã hội.
- Xác định các tác động của một hoạt động cụ thể (giao đất, thu hồi đất khi
thực hiện dự án quy hoạch chuyển mục đích sử dụng đất) đối với một cộng đồng
dân cư về những chi phí và lợi ích của dự án (về mặt xã hội) nhằm tránh được
những tác động bất lợi đến các nhóm lợi ích khác nhau của cộng đồng dân cư.
2.1.2.2 Nguyên tắc đánh giá tác động xã hội
- Tham gia của nhiều nhóm xã hội: xác định và đưa tất cả các cộng đồng
và các cá nhân chịu ảnh hưởng của dự án phát triển tham gia vào quá trình đánh
giá.
- Phân tích các tác động đến cộng đồng và cá nhân một cách cân bằng: xác
định một cách rõ ràng những cá nhân và tập thể được hưởng lợi, những cá nhân và
tập thể chịu thiệt thòi và những cá nhân và tập thể dễ bị tổn thương nhất khi triển
khai dự án quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ), cũng như các dự án khác.
- Đánh giá có trọng tâm: tập trung vào đánh giá những vấn đề quan trọng
nhất, không chỉ tập trung vào đánh giá những tác động dễ định lượng hóa, mà
còn phải phân tích kỹ cả khía cạnh định tính.
- Xác định các phương pháp, các giả thiết và cách định nghĩa về ý nghĩa
của các tác động: trình bày cách đánh giá tác động xã hội, các giả thiết được sử
dụng và cách xác định ý nghĩa của các tác động.
6
7 | P a g e
- Cung cấp kết quả đánh giá tác động xã hội cho các nhà quy hoạch: xác
định các vấn đề xã hội quan trọng mà khi giải quyết chúng cần thiết phải thay
đổi thiết kế và công nghệ hay thay đổi phương án của dự án quy hoạch.
- Đưa đánh giá tác động xã hội vào thực tiễn: Hướng dẫn các nhà xã hội
học các phương pháp đánh giá tác động xã hội.
- Soạn thảo chương trình giám sát và giảm thiểu: quản lý các tác động dự
báo chưa chắc chắn bằng cách giám sát và thực hiện các biện pháp giảm thiểu.
- Xác định nguồn gốc của số liệu: Sử dụng các tài liệu đã được xuất bản,

các bản báo cáo và tài liệu gốc của các vùng bị tác động.
- Kế hoạch khắc phục các thiếu sót của số liệu: Đánh giá các hạn chế của
số liệu và lập kế hoạch bổ sung.
2.1.3 Ảnh hưởng của việc quản lý sử dụng đất đai, thực hiện phương án
QHSDĐ đến những vấn đề xã hội
2.1.3.1 Vấn đề bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tác động
đến cộng đồng dân cư
a. Tác động đến nơi ở của người dân
Theo quy định của pháp luật về đất đai, người bị thu hồi đất đang sử dụng
vào mục đích nào đó thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục
đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị
quyền sử dụng đất tại thời điểm có đất bị thu hồi. Kết quả điều tra của Bộ Tài
nguyên và Môi trường cho thấy hầu hết các hộ dân bị thu hồi đất sản xuất nông
7
8 | P a g e
nghiệp, đất lâm nghiệp đều được bồi thường bằng tiền vì các địa phương không
còn quỹ đất để bồi thường [3].
Về công tác tái định cư, quy định của Luật đất đai năm 1993 không bắt
buộc việc phải xây dựng khu tái định cư trước khi Nhà nước thu hồi đất nên các
khu tái định cư cho các hộ dân phải di dời ra khỏi KCN thường được xây dựng
rất chậm.
Theo kết quả điều tra, đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường năm
2006: KCN Tam Phước tại tỉnh Đồng Nai có quyết định thu hồi đất năm 2003
đã xây dựng xong và có tỷ lệ lấp đầy 100% nhưng cho đến thời điểm năm 2005
vẫn chưa xây dựng xong hạ tầng khu tái định cư; tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu có 06
KCN (05 khu xây dựng tập trung tại huyện Tân Thành), trong đó có những khu
đã được Thủ tướng chính phủ quyết định thu hồi đất từ năm 1998 nhưng đến
năm 2005 mới chỉ có một khu tái định cư đang xây dựng dở dang. Tại nhiều dự
án người dân có đất bị thu hồi chấp thuận phương án bồi thường, sẵn sàng giao
lại mặt bằng cho nhà nước nhưng khi hỏi về chỗ sau khi di dời thì các cơ quan

có thẩm quyền của địa phương không chỉ ra được khu tái định cư. Tình trạng
này xảy ra khá phổ biến ở các tỉnh thành phố đã tiến hành điều tra. Để khắc phục
tình trạng trên, một số tỉnh như Long An, Bà Rịa Vũng Tàu, thành phố Đà
Nẵng đã đưa ra giải pháp làm nhà tạm (thường là lợp bằng tôn hoặc bằng tấm
lợp xi măng) cho các hộ dân đến ở tạm khi chưa có khu tái định cư hoặc hỗ trợ
một khoản tiền từ 500.000 đồng/hộ đến 700.000 đồng/hộ trong khoảng thời gian
8
9 | P a g e
06 tháng để người dân tự đi thuê chỗ ở tạm. Giải pháp này không được người
dân đồng tình và không đảm bảo quyền lợi của nhân dân, làm chậm tiến độ giải
phóng mặt bằng để thực hiện dự án [3].
Đối với những nơi đã xây dựng được khu tái định cư thì giá đất ở, giá nhà
ở tại khu tái định cư thường cao hơn nhiều so với giá bồi thường về đất ở, nhà ở
tại nơi ở cũ (do khu tái định cư được xây dựng mới với hệ thống hạ tầng đồng
bộ). Người có đất bị thu hồi muốn đến ở tại khu tái định cư phải bỏ thêm một
khoản tiền không nhỏ (từ vài chục triệu đồng đến vài cả trăm triệu đồng) mà
không phải hộ gia đình nào cũng có điều kiện. Vì vậy, nhiều hộ dân sau khi
nhận đất tái định cư đã chuyển nhượng cho người khác để lấy tiền chênh lệch và
tự tìm chỗ ở tại khu vực khác có giá thấp hơn [3].
Theo báo Thanh Niên số ra ngày 12-9-2005 có bài viết về “Nhà tái định
cư phục vụ giải phóng mặt bằng đường vành đai 1 đoạn Kim Liên- Ô Chợ Dừa
ở Hà Nội”: Nhận nhà mới, người dân không còn phải sống trong tâm trạng “đi
cũng dở, ở không xong” như gần 10 năm qua. Nhưng thời điểm Công ty nhà ở
số 3 giao nhà, không ít người dân lại lo lắng. Hai khu chung cư cao tầng 13 tầng
này vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện, đường nội bộ chưa trải nhựa xong. Hạ
tầng xã hội như trường học, nhà trẻ, vườn hoa chưa có gì. Thực chất khu chung
cư đang xây dựng theo quy trình ngược: xây nhà trước, xây hạ tầng sau [22].
Tuy nhiên, việc triển khai các khu tái định cư còn lúng túng và chậm về
thủ tục duyệt dự án, thẩm định thiết kế kỹ thuật dự toán, đấu thầu còn mất nhiều
9

10 | P a g e
thời gian. Có nơi đất đã được thu hồi một vài năm sau mới triển khai khu tái
định cư như Ban quản lý dự án Thăng Long cho đường vành đai III và cầu
Thanh Trì, Ban quản lý CDA trọng điểm (56 ha Trung Yên), Ban quản lý dự án
giao thông công chính (khu dân cư Đồng Tầu) [14]. Việc tiến hành bàn giao
quản lý, quỹ nhà tái định cư chưa được đổi mới, chưa tập trung theo dõi tập hợp
quản lý, còn phát sinh nhiều khó khăn trong việc tổ chức quản lý khu nhà tái
định cư sau khi đưa các hộ dân vào.
Theo báo Nhân Dân ra ngày 11-5-2005 đăng bài: “Đời sống và việc làm
của nông dân những vùng bị thu hồi đất” của Trần Khâm và Trung Chính, có
đoạn mô tả đời sống “một có, bốn không” của người dân sống ở khu tái định cư
Đồng Rướn, thôn Đông Lỗ, xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
(phục vụ xây dựng khu kinh tế Dung Quất) như: một có là có được ngôi nhà
tường xây, lợp ngói, còn bốn không là: không trạm y tế, không chợ, không
trường học và không nước sạch [9].
b. Tác động đến đời sống, việc làm của người dân có đất bị thu hồi
Đây là việc làm vô cùng quan trọng đối với người dân có đất bị thu hồi,
trong thực tế quá trình đô thị hoá, kinh tế ở các đô thị mới tăng trưởng nhanh
chóng nhờ sự tập trung lực lượng sản xuất tạo ra năng suất lao động cao, cách tổ
chức lao động hiện đại. Do đó quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị cũng tạo cơ
hội để tăng việc làm ở các đô thị. Từ góc độ lao động và việc làm từ các hoạt
động nông nghiệp sang các hoạt động công nghiệp và thương mại dịch vụ.
10
11 | P a g e
Những người nông dân trước đây gắn bó với ruộng vườn, sau khi trở thành dân
cư đô thị, họ bị mất phần lớn ruộng đất canh tác. Với số tiền được Nhà nước đền
bù hoặc tiền bán đất cho dân cư mới, họ dùng để tạo nghề mới, tìm việc làm
mới và nhiều vấn đề khác cũng thay đổi. Sự phát triển của các đô thị một mặt
tạo ra một lượng lớn việc làm cho lao động tại đô thị, đồng thời thu hút và làm
giảm đáng kể lực lượng lao động nông nhàn ở các vùng nông thôn, kém phát

triển, góp phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này. Tuy nhiên nhìn từ
góc độ khác thì gia tăng quy mô thành phố bằng giải pháp mở rộng không gian,
hình thành các quận, phường mới sẽ làm một phần lớn lực lượng lao động nông
nghiệp ở vùng đô thị hoá mất việc và dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng.
Nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của nông dân bị
thu hồi đất một phần là do sự phát triển của các ngành công nghiệp và thương
mại- dịch vụ chưa đáp ứng đủ nhu cầu giải quyết việc làm cho người dân. Mặt
khác, do chính bản thân người lao động, vốn xuất phát từ nông dân, có nhiều
hạn chế về năng lực và trình độ văn hoá cũng như trình độ chuyên môn nghề
nghiệp, chưa thích ứng được với công việc mới, không đáp ứng được nhu cầu
thị trường lao động. Hiện nay, tại nhiều đô thị đã xây dựng các trung tâm giáo
dục thường xuyên trung tâm dạy nghề nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu đào tạo
và giải quyết việc làm cho người lao động.
Việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống, việc làm của người dân bị thu hồi đất. Theo kết quả điều tra của
11
12 | P a g e
Bộ Tài nguyên và Môi trường tại một số tỉnh, thành phố thuộc các vùng kinh tế
trọng điểm thì trung bình cứ mỗi hộ dân bị thu hồi đất có 1,5 lao động bị mất
việc làm. Một số địa phương như Hà Nội, chỉ tính trong giai đoạn 3 năm từ năm
2001 đến năm 2004 đã có gần 80.000 lao động bị mất việc làm. Tính đến hết
năm 2005, Hà Nội có khoảng 200.000 người thất nghiệp do mất đất sản xuất [3].
Trước khi bị thu hồi đất, phần lớn người dân đều có cuộc sống ổn định vì
họ có đất sản xuất, có tư liệu sản xuất mà đất sản xuất, tư liệu sản xuất đã được
để thừa kế từ thế hệ này sang các thế hệ khác. Sau khi bị thu hồi đất, đặc biệt là
những hộ nông dân bị thu hồi hết đất sản xuất, điều kiện sống và sản xuất của họ
bị thay đổi hoàn toàn. Mặc dù nông dân được giải quyết bồi thường bằng tiền,
song họ vẫn chưa định hướng ngay được những ngành nghề hợp lý để có thể ổn
định được cuộc sống. Tình trạng này tập trung ở lứa tuổi từ 30 tới 50, là lứa tuổi
còn sức lao động nhưng khó đào tạo tiếp để có việc làm phù hợp tại các KCN.

Sau khi nhận tiền bồi thường, đa số các hộ dân sử dụng tiền để sửa chữa
nhà cửa, mua sắm dụng cụ sinh hoạt, một số chuyển sang kinh doanh dịch vụ
phi nông nghiệp, một số gửi tiết kiệm, một số trường hợp sử dụng tiền để rượu
chè, cờ bạc gây ra các tệ nạn xã hội. Đặc biệt với các gia đình nông dân bị thu
hồi hết đất nông nghiệp mà không tạo được công ăn việc làm mới thì chỉ sau vài
năm sẽ lâm vào hoàn cảnh khó khăn.
Trong quá trình xây dựng, phát triển các KCN, một số địa phương đã có
quy định cụ thể về chính sách tuyển dụng lao động để giải quyết công ăn việc
12
13 | P a g e
làm cho người có đất bị thu hồi. Ví dụ, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Hưng
Yên quy định cứ sử dụng 360 m
2
đất nông nghiệp thì phải tuyển dụng một lao
động, trường hợp không tuyển lao động thì hộ gia đình có đất bị thu hồi được
nhận thêm 12.000 đồng/1m
2
để chuyển đổi nghề nghiệp, UBND thành Hà Nội
quy định nhà đầu tư cứ sử dụng 1ha đất nông nghiệp để chuyển sang xây dựng
KCN thì phải có trách nhiệm tuyển dụng từ 10 đến 15 lao động nông nghiệp tại
địa phương. Phần lớn nông dân có trình độ văn hóa, chuyên môn, kỹ thuật thấp
(đặc biệt đối với lao động thuần nông ở độ tuổi trên 30) nên tỷ lệ lao động bị thu
hồi đất được tuyển dụng vào các cơ sở sản xuất kinh doanh không lớn. Ví dụ, tỷ
lệ lao động qua đào tạo ở khu vực nông nghiệp, nông thôn của Lạng Sơn chỉ
chiếm 2,17% tổng số lao động; tại Hà Nội, lao động có trình độ chuyên môn từ
trung cấp trở lên chỉ là 1,5%. Việc đào tạo nghề đối với lao động ở lứa tuổi trên
30 là rất khó khăn. Trên thực tế, các nhà đầu tư chỉ tuyển dụng được từ 5% đến
10% số lao động tại địa phương, chủ yếu ở độ tuổi dưới 30. Một số doanh
nghiệp có tuyển dụng lao động của địa phương nhưng thường chỉ bố trí vào vị
trí lao động đơn giản có thu nhập thấp. Vì vậy, một thời gian sau các lao động

này tự xin thôi việc để tìm việc ở nơi khác có thu nhập cao hơn [3].
Theo kết quả điều tra xã hội học do Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến
hành năm 2005: Các hộ bị thu hồi đất được bồi thường chủ yếu bằng tiền còn số
hộ được bồi thường bằng đất sản xuất nông nghiệp và bồi thường bằng nhà ở,
đất ở là nhỏ. Sau khi được bồi thường, số hộ sống bằng nghề nông nghiệp chỉ
13
14 | P a g e
còn 54% (giảm 34% so với trước khi bị thu hồi đất), số hộ sống bằng nghề phi
nông nghiệp là 15% (tăng 14% so với trước khi bị thu hồi đất). Sau khi bị thu
hồi đất chỉ có 34,7% số hộ đánh giá là đời sống có tốt hơn trước, 42,3% số hộ
cho rằng đời sống không có gì cải thiện và số hộ còn lại (23%) khẳng định đời
sống của họ kém đi so với trước khi bị thu hồi đất. Như vậy, có đến trên 65% số
hộ dân được điều tra khẳng định đời sống của hộ kém đi hoặc không có gì cải
thiện hơn sau khi Nhà nước thu hồi đất để chuyển sang xây dựng các KCN, khu
đô thị mới và các dự án phát triển KTXH tại các địa phương [3].
c. Đào tạo nghề cho những người bị thu hồi đất
Từ người nông dân sản xuất nông nghiệp, khi đất đai bị thu hồi, họ phải
chuyển đổi nghề nghiệp. Do đó, vấn đề đào tạo nghề cho người lao động là một
vấn đề quan trọng. Lao động công nghiệp và dịch vụ là lao động đòi hỏi phải có
tay nghề, chuyên môn và nghiệp vụ, nói cách khác là phải được đào tạo bài bản.
Song, dường như lao động nông thôn ở nước ta gần như chưa được đào tạo gì.
Theo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp do Tổng cục Thống kê công bố
năm 2004, cả nước có 93% lao động nông thôn chưa qua đào tạo, chỉ có 2,3%
lao động được đào tạo tay nghề theo trình độ sơ cấp hoặc công nhân kỹ thuật,
0,8% có trình độ cao đẳng, 0,7% có trình độ đại học và tương đương [13]. Vì
vậy, các KCN thu hút được rất ít lao động nông thôn.
Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã có những quy định cụ thể về việc
hỗ trợ cho những người dân bị thu hồi đất trong việc đào tạo nghề mới và
14
15 | P a g e

chuyển đổi nghề nghiệp, nhằm giúp họ sớm tìm được việc làm ổn định với thu
nhập tương đối khá hơn so với làm nông nghiệp [5]. Ngoài quy định của Chính
phủ, nhiều địa phương cũng có những quy định bổ sung nhằm tạo thêm điều
kiện cho người lao động đi học nghề và chuyển đổi nghề nghiệp. Chẳng hạn,
tỉnh Hà Nam ngoài biện pháp hỗ trợ tạo việc làm còn dồn kinh phí đầu tư vào
các dự án vay vốn hỗ trợ việc làm. Tỉnh Hải Dương thực hiện chính sách đào tạo
miễn phí cho lao động bị thu hồi đất, hoặc Bình Dương mở hệ thống đào tạo
nghề xuống tận huyện, xã
Tuy nhiên thực tiễn về giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất lại
diễn ra không hoàn toàn như vậy. Số người được đào tạo nghề, được giải quyết
việc làm tại các KCN là rất ít.
Ở Hà Nội phần lớn lao động ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp hầu hết là lao động phổ thông, trình độ học vấn thấp, chưa qua đào
tạo chuyên môn kỹ thuật. Ở Hà Nội có tới 76,2% những người bị thu hồi đất
được phỏng vấn là chưa qua đào tạo. Số liệu này đã cho thấy một xu hướng
chung, khó khăn chung đối với tất cả các đối tượng lao động bị thu hồi đất khi đi
tìm việc làm mới: không tìm được việc làm phù hợp. Sự phù hợp ở đây chủ yếu
là do cung không đáp ứng được cầu về mặt chất lượng, do người lao động không
đáp ứng được những yêu cầu của nhà tuyển dụng về trình độ chuyên môn. Điều
này dẫn đến thực trạng nhiều doanh nghiệp mặc dù trong dự án có cam kết tuyển
dụng lao động địa phương vào làm việc song đã phải tuyển dụng từ nơi khác để
15
16 | P a g e
đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Mặt khác, bản thân người lao động chưa được các
cấp chính quyền thông tin, tuyên truyền đầy đủ về kế hoạch, QHSDĐ, khiến
người lao động bị động, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong việc
định hướng cho người dân học nghề, chuyển đổi nghề phù hợp sau khi bị thu hồi
đất sản xuất [14].
Như vậy, vấn đề bất cập hiện nay là công tác quy hoạch ở vùng chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp chưa gắn với chế độ chuyển đổi nghề

nghiệp cho người lao động, việc tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ chưa
thiết thực và đồng bộ; nguồn lực hỗ trợ dạy nghề tạo việc làm cho khu vực
chuyển đổi chưa được đầu tư thích đáng. Với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, mở rộng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị thì việc chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trong thời gian tới vẫn sẽ tiếp tục gia
tăng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chuyển đổi ồ ạt mà phải phù hợp
với quy hoạch phát triển KTXH và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động.
2.1.3.2 Việc chuyển mục đích sử dụng đất ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương
thực
An ninh lương thực đã trở thành vấn đề toàn cầu chứ không riêng gì với
Việt Nam. Vai trò nông nghiệp thế giới đang thay đổi, nông nghiệp không chỉ
cung cấp lương thực thực phẩm cho con người mà còn cung cấp nguyên liệu cho
ngành công nghiệp năng lượng. Nông nghiệp sẽ trở lại là ngành có khả năng
16
17 | P a g e
sinh lợi cao, đặc biệt khi nó kết nối với chuỗi chế biến thực phẩm. Đầu tư lớn
vào nông nghiệp và nông thôn là kế sách lâu dài, chống đỡ lạm phát hữu hiệu và
tạo lập nền tảng cho nền công nghiệp chế biến thực phẩm mạnh.
“An ninh lương thực cần được hiểu và phải bao gồm: đủ lương thực cho
xã hội để không ai bị đói; người làm ra lương thực không bị nghèo đi, dù là
nghèo đi một cách tương đối so với mặt bằng xã hội” [10]. Nếu chỉ nhấn mạnh
về thứ nhất thì sản xuất sớm hay muộn cũng suy giảm, đất trồng lúa sẽ bị suy
giảm. An ninh lương thực chỉ được đảm bảo khi lợi ích của người trồng lúa
được tính đến.
Ngoài những nguyên nhân như thiên tai, dịch bệnh, việc dùng nhiên liệu
sinh học, thì tình trạng đất nông nghiệp đang giảm sút một cách đáng kể ở các
nước đang phát triển là "thủ phạm" chính gây nên cuộc khủng hoảng lương thực
trên toàn cầu. Ngay tại Việt Nam, việc thu hồi đất nông nghiệp không theo quy
hoạch đã khiến những cánh đồng "cò bay thẳng cánh" dần mất đi, làm ảnh

hưởng đến cuộc sống của hàng triệu hộ nông dân và đe doạ trực tiếp đến an ninh
lương thực.
Diện tích đất canh tác của Việt Nam hiện thấp nhất thế giới, chỉ khoảng
0,12 hécta/người trong khi của Thái Lan là 0,3 hécta/người. Xét bình quân, Việt
Nam chỉ hơn được các nước như Hàn Quốc, Băng-la Đét, Ai Cập Chính vì thua
Thái Lan 2,5 lần về diện tích đất nên để tăng sản lượng lúa, lượng phân bón hóa
học sử dụng hàng năm ở nước ta cao gấp 2 lần Thái Lan [20].
17
18 | P a g e
Với diện tích trồng lúa trên 4 triệu ha và sản lượng đạt khoảng 36 triệu
tấn/năm hiện nay thì việc đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam chưa có gì
đáng lo ngại. Hơn nữa, năng suất lúa trung bình có thể được nâng lên trên 6
tấn/ha, và tổng sản lượng gạo có thể đạt mức 40 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, sản
lượng này cũng mới chỉ đảm bảo an ninh lương thực cho dân số khoảng 100
triệu người. Nếu dân số tiếp tục gia tăng (nhiều nghiên cứu cho thấy dân số Việt
Nam sẽ lên tới 120 triệu mới cơ bản ổn định) đi kèm với diện tích đất trồng lúa
giảm thì chắc chắn sẽ xảy ra nguy cơ mất an ninh lương thực. Như vậy, để bảo
đảm ngưỡng an toàn thì đất trồng lúa của Việt Nam cần giữ nguyên như hiện
nay, đồng nghĩa với việc đưa công nghiệp về khu vực trung du, miền núi, lấy
công nghiệp nuôi nông nghiệp là lối đi tất yếu. “Nếu không giữ được một diện
tích trồng lúa ổn định thì sẽ có nguy cơ gây mất an ninh lương thực trong nước
[20].
Điều đáng quan tâm hơn nữa là có những địa phương nhận thức và hành
động không đúng về QHSDĐ đã tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và
đảm bảo an ninh lương thực. Có nơi do nôn nóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đã
dùng đất “bờ xôi ruộng mật” để triển khai các dự án công nghiệp, dịch vụ mà
hiệu quả mang lại không cân xứng.
Sự lãng phí đất nông nghiệp còn thể hiện ở khâu lựa chọn vị trí quy
hoạch: Hai tỉnh liền kề đều quy hoạch KCN trên đất lúa, thu hút các dự án có
công nghệ như nhau nên không thể lấp đầy; trong khi các địa phương khác còn

18
19 | P a g e
rất nhiều đất đồi, đất bạc màu bỏ không.
Đề cập đến vấn đề sửa đổi Luật đất đai năm 2003, Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên đã khẳng định: “Vấn đề quy hoạch
sử dụng đất đảm bảo an ninh lương thực phải được nghiên cứu kỹ và có bổ sung
ngay vào luật” [17].
Bài học từ Philippin cho thấy, để đổi lấy các KCN, nước này đã mất rất
nhiều cánh đồng lúa phì nhiêu, dẫn đến “thảm cảnh” mỗi năm phải nhập 1,5
triệu tấn lương thực. Chính phủ Philippin cũng đã dự định chi 960 triệu USD để
thực hiện một kế hoạch tổng thể mang tên “những cánh đồng” để vực dậy ngành
nông nghiệp. Việt Nam cũng đã mất rất nhiều đất cho công nghiệp và dịch vụ,
nếu không có những điều chỉnh kịp thời, biết đâu đó sẽ là bài học tương lai của
chúng ta [17].
2.2 Tổng quan về đánh giá tác động môi trường
2.2.1 Những lý luận cơ bản về đánh giá tác động môi trường
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) thực chất là một công việc rất mới,
nhưng đã cho được những kết quả lớn. Một số điểm có thể thống nhất được về
công việc này là:
ĐTM là quá trình xác định đánh giá và dự báo ảnh hưởng (cả 2 mặt tốt và
xấu) của hoạt động dự án đến môi trường tự nhiên, KTXH và cụ thể là đến sức
khỏe của con người.
ĐTM còn cố gắng đưa ra biện pháp, nhằm giảm bớt những tác động có
19
20 | P a g e
hại, kể cả việc áp dụng các biện pháp thay thế. “ĐTM hoặc phân tích tác động
môi trường là sự xem xét một cách có hệ thống các hậu quả về môi trường của
các vấn đề dự án, chính sách và chương trình với mục đích chính là cung cấp
cho người ra quyết định một bản liệt kê và tính toán các tác động mà các phương
án hành động khác nhau có thể đem lại”.

- “ĐTM được coi là một kỹ thuật, một quá trình thu thập thông tin về ảnh
hưởng môi trường của một dự án từ người chủ dự án và các nguồn khác, được tính
đến, trong việc ra quyết định cho dự án tiến hành hay không” [11;29].
- Theo Lê Thạc Cán (1994) thì “ĐTM của hoạt động phát triển KT-XH là
xác định, phân tích và dự báo những tác động lợi và hại, trước mắt và lâu dài mà
việc thực hiện hoạt động có thể gây ra cho tài nguyên và môi trường sống của
con người tại nơi có liên quan tới hoạt động, trên cơ sở đã đề xuất các biện pháp
phòng, tránh, khắc phục các tác động tiêu cực” [4].
- “ĐTM là một quá trình nghiên cứu nhằm nhận dạng, dự báo và phân tích
những tác động môi trường có ý nghĩa quan trọng của một dự án và cung cấp
thông tin cần thiết để nâng cao chất lượng của việc ra quyết định. ĐTM được sử
dụng để phòng ngừa và làm giảm thiểu những tác động tiêu cực, phát huy các
tác động tích cực và đồng thời hỗ trợ cho việc sử dụng hợp lý tiềm năng tài
nguyên và qua đó làm tăng tối đa lợi ích của các dự án phát triển KTXH góp
phần vào phát triển bền vững một quốc gia” [1].
- Trong Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam, ĐTM được định nghĩa
20
21 | P a g e
như sau: “ĐTM là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi
trường của các dự án, quy hoạch phát triển KTXH, của các cơ sở sản xuất kinh
doanh, công trình kinh tế, khoa học, kỹ thuật, y tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc
phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp thích hợp để bảo vệ môi
trường” [19].
Qua các định nghĩa trên ta có thể thấy được sự nhất trí về mục đích và bản
chất của ĐTM.
2.2.2 Quan điểm, mục tiêu, đối tượng đánh giá tác động môi trường trong
việc quản lý, sử dụng đất.
2.2.2.1 Quan điểm, mục tiêu của ĐTM
ĐTM có thể đạt được nhiều mục đích, Alan Gilpin [29] đã chỉ ra vai trò
và mục tiêu ĐTM trong xã hội với nhiều điểm chính sau:

(1) ĐTM nhằm cung cấp một quy trình xem xét tất cả các tác động có hại
đến môi trường của các chính sách, chương trình, hoạt động và của các dự án.
Nó góp phần loại trừ cách “đóng cửa” ra quyết định, như vẫn thường làm trước
đây, không tính đến ảnh hưởng môi trường trong các khu vực công cộng và tư
nhân.
(2) ĐTM tạo ra cơ hội để có thể trình bày với người ra quyết định về tính
phù hợp của chính sách, chương trình, hoạt động, dự án về mặt môi trường để ra
quyết định có tiếp tục thực hiện hay không.
(3) Đối với các chương trình, chính sách, hoạt động, dự án được chấp
21
22 | P a g e
nhận thực hiện thì ĐTM tạo ra cơ hội trình bày sự phối kết hợp các điều kiện có
thể giảm nhẹ tác động có hại tới môi trường.
(4) ĐTM tạo ra phương thức để cộng đồng có thể đóng góp cho quá trình
ra quyết định thông qua các đề nghị bằng văn bản hoặc ý kiến gửi tới người ra
quyết định. Công chúng có thể tham gia vào quá trình này trong các cuộc họp
công khai hoặc trong việc hòa giải giữa các bên (thường là bên gây tác động và
bên chịu tác động).
(5) Với ĐTM, toàn bộ quá trình phát triển được công khai để xem xét một
cách đồng thời lợi ích của tất cả các bên: Bên đề xuất dự án, Chính phủ và cộng
đồng. Điều đó góp phần lựa chọn được dự án tốt hơn để thực hiện.
(6) Những dự án mà về cơ bản không đạt yêu cầu hoặc đặt sai vị trí thì có
xu hướng tự loại trừ, không phải thực hiện ĐTM và tất nhiên là không cần cả
đến sự chất vấn của công chúng.
(7) Thông qua ĐTM, nhiều dự án được chấp nhận nhưng phải thực hiện
những điều kiện nhất định, chẳng hạn chủ dự án phải đảm bảo quá trình đo đạc,
giám sát, lập báo cáo hàng năm hoặc phải có phân tích sau dự án và kiểm toán
độc lập.
(8) Trong ĐTM phải xét đến các khả năng thay thế, chẳng hạn như công
nghệ, địa điểm đặt dự án phải được xem xét hết sức cẩn thận.

(9) ĐTM được coi là công cụ phục vụ phát triển khuyến khích phát triển
tốt hơn và trợ giúp cho tăng trưởng kinh tế.
22
23 | P a g e
(10) Trong nhiều trường hợp, ĐTM chấp nhận sự phát thải, kể cả phát thải
khí nhà kính cũng như việc sử dụng không hợp lý tài nguyên ở mức độ nào đấy
nghĩa là chấp nhận phát triển, tăng trưởng kinh tế.
2.2.2.2 Ý nghĩa của ĐTM
Nếu làm được ĐTM tốt thì người quản lý môi trường phải tốt, quản lý môi
trường tốt thì công việc giữ gìn, bảo vệ môi trường sẽ tốt, đặc biệt là trong tương
lai. Điều đó được thể hiện qua một số điểm cụ thể sau:
ĐTM khuyến khích công tác quy hoạch tốt hơn. Việc xem xét kỹ lưỡng
dự án và những dự án có khả năng thay thế từ công tác ĐTM sẽ giúp cho dự án
hoạt động có hiệu quả hơn.
ĐTM có thể tiết kiệm được thời gian và tiền của trong thời hạn phát triển
lâu dài. Qua các nhân tố môi trường tổng hợp, được xem xét đến trong quá trình
ra quyết định ở giai đoạn quy hoạch mà các cơ sở và Chính phủ tránh được
những chi phí không cần thiết, đôi khi tránh được những hoạt động sai lầm, phải
khắc phục trong tương lai.
ĐTM giúp cho Nhà nước, các cơ sở và cộng đồng có mối liên hệ chặt chẽ
hơn. Các đóng góp của cộng đồng trước khi dự án được đầu tư. Thực hiện công
tác ĐTM tốt có thể đóng góp cho sự phát triển thịnh vượng trong tương lai.
Thông qua các kiến nghị của ĐTM, việc sử dụng tài nguyên sẽ thận trọng hơn
và giảm được sự đe dọa của suy thoái môi trường đến sức khỏe con người và hệ
sinh thái.
23
24 | P a g e
2.2.2.3 Đối tượng của ĐTM
Đối tượng của ĐTM thường gặp và có số lượng nhiều nhất là các dự án
phát triển cụ thể. Những đối tượng đó có thể là: Một số bệnh viện lớn, nhà máy

công nghiệp; công trình thủy lợi, thủy điện; công trình xây dựng đường xá. Tất
nhiên không phải tất cả các dự án đều phải tiến hành ĐTM như nhau. Mỗi quốc
gia, căn cứ vào những điều kiện cụ thể, loại dự án, quy mô dự án, khả năng gây
tác động, mà có quy định mức độ đánh giá đối với mỗi dự án cụ thể. Các tổ
chức quốc tế cũng phân loại dự án theo yêu cầu ĐTM. Chẳng hạn, Ngân hàng
phát triển Châu Á chia các dự án thành 3 nhóm.
- Nhóm A: Là những dự án nhất thiết phải tiến hành ĐTM đầy đủ, nghĩa
là phải lập, duyệt báo cáo ĐTM và kiểm soát sau khi dự án đã đi vào hoạt động.
Thuộc về nhóm này là những dự án có thể gây tác động lớn làm thay đổi các
thành phần môi trường, cả môi trường xã hội, vật lý và sinh học.
- Nhóm B: Không cần tiến hành ĐTM đầy đủ nhưng phải kiểm tra các tác
động môi trường. Thường thì những dự án thuộc nhóm này là dự án có quy mô
nhỏ hơn các dự án thuộc nhóm A, chẳng hạn nhà máy nhiệt điện quy mô lớn
thuộc nhóm A, còn quy mô vừa và nhỏ thuộc nhóm B.
- Nhóm C: Là nhóm các dự án không phải tiến hành ĐTM. Thường thì
những dự án này không gây tác hại đáng kể hoặc những tác động có thể khắc
phục được [11].
2.2.3 Các phương pháp đánh giá tác động môi trường đã và đang thực hiện
24
25 | P a g e
2.2.3.1 Phương pháp danh mục các điều kiện môi trường.
Phương pháp danh mục các điều kiện môi trường là phương pháp được sử
dụng khá rộng rãi, nó có vai trò rất lớn để làm rõ tác động xảy ra. Phương pháp
danh mục thường dựa trên cơ sở các danh mục đặc trưng và các danh mục được
phân chia theo mức độ phức tạp.
Nguyên tắc thực hiện là: liệt kê một danh mục tất cả mọi yếu tố môi
trường liên quan đến hoạt động phát triển cần đánh giá. Gửi danh mục đến các
chuyên gia hoặc tổ chức lấy ý kiến đánh giá.
* Phương pháp danh mục câu hỏi: phương pháp này được sử dụng bằng
cách xây dựng câu hỏi, phiếu trả lời sẽ nhận được từ chuyên gia và cả ở cộng

đồng, từ đó tổng hợp đánh giá.
* Phương pháp danh mục có ghi trọng số: Phương pháp này trong danh
mục tác động có mức độ tác động như phương pháp trước, ngoài ra còn có thêm
trọng số (hay mức độ quan trọng của từng yếu tố môi trường chịu tác động vào).
Ở đây ta tiến hành cho điểm về chất lượng và mức độ quan trọng của các yếu tố.
Tiếp theo có thể tổng hợp mọi yếu tố lại thành chỉ số để đánh giá tác động.
2.2.3.2 Phương pháp ma trận môi trường
Đây là phương pháp phối hợp liệt kê các hành động của hoạt động phát
triển (hay hành động của dự án) và liệt kê các yếu tố môi trường (chỉ tiêu môi
trường) có thể bị tác động và đưa vào một ma trận. Tiến hành đánh giá.
* Phương pháp ma trận đơn giản (định tính và bán định lượng)
25

×