Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ tai lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động tham gia BHXH Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.08 KB, 94 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A- LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm trên thế giới, và cho
tới nay, BHXH đã trở thành công cụ hữu hiệu mang tính nhân văn sâu sắc để
giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống
cũng như trong qua trình lao động .Vì vậy, BHXH ngày càng trở thành nền
tảng cơ bản cho An sinh xã hội của mỗi quốc gia, của mọi thể chế Nhà nước
và được thực hiện ở hầu hết các nước.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người là vốn quý của xã
hội là lực luợng tạo ra của cải vật chất cho xã hội và là nhân tố quan trọng
trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Việc đảm bảo một
môi trường an toàn cho sản xuất cũng như có được chính sách hỗ trợ người
lao động khi họ gặp tai nạn lao động hay mắc bệnh nghề nghiệp luôn được
chúng ta coi trọng. Chính vì vậy, chế độ trợ cấp về TNLĐ&BNN đã ra đời
như một tất yếu khách quan. Trải qua hơn chục năm hình thành và phát triển,
BHXH nói chung và chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN nói riêng đã đạt được nhiều
thành tích đáng khích lệ. Hàng năm, chế độ đã chi trả trợ cấp cho hàng nghìn
người lao động giúp cho cuộc sống của họ và gia đình giảm bớt được phần
nào khó khăn đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho nguời lao động có thể tái
gia nhập vào lực luợng sản xuất xã hội. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh
tế, đất nước ta đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ, chính vì vậy, một
số những quy định trong chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN đã tỏ ra không phù hợp
với tình hình mới.
Trước thực tế này, đề tài : “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ
TNLĐ&BNN cho người lao động tham gia BHXH ở Việt Nam” đã ra đời. Đề
tài đã được em nghiên cứu trong suốt quá trình thực tập của mình. Em hi vọng
rằng với những gì đã được tiếp thu từ ghế nhà trường cũng với những kiến
thức bổ ích trong quá trình thực tập vừa qua, đề tài sẽ phản ánh được phần
nào về thực trạng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng như trình bày
một vài giải pháp để có thể góp phần hoàn thiện hơn nữa chế độ trợ cấp
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A


1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
TNLĐ&BNN cho người lao động tham gia BHXH ở nước ta trong thời gian
tới.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình
của cô: TS Trịnh Thị Hoa (Trưởng phòng Quản lí khoa học) cùng các cô chú
công tác tại Trung tâm NCKH- BHXH (tại 150- phố Vọng), đặc biệt là sự
hướng dẫn tận tình của thầy: PGS, TS Nguyễn Văn Định. Em xin được bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo cùng các cô chú đã giúp em hoàn thành đề
tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2006
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Phương Thuỷ
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B- NỘI DUNG
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ
CHẾ ĐỘ TNLĐ&BNN:
I LÍ LUẬN CHUNG VỀ BHXH
1 Sự cần thiết khách quan của BHXH:
Để có của cải vật chất con người phải lao động. Để lao động được, con
người cần có sức khoẻ và khả năng lao động nhất định. Trong thực tế cuộc
sống không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khoẻ, khả
năng lao động hay có được những may mắc khác để hoàn thành nhiệm vụ lao
động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no, đầy
đủ hạnh phúc. Ngược lại, không mấy người tránh khỏi những rủi ro bất hạnh
như ốm đau, tai nạn, già yếu, chết hoặc thiếu việc làm do những ảnh hưởng
của điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác. Rơi vào

những hoàn cảnh như vậy như nhu cầu của con người không những không
giảm đi mà trái lại còn pháp sinh thêm nhiều nhu cầu mới như: nhu cầu được
chăm sóc, điều trị ốm đau… trong khi đó thu nhập của họ lại bị giảm sút do
khả năng lao động của họ bị giảm hoặc họ không còn khả năng lao động nữa
và khi ấy, cuộc sống của họ trở lên rất khó khăn. Bởi vậy, muốn tồn tại, con
người trong cuộc sống đã phải tìm nhiều cách để có thể đối phó với những
khó khăn không lường trước được đó như: tự tích luỹ, đi vay mượn… Có thể
thấy rằng các cách này hoàn toàn thụ động và không chắc chắn do không
lường trước được về thời gian, mức độ cũng như số lần gặp phải rủi ro đó.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, việc thuê mướn lao động trở lên phổ
biến thì mối quan hệ kinh tế giữa người lao động và giới chủ ngày càng nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp. Giới chủ lúc này không những phải cam kết trả đủ
lương cho người lao động mà còn phải cam kết đảm bảo cho người lao động
có được một khoản thu nhập khi họ không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản…
Tuy nhiên, việc thực hiện cam kết này nhiều khi lại đem lại những rủi ro về
tài chính không mong đợi cho người sử dụng lao động vì: nhiều khi các sự cố
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nêu trên không xảy ra và người chủ không phải cho trả đồng nào, nhưng cũng
có khi lại xảy ra dồn dập buộc giới chủ phải bỏ ra một khoản tiền khá lớn mà
họ không mong muốn. Chính vì vậy, mâu thuẫn chủ thợ lại bùng phát mạnh
mẽ. Cuộc đấu tranh này ngày càng rộng lớn và tác động đến nhiều mặt của
đời sống kinh tế - xã hội, gây ngừng trệ sản xuất… lúc này buộc nhà nước
phải can thiệp, đứng ra điều hoà mâu thuẫn. Nhà nước buộc giới chủ và giới
thợ đều phải đóng góp một hoản tiền nhất định hàng tháng trên cơ sở tính toán
chặt chẽ xác suất xảy ra đối với người làm thuê, số tiền này được hình thành
một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ
Ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động
khi gặp những biến cố bất lợi. Nhờ vậy, người lao động cảm thấy được bảo vệ

và họ yên tâm tập trung vào sản xuất, còn giới chủ cũng cảm thấy có lợi khi
họ không phải chi những khoản quá lớn không mong đợi (bởi đã có sự chi sẻ
rủi ro với những chủ sử dụng lao động khác) và cũng không phải đối diện với
các cuộc đấu tranh biểu tình của công nhân làm ngưng trệ sản xuất và nhà
nước cũng đạt được mực tiêu ổn định trật tự an toàn xã hội.
Toàn bộ hoạt động với những mối qua hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế
giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Có thể hiểu
BHXH là sự thay thế bù đắp thu nhập cho người lao động khi họ không may
gặp phải những biến cố làm giảm hoặc khả năng lao động, mất việc làm trên
cơ sở hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người
lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Như vậy, chỉ khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp mới được
giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất. Đó cũng là cách giải quyết
chung nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát triển. Sự xuất hiện của
BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm
thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành
bảo hiểm cho nguời lao động. Chính vì lí do này, BHXH đã được thừa nhận
như là một nhu cầu và quyền lợi chính đáng của người lao động. Trong Tuyên
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hiệp quốc ngày 10/12/1948 cũng đã
khảng định: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có
quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về
kinh tế, văn hoá, xã hội, nhu cầu cho nhân cách và tự do phát triển con
người”.
2 Lịch sử phát triển của BHXH:
2.1 Lịch sử phát triển của BHXH trên thế giới:
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỉ 19, khi nền công nghiệp và kinh
tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ ở châu Âu. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức,

nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để
phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Đến cuối năm 1880, BHXH đã có sự
thay đổi, lúc này sự tham gia là bắt buộc và không chỉ có nguời lao động tham
gia đóng góp mà giới chủ và nhà nước cũng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Tính đoàn kết và chia sẻ thể hiện rõ nét: mọi người không phân biệt già - trẻ,
nam - nữ, lao động phổ thông - lao động kỹ thuật, người khoẻ - người yếu mà
tất cả đều phải tham gia đóng góp. Mô hình ở Đức đã lan sang các nước giành
độc lập ở Châu Á, Châu Phi và vùng Caribê. Năm 1935 ở Mĩ đã ban hành đạo
luật đầu tiên trên thế giới về An sinh xã hội, đạo luật này quy định thực hiện
các chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp. Ngày
4 tháng 6 năm 1952, tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ
– Công ước số 102 - về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” và khuyến
nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động tuỳ thuộc vào khả năng
và điều kiện kinh tế của mỗi nước. Từ đó, các nước vận dụng khuyến nghị
của ILO đề ra các chính sách biện pháp phù hợp với từng điều kiện cụ thể, tạo
ra môi trường cho BHXH phát triển không ngừng và cho tới nay, hầu hết các
nước trên thế giới đều có hệ thống BHXH cho riêng mình.
2.2 Lịch sử phát triển của BHXH Việt Nam:
2.2.1 Giai đoạn 1945-1995:
a) Giai đoạn 1945-1960:
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảo hiểm xã hội là một trong những nội dung quan trọng của chính sách
xã hội (bên cạnh cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội). Ngay từ khi giành được
chính quyền, mặc dù gặp muôn vàn khó khăn nhưng nhà nước ta luôn quan
tâm đến việc ban hành sửa đổi bổ sung chính sách BHXH và trợ cấp BHXH.
Chính phủ đã ban hành các Sắc lệnh 29/SL ngày 12/03/1950, Sắc lệnh 76/SL
ngày 20/05/1950 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/05/1950 quy định các chế độ trợ
cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, già yếu, chế độ trợ cấp gia đình khi

công nhân viên chức từ trần để đảm bảo đới sống cho họ và gia đình, góp
phần đảm bảo ổn định xã hội.
Có thể thấy rằng: do chính sách BHXH được ban hành ngay sau khi giành
được độc lập, trong hoàn cảnh kháng chiến kinh tế còn nhiều khó khăn nên
chưa được thực hiện đầy đủ, chỉ mới thực hiện được một số chế độ cơ bản với
mức trợ cấp thấp nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu cho công nhân viên chức
nhà nước. Mức trợ cấp còn mang tính chất bình quân với tinh thần đồng cam
cộng khổ, chưa có tính lâu dài. Các khoản chi về hưu còn lẫn lộn với tiền
lương nên rất khó khăn cho việc hoạch toán, chính sách BHXH chưa có quỹ
riêng để thực hiện. Tuy nhiên việc thực hiện chính sách BHXH trong giai
đoạn này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi nó thể hiện sự quan tâm của
nhà nước tới nguời lao động, tạo niềm tin tưởng của đông đảo người lao động
đối với chính quyền non trẻ.
b) Giai đoạn 1961-1995
Bước vào thời kì xây dựng đất nước, trước yêu cầu tuyển dụng lực lượng
công nhân ngày càng lớn để phục vụ cho cộng cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã
hội, nhà nước đã tiến hành sủa đổi bổ sung chính sách BHXH cho phù hợp
với tình hình mới. Ngày 27/02/1961 Nhà nước ban hành Nghị định 218/CP
của Chính phủ về “Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức”
và được thi hành từ 01/01/1962 cùng với: “Điều lệ đãi ngộ quân nhân” theo
Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ, cũng từ đây nguồn quỹ
BHXH được hình thành trên cơ sở đóng góp của các xí nghiệp và phần còn lại
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
do Ngân sách nhà nước cấp. Tuy nhiên, sau gần 20 năm thực hiện chế độ
BHXH đối với công nhân viên chức đã bộc lộ nhiều hạn chế. Ngày
18/09/1995, Chính phủ ban hành Nghị định 236/HĐBT về việc sửa đổi bổ
sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động với nội dung chủ
yếu là điều chỉnh mức đóng và hưởng. Tuy nhiên, với những quy định như

trên chính sách BHXH còn bộc lộ những hạn chế sau:
Thứ nhất: Phạm vi đối tượng tham gia BHXH chỉ giới hạn cho công nhân
viên chức làm việc trong khu vực nhà nước, còn đại bộ phận (khoảng 88%)
lao động làm việc ở khu vực tập thể và cá nhân chưa được tham gia BHXH.
Chính sách BHXH chưa thể hiện rõ sự công bằng đối với người lao động làm
việc trong và ngoài khu vực nhà nước.
Thứ hai: Nguồn chi BHXH chủ yếu lấy từ Ngân sách nhà nước. Quyền lợi
và trách nhiệm các bên tham gia BHXH chưa được thiết lập đầy đủ, mức trợ
cấp thấp, đời sống người lao động còn nhiều khó khăn
Thứ ba: Việc thực hiện Chính sách BHXH còn gắn với các chính sách
khác như: ưu đãi người có công, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình,
chính sách tinh giảm biên chế… dẫn tới tình trạng phần lớn những người
hưởng chế độ hưu trí đều nghỉ hưu trước tuổi quy định và chỉ có 1/10 số
người được nghỉ mất sức lao động là thực sự ốm đau, giảm khả năng lao
động.
Thứ tư: Tổ chức BHXH mang tính hành chính. Nhà nước vừa đảm nhận
chức năng quản lí nhà nước vừa tổ chức hoạt động sự nghiệp chi trả (có sự
tham gia của tổ chức Công đoàn) nên đã làm cho hoạt động BHXH trở lên
khó quản lí và hiệu quả thấp.
2.2.2 Giai đoạn từ 1995 tới nay:
Trước sự đổi mới về cơ chế kinh tế, chính sách BHXH trong thời kì trước
đã tỏ ra không đáp ứng được nhu cầu tình hình lúc bấy giờ. Chính vì vậy,
ngày 22/06/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời
về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế, đánh dấu bước đổi
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mới của BHXH Việt Nam. Tuy nhiện BHXH Việt Nam chỉ thực sự có bước
đột phá khi Nghị định 12/CP của Chính phủ ban hành ngày 26/01/1995 về
việc ban hành “Điều lệ BHXH” đối với công chức, công nhân viên chức của

nhà nước và mọi người lao động theo loại hình bắt buộc. Theo đó:
+ Phạm vi đối tượng tham gia BHXH được mở rộng áp dụng với lao động
làm công hưởng lương ở các tổ chức, các đơn vị kinh tế sử dụng 10 lao động
trở lên thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở đóng góp của người lao động,
ngưòi sử dụng lao động và sự hỗ trợ của nhà nước. Quỹ được quản lí và sử
dụng tuân theo các quy đinh chế độ tài chính Nhà nước: theo nguyên tắc
hoạch toán cân bằng thu chi, độc lập với Ngân sách nhà nước.
+ Các chế độ về cơ bản đã thể hiện được tính công bằng giữa mức đóng và
hưởng, khắc phục được tính bình quân trong hưởng trợ cấp, đồng thời mang
lại tính cộng đồng chia sẻ rủi ro.
Như vậy nội dung của bản điều lệ đã góp phần thực hiện mực tiêu của
Đảng và nhà nước đề ra, góp phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội,
làm lành mạnh hoá thị trường lao động đồng thời cũng đáp ứng được nguyện
vọng của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế đất nước.
Ngày 01/10/1995 Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH ra đời, từ đây
BHXH có một tổ chức sự nghiệp riêng là đơn vị có chức năng, nhiệm vụ thu
chi các chế độ BHXH. Từ đây BHXH là cơ quan có tư cách pháp nhân trực
thuộc Chính phủ, được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới địa phương.
Các hoạt động nghiệp vụ của BHXH được đặt dưới sự điều hành trực tiếp của
Hội đồng quản lí và của Tổng giám đốc BHXH.
3 Bản chất và chức năng của BHXH:
3.1 Khái niệm về BHXH:
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ không may gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tiền tệ trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp

phần bảo đảm an toàn xã hội.
3.2 Bản chất của BHXH:
- BHXH là nhu cầu tất yếu khách quan, đa dạng, phức tạp của xã hội, là
sản phẩm tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hoá. Khi nền kinh tế phát
triển tới một mức nhất định thì hệ thống BHXH ra đời. Như vậy, có thể thấy
sự ra đời và phát triển của BHXH chính là sự phản ánh về mức độ phát triển
của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển thì không thể có một hệ
thống BHXH vững mạnh. Ngược lại, một nền kinh tế phát triển sẽ là cơ sở
cho một hệ thống BHXH đa dạng và phong phú với các chế độ BHXH càng
được mở rộng và quyền lợi của người lao động ngày càng được đảm bảo hơn.
Có thể nói: kinh tế là nền tảng của BHXH hay nói cách khác BHXH không
vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. Nền kinh tế của một nước như thế
nào sẽ cho ta hình dung được phần nào về hệ thống BHXH của nước đó và
ngược lại, nhìn vào hệ thống BHXH của một nước sẽ cho ta hiểu hơn về tình
hình kinh tế, đời sống xã hội của đất nước đó.
- Quan hệ lao động chính là cơ sở để hình thành nên mối quan hệ bên
trong của BHXH, chính trong quá trình lao động các mối quan hệ về quyền
lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên được hình thành và là nền tảng để hình
thành nên mối quan hệ nội tại của BHXH. Mối quan hệ này diễn ra giữa ba
bên : 1- bên tham gia BHXH gồm: người lao động và người sử dụng lao
động; 2- bên BHXH là: cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ;
3- bên được BHXH là: người lao động và gia đình họ khi đủ điều kiện ràng
buộc cần thiết theo quy định của pháp luật.
- Những rủi ro được BHXH hỗ trợ bao gồm những rủi ro có thể phát sinh ở
bên trong hoặc bên ngoài quá trình lao động, làm giảm hoặc mất khả năng lao
động dẫn tới việc giảm hoặc mất thu nhập. Những rủi ro này có thể là những
rủi ro mang tính ngẫu nhiên, không thể dự đoán trước và trái với ý muốn chủ
quan của con người như: ốm đau, tai nạn… hoặc đó có thể là những trường
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
9

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hợp mà ta có thể dự đoán được chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai song lại
không đoán biết trước được về thời điểm phát sinh sự kiện được bảo hiểm
như: tuổi già, thai sản…
- Các bên tham gia BHXH bao gồm người lao động, người sử dụng lao
động cùng tham gia đóng góp vào một quỹ tiền tệ tập trung, quỹ này được gọi
là quỹ BHXH. Quỹ được quản lí theo cơ chế tập trung tồn tích và được sử
dụng để bù đắp cho phần thu nhập bị giảm, bị mất của người lao động do việc
giảm hoặc mất khả năng lao động gây ra. Như vậy, BHXH cũng là quá trình
phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận
của GDP được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu
cầu BHXH như: ốm đau, thai sản, già yếu, chết…
- Mục tiêu của BHXH là nhằm đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao
động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và
tổng sản phẩm quốc dân để thoả mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao
động và an toàn xã hội. Có thể thấy rằng BHXH vừa mang tính kinh tế vừa
mang tính xã hội. Về mặt kinh tế : Thông qua việc tổ chức phân phối lại thu
nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo
trước những bất trắc, rủi ro. Về mặt xã hội: thông qua cơ chế san sẻ rủi ro mà
người lao động chỉ đóng góp một phần nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ
BHXH song xã hội lại có một lượng vật chất đủ lớn để trang trải cho những
rủi ro xảy ra, có nghĩa là BHXH thực hiện theo nguyên tắc “lấy số động bù số
ít”. Tuy nhiên tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan
xen với nhau. Khi nói đến sự đảm bảo kinh tế cho người lao động và gia đình
họ là đã bao gồm tính xã hội và ngược lại khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lai
đủ để trang trải các rủi ro xã hội cũng có nghĩa là đề cập tới tính kinh tế của
BHXH.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã sớm trở thành một trong những quyền
con người được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên
ngôn Nhân quyền, năm 1948.

Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3.3 Chức năng của BHXH:
Thứ nhất: Chức năng cơ bản nhất quyết định tính chất nhiệm vụ và cơ chế
hoạt động của BHXH đó là chức năng thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm gây nên. Bởi đã là người lao
động thì ai cũng có nguy cơ bị giảm hoặc mất thu nhập. Điều này có thể do
người lao động gặp những rủi ro như ốm đau, bệnh tật, tai nạn trong quá trình
lao động… hay do tuổi già sức yếu mà khả năng lao động gảim sút hoặc
không còn khả năng lao động. Vì vậy có thể thấy, khi người lao động đã tham
gia BHXH, họ có thể hoàn toàn yên tâm bởi phần thu nhập bị giảm sút của họ
do các yếu tố trên sẽ chắc chắn được BHXH đảm bảo và khi đó cuộc sống của
họ và gia đình sẽ bớt đi phần nào khó khăn.
Thứ hai: Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người
tham gia BHXH trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung
được tồn tích dần bởi sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao
động và sự hỗ trợ của Nhà nước.
Những người sử dụng lao động bắt buộc phải đóng góp vào quỹ BHXH là
để bảo hiểm nhưng không phải là trực tiếp cho mình mà cho những người lao
động mà mình sử dụng nên không có quyền được hưởng trợ cấp. Chỉ có
những người lao động có đóng góp vào quỹ mới có quyền hưởng trợ cấp. Tuy
nhiên, khi những người lao động này nếu như vẫn còn khoẻ mạnh có thu nhập
bình thường thì họ sẽ không được hưởng trợ cấp. Số lượng những người
không được trợ cấp như vậy thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số những
người tham gia đóng góp. Chỉ có những người lao động bị giảm hoặc mất thu
nhập trong những trường hợp xác định và có đủ điều kiện cần thiết mới được
hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Số lượng những người này thường chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy BHXH đã

lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả
chiều dọc và chiều ngang: giữa những người có thu nhập cao và thấp, giữa
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm đau phải nghỉ
việc… và giữa số đông người đóng góp vào quỹ BHXH với số ít người được
hưởng trợ cấp theo những chế độ xác định. Thực hiện chức năng này cũng có
nghĩa BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội.
Thứ ba: Chức năng đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Nhờ có BHXH mà
người lao động khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất được trả tiền lương
và tiền công còn khi không may bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc khi
về già đều được hưởng trợ cấp từ nguồn quỹ BHXH thay thế cho nguồn thu
nhập bị mất. Vì vậy, cuộc sống của họ và gia đình luôn được đảm bảo ổn định
và có chỗ dựa. Do đó, người lao động yên tâm lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và hiệu quả xã hội.
Thứ tư: BHXH tạo ra sự gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử
dụng lao động. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và chủ sử
dụng lao động luôn tồn tại những mâu thuẫn về các vấn đề liên quan tới tiền
công, thời gian lao động … Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được
điều hoà giải quyết, cả giới thợ và giới chủ đều nhận thấy nhờ có BHXH mà
các quyền lợi của mình đều được bảo vệ, từ đó giúp họ hiểu và gắn bó với
nhau hơn. Còn đối với nhà nước, chi cho BHXH là cách thức chi ít nhất song
lại có hiệu quả nhất đồng thời lại giải quyết được những khó khăn về đời sống
cho người lao động và gia đình họ từ đó đảm bảo cho sản xuất được ổn định,
kinh tế - chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
II CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP TRONG HỆ THỐNG
CÁC CHẾ ĐỘ BHXH
1 Vai trò của chế độ TNLĐ&BNN

Cuộc sống của con người luôn tiềm ẩn những tai nạn bất ngờ xảy ra ngoài
ý muốn của con người. Đó có thể là do những hành vi thiếu cẩn trọng của cá
nhân gây nên hoặc có thể là những rủi ro mà con người không thể lường trước
được. Trong quá trình lao động sản xuất, con người lại phải đối mặt với
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những rủi ro rất đặc trưng đó là tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Những
rủi ro này có thể xảy ra với bất kì người lao động nào bởi nó trực tiếp gắn liền
với điều kiện lao động và môi trường lao động. Những nguyên nhân này chủ
yếu là do việc vi phạm các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh lao động như: môi
trường lao động độc hại, thiếu các trang thiết bị bảo hộ cần thiết... Hậu quả
của tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp thường rất nặng nề, nó có thể dẫn
tới việc suy giảm khả năng lao động từ đó kéo theo việc giảm hoặc mất thu
nhập của người lao động và trực tiếp đe doạ tới cuộc sống của người lao động
và gia đình họ. TNLĐ&BNN có thể làm thay đổi mối quan hệ pháp luật lao
động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động khi người lao động không
thể phục hồi khả năng lao động để đáp ứng được công việc mà mình đảm
nhận trước đây. Trong nhiều trường hợp, TNLĐ&BNN có thể dẫn tới việc
chấm dứt mối quan hệ lao động khi người lao động bị chết hoặc không đủ khả
năng để thực hiện bất kì công việc nào. Để xảy ra tai nạn lao động hay bệnh
nghề nghiệp, lỗi lớn nhất thuộc về người sử dụng lao động. Bởi môi trường
lao động có an toàn hay không phụ thuộc rất lớn vào sự quan tâm đầu tư của
chủ sử dụng lao động. Khi doanh nghiệp mải chạy theo lợi nhận, năng suất
hay theo đuổi mục tiêu giảm thiểu chi phí thì vấn đề này không được qua tâm
đúng mức. Môi trường sản xuất độc hại nguy hiểm sẽ làm cho khả năng bị
mắc bệnh và bị tai nạn trong quá trình lao động tăng lên. Vì vậy, để đảm bảo
quyền lợi của người lao động, nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định: người
sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với người lao động mà mình sử
dụng và gia đình của họ. Điều này là hoàn toàn phù hợp bởi bị tai nạn lao

động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp là nỗi bất hạnh lớn của người lao
động.Vì thế, khi gặp phải những trường hợp trên người lao động rất cần có sự
hỗ trợ để nhanh chóng phục hồi khả năng lao động, ổn định cuộc sống. Tuy
nhiên trên thực, việc thực hiện điều này lại hoàn toàn không phải dễ dàng và
người sử dụng lao động luôn tìm cách trốn tránh trách nhiệm này. Bởi một lí
do dễ hiểu, đây là những khoản chi phí không được báo trước, nó có thể phát
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sinh bất cứ khi nào và có thể xảy ra với bất kì quy mô nào với bất kì mức độ
nào. Việc bỏ ra các chi phí này sẽ có thể làm xáo trộn quá trình sản xuất kinh
doanh, làm đảo lộn các kế hoạch đầu tư cho sản xuất…. Vì vậy, trên thực tế,
người sử dụng lao động đã tìm nhiều biện pháp khắc phục như: tự chịu trách
nhiệm thông qua việc hình thành các quỹ dự phòng, tham gia các hình thức
bảo hiểm thương mại cho trách nhiệm phát sinh khi để xảy ra TNLĐ&BNN.
Nhưng việc đền bù theo các hình thức này thường không làm thoả mãn cả
người sử dụng lao động lẫn người lao động do:
- Xuất phát từ bản chất đối kháng và sự mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa
chủ sử dụng lao động và người lao động, trong mối quan hệ hai bên này,
người lao động luôn là người yếu thế hơn bởi ta biết rằng: trong điều kiện áp
lực về thu nhập cũng như cơ hội tìm kiếm việc làm khó khăn khiến cho người
lao động luôn lo sợ việc mất việc làm, cho nên để có được việc làm nhiều khi
người lao động phải chịu thiệt thòi…. Do vậy, trong quá trình xác định
nguyên nhân tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, người lao động khó có thể
chứng minh được nguyên nhân một cách rõ ràng theo ý chí của họ. Và hệ quả
kéo theo là họ khó có thể được đền bù một cách thoả đáng và nhanh chóng
nhất là khi có phát sinh tranh chấp. Mặt khác, trong trường hợp mất khả năng
lao động vĩnh viễn hoặc chết, mà người bị tai nạn chỉ được trợ cấp một lần thì
đời sống của họ và gia đình trong tương lai tới sẽ rất khó khăn. Vấn đề này sẽ
phức tạp hơn nhiều nếu như các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả hoặc

có thể bị chấm dứt hoạt động, khi ấy công việc chi trả cho người lao động sẽ
bị trì trệ kéo dài thậm chí không thực hiện được và trong những trường hợp
như vậy, người động đã là người thiệt thòi lại càng thiệt thòi hơn, đã khó khăn
lại càng khó khăn hơn. Và điều này là hoàn toàn có thể xảy ra với bất kì
doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường, nhất là ở các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, khả năng tài chính thấp, sức cạnh tranh yếu kém, điều kiện lao động
thường không được đảm bảo an toàn, thiếu ổn định trong sản xuất kinh doanh.
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thêm vào đó chi phí đền bù tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đối
với một doanh nghiệp là khá cao so với chi phí sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, nhất là khi tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp nghiêm trọng
xảy ra và xảy ra với nhiều người hoặc thậm chí có những lúc xảy ra dồn dập
làm nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn. Lẽ ra với số tiền lớn họ có thể tiếp tục
đầu tư vào sản xuất kinh doanh, hoặc sửa chữa máy móc thiết bị…thì họ lại
phải bỏ tiền ra chi trả cho người lao động mà lỗi gây ra tai nạn chưa hẳn là do
phía người chủ sư dụng lao động vì vậy không ít trường hợp người chủ sử
dụng lao động tìm cách tránh né trách nhiệm … Ngoài những tổn tất hữu
hình, người chủ sử dụng lao động còn phải gánh chịu những tổn thất vô hình
như: uy tín của nhà máy, sự ngừng trệ trong tiêu thụ sản phẩm, thời gian cho
việc giải trình các nguyên nhân gây tai nạn với các cơ quan chức năng, giải
toả tâm lí hoang mang, lo lắng nặng nề của người lao động trong đơn vị …
Để giải quyết được mẫu thuẫn chủ thợ cũng như là đảm bảo quyền lợi
chính đáng của người lao động đồng thời buộc giới chủ phải thực hiện trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình đòi hỏi cần có bên thứ ba can thiệp đứng vai trò
làm người chung gian đó chính là nhà nước. Và yêu cầu về một hệ thống đáp
ứng được sự quan tâm của người lao động, chủ sử dụng lao động cũng như
của Nhà nước được đặt ra: Một hệ thống vừa phải đảm bảo được tính công
bằng tin cậy, bảo vệ cho những quyền lợi chính đáng cho người lao động, lại

vừa đảm bảo được sự san sẻ trách nhiệm phát sinh của chủ sử dụng lao động
còn về phía Nhà nước, một công cụ hữu hiệu để bảo vệ người lao động đồng
thời thực hiện được mục tiêu đảm bảo công bằng, ổn định và phát triển lại là
rất cần thiết. Chính vì vậy, chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đã
sớm được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng trong hệ thống BHXH của
mình bởi nó đã đáp ứng được tính công bằng khách quan, có khả năng đảm
bảo đời sống, đảm bảo sự phực hồi sức khoẻ và khả năng lao động cho người
lao động một cách toàn diện lâu dài với mức chi phí vừa phải (thường không
quá 1% quỹ lương).
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Như vậy, ta có thể thấy vai trò của chế độ TNLĐ&BNN được thể hiện ở
những khía cạnh sau:
- Đối với người lao động: đó là sự thay thế, bù dắp một phần thu nhập bị
mất do việc bị giảm hoặc mất khả năng lao động mà nguyên nhân xuất phát từ
việc bị tai nạn lao động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp gây nên. Với chế độ
này, đời sống của người lao động sau khi bị nạn và gia đình họ sẽ giảm bớt
được khó khăn và nhanh chóng đi vào ổn định. Người lao động sau khi bị nạn
sẽ được chăm sóc và điều trị kịp thời, giúp họ nhanh chóng phục hồi sức khoẻ
để có thể tiếp tục gia nhập vào quá trình sản xuất. Chế độ này sẽ khiến cho
người lao động cảm thấy được bảo vệ trước những rủi ro trong quá trình lao
động và tạo ra tâm lý yên tâm gắn bó với công việc.
- Đối với người sử dụng lao động: việc tham gia BHXH nói chung và chế
độ TNLĐ&BNN nói riêng sẽ giúp cho người sử dụng lao động chia sẻ được
phần trách nhiệm phát sinh với những người sử dụng lao động khác khi có tai
nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp xảy ra. Suy cho cùng, thì đây cũng là
cách các doanh nghiệp tự bảo vệ lấy mình trước những biến động tài chính
phát sinh. Hơn nữa, việc tham gia này sẽ tạo ra tâm lí gắn bó vô hình giữa
người lao động và chủ sử dụng lao động. Khi chủ sử dụng lao động tham gia

chế độ cho người lao động thì đổi lại họ sẽ nhận được sự nhiệt tình và sự cống
hiến hết sức mình của những người lao động trong doanh nghiệp, đơn vị.
- Đối với nhà nước: Việc thực hiện chính sách BHXH mà cụ thể là việc
thực hiện chế độ TNLĐ&BNN sẽ góp phàn to lớn vào việc ổn định tình hình
xã hội đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi để sản xuất phát triển. Vừa có thể
đảm bảo lợi ích hài hoà cho cả hai bên lại vừa có được nguồn tài chính đề đầu
tư phát triển sản xuất…
Trước những vai trò to lớn trên thì việc thực hiện chính sách BHXH nói
chung và việc thực hiện chế độ BHXH về TNLĐ&BNN nói riêng là việc tất
yếu.
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Khái niệm và phân loại:
2.1 Các khái niệm có liên quan:
Từ những đặc trưng trên cùng với sự đa dạng hoá môi trường, điều kiện
việc làm cũng như xu hướng tiến bộ xã hội mà định nghĩa về tai nạn lao động
- bệnh nghề nghiệp buộc phải mở rộng. Ngoài tai nạn lao động tại nơi làm
việc nhiều nước cũng coi tai nạn trên đường đi và về từ nơi làm việc đến nơi ở
của người lao động cũng coi là tai nạn lao động, thậm chí một số quốc gia còn
coi các tai nạn trong hoạt động cứu hộ, chữa cháy, hoạt động công đoàn, hoạt
động hội chữ thập đỏ…những hoạt động ít hoặc không liên quan đến hoạt
động của đơn vị sử dụng lao động cũng là tai nạn lao động. Còn đối với bệnh
nghề nghiệp cho tới năm 1980 Hội nghị Lao động quốc tế đã quy định 29
bệnh được xếp vào danh mục bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên, chưa thể nói
được rằng danh mục trên đã đầy đủ bởi vì sản xuất càng phát triển, môi
trường làm việc ngày càng thay đổi thì càng ngày lại càng xuất hiện thêm
nhiều bệnh mới. Chính vì vậy, định nghĩa về tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp có tính tương đối. Cùng với sự phát triển của sản xuất, định nghĩa về
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ngày càng cần được mở rộng và mang

tính cứu trợ, tính ưu đãi xã hội.
Sự tương đối của định nghĩa và việc không đồng nhất thậm chí đối ngược
nhau về lợi ích giữa các bên trong quan hệ tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp làm cho việc xác định tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp trong thực
tế hết sức khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải có sự giám sát, ràng buộc và phối
hợp chặt chẽ giữa các bên trong quá trình xác định. Nếu thiếu các điều kiện
này thì việc xác định tai nạn lao động có thể trở thành tai nạn rủi ro và ngược
lại; đối với bệnh nghề nghiệp việc xác định này lại càng phức tạp hơn vì
nguyên nhân không chỉ do điều kiện lao động độc hại mà còn do thể chất, tâm
thần của người lao động và mối liên hệ giữa điều kiện lao động với bệnh tật
trong nhiều trường hợp là không rõ ràng.
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để đi đến khái niệm về tai nạn lao động vầ bệnh nghề nghiệp chúng ta
cùng tìm hiểu về một số khái niệm có liên quan:
-Tàn tật thể lực: tàn tật thể lực là sự suy giảm về mặt thể lực hoặc năng lực
trí tuệ, là kết quả của việc bị mất hoặc bị suy giảm một cơ quan chức năng
nào đó của người lao động.
- Tàn tật về lao động nghề nghiệp: trong trường hợp bị tàn tật về lao động
nghề nghiệp, mức độ tàn tật của người lao động được đánh giá trong mối liên
hệ với việc mất khả năng kiếm thu nhập bởi không còn đủ năng lực thích hợp
để nối tiếp công việc trước đây đã làm.
- Tàn tật nói chung: mức độ tàn tật nói chung được đánh giá trong mối liên
hệ với năng lực làm việc còn lại với mức thu nhập mà một người vẫn có thể
kiếm được từ công việc thích hợp với tình trang sức khoẻ của người đó. Năng
lực làm việc còn lại được đánh giá trong mối liên hệ với bất kì một loại hình
công việc nào và không chỉ liên hệ với riêng một nghề như trong trường hợp
tàn tật về lao động nghề nghiệp
- Tai nạn lao động: là tai nạn xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với

việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động, gây tổn thương cho bất kì bộ
phận chức năng nào của cơ thể người lao động gây tàn tật hoặc tử vong.
- Bệnh nghề nghiệp: là bệnh phát sinh do điều kiện lao động, môi trường
lao động tác động một cách từ từ liên tục, gây tàn tật hoặc mắc bệnh đối với
người lao động.
Từ những định nghĩa trên ta có thể thấy rằng tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp và tàn tật nói chúng đều dẫn tới việc giảm hoặc mất khả năng lao
động song tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được giới hạn cụ thể trong
môi trường làm việc gắn với những điều kiện về vệ sinh an toàn lao động cho
nên phạm vi của chúng được bó hẹp hơn và cũng đòi hỏi sự xác định cụ thể rõ
ràng hơn.
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.2 Phân loại tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp:
Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu ta có nhiều cách thức phân loại khác
nhau.
a) Phân loại tai nạn lao động
- Theo nguyên nhân:
+ Nguyên nhân chủ quan: do trang thiết bị máy móc, phương tiện làm
việc, việc bảo hộ lao động không được chu đáo hay do sự cố ý vi phạm quy
trình kỹ thuật an toàn lao động của người lao động và chủ sử dụng lao động.
+ Nguyên nhân khách quan: đó là các yếu tố tự nhiên xảy ra không lường
trước được như do mưa bão, động đất, lốc…
Việc phân loại này giúp ta tìm hiểu được nguyên nhân gây ra tai nạn lao
động từ đó có được cách phòng ngừa tai nạn hiệu quả, giảm thiểu những tổn
thất khi tai nạn xảy ra.
- Theo ngành nghề sản xuất:
Những ngành nghề khác nhau có môi trường lao động khác nhau và cũng
có những yêu cầu kỹ năng, thao tác khác nhau do đó mỗi ngành nghề lại có

những nguy cơ xảy ra tai nạn lao động khác nhau. Ở nước ta nhũng ngành
nghề hay xảy ra tai nạn nhất là: xây dựng, mỏ, khai thác đá, sửa chữa thiết bị
điện… và mức độ tổn thương trong các ngành nghề này là khác nhau. Việc
nghiên cứu theo ngành nghề này giúp chúng ta có thể nhận thấy rõ nguy cơ
mất an toàn lao động ở ngành nghề nào cao nhất để đề ra các biện pháp phòng
tránh hiệu quả.
- Theo mức độ tổn thương tới cơ thể: (theo thứ tự từ nặng tới nhẹ ta có)
+ Tai nạn lao động làm chết người.
+ Tai nạn lao động nặng làm cho người lao động bị suy giảm khả năng lao
động lớn từ 61% trở lên.
+ Tai nạn lao động vừa làm cho người lao động bị suy giảm khả năng lao
động từ 21% đến 60%.
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Tai nạn lao động nhẹ làm người lao động suy giảm khả năng lao động
nhỏ hơn 21%.
Việc phân loại tai nạn lao động theo mức độ tổn thương sẽ giúp chúng ta
có được cách nhìn đúng đắn về thực trạng tai nạn lao động, về mức độ
nghiêm trọng của từng vụ tai nạn, cũng như biết được khả năng lao động của
những người lao động sau tai nạn để có được chính sách phù hợp nhằm giảm
bớt những khó khăn mà họ và gia đình họ gặp phải.
- Theo độ tuổi và giới tính:
Việc nghiên cứu theo độ tuổi và giới tính cũng đóng vai trò quan trọng, nó
gíúp chúng ta thấy được tai nạn lao động xảy ra với giới nào cao hơn, và ở độ
tuổi nào người lao động dễ bị tai nạn hơn từ đó có được cách sắp xếp bố trí
công việc phù hợp. Thực tế chỉ ra rằng: tỷ lệ tai nạn lao động xảy ra ở nam
giới cao hơn nhiều so với nữ giới do họ thường làm những công việc nặng
nhọc, nguy hiểm hơn và họ cũng không được cẩn thận như nữ giới. Và tỷ lệ
xảy ra tai nạn lao động ở các độ tuổi khác nhau cũng khác nhau. Những lao

động trẻ tuổi thường có nguy cơ để xảy ra tai nạn lao động cao hơn so với
những lao động có thâm niên do những hạn chế về trình độ và thiếu kinh
nghiệp thực tế.
b) Phân loại bệnh nghề nghiệp:
Bệnh nghề nghiệp có nguyên nhân từ những tác động thường xuyên, liên
tục và kéo dài của các yếu tố có hại, phát sinh trong quá trình sản xuất lên cơ
thể con người dẫn tới sự suy yếu dần sức khoẻ, gây bệnh cho người lao động.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chú ý rằng: những trường hợp nhiễm độc cấp
tính, bán cấp tính do hơi độc hoá chất gây nên tại nơi làm việc thì được coi là
tai nạn lao động không phải là bệnh nghề nghiệp. Các loại bệnh nghề nghiệp
bao gồm:
- Bệnh do bụi xâm nhập vào phổi: như bệnh bụi phổi silic, amiăng…
- Bệnh do yếu tố vật lí như tiếng ồn, độ rung, chấn động, tia X…
- Bệnh do môi trường lao động như: lao, vi trùng, vi khuẩn…
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Bệnh do điều kiện lao động như: ngoài trời, trên cao, không thông
thoáng….
- Bệnh do hoá chất: nhiếm độc khí, hợp chất hoá học thuỷ ngân, chì,
cacbon oxit, cacbon đioxit…
3 Cơ sở hình thành chế độ Tai nạn lao động và Bệnh nghề nghiệp:
Cũng giống như các chế độ khác trong hệ thống BHXH chế độ tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp được xây dựng dựa trên các nguyên tắc chung của
BHXH như sau:
+ Quyền lợi và nghĩa vụ phải đi đôi với nhau, điều này có nghĩa là trên cơ
sở có tham gia BHXH thì mới được hưởng chế độ;
+ Thể hiện tính cộng đồng xã hội, tính nhân đạo của xã hội và có sự đoàn
kết chia sẻ rủi ro;
+ Tài chính và quỹ BHXH phải tập trung thống nhất dảm bảo sự chia sẻ

rủi ro.
+ Xây dựng trên cơ sở ngành, nghề, điều kiện lao động và môi trường lao
động.
Việc xác định đóng BHXH thuộc trách nhiệm của chủ sử dụng lao động.
Căn cứ để xác định mức trợ cấp không dựa vào điều kiện thời gian tham gia
BHXH, mức đóng góp, tiền công, tiền lương … mà căn cứ vào tỷ lệ suy giảm
khả năng lao động và mức tiền lương tối thiểu không phân biệt nguyên nhân
do chủ quan hay khách quan đối với người lao động khi xảy ra tai nạn lao
động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp.
Ở Việt Nam, do sớm thấy được tầm quan trọng cũng như vai trò to lớn của
việc thực hiện chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho nên Đảng và
nhà nước ta đã sớm đưa chế độ này vào làm một trong số sáu chế độ BHXH
quy định tại điều lệ BHXH tạm thời. Tuy nhiên, phải tới năm 1995 chế độ
BHXH cho người bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ&BNN)
mới được thực hiện theo Bộ Luật Lao Động năm 1995 và Điều lệ ngày
26/01/1995 của Chính phủ (được sửa đổi bổ sung tại Nghị Định 01/2003/NĐ-
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CP). Qua hơn 10 năm thực hiện, chính sách BHXH nói chung và chế độ trợ
cấp TNLĐ-BNN nói riêng đã góp phần ổn định cuộc sống của hàng chục
ngàn người không may gặp rủi ro trong quá trình lao động và gia đình họ.
4 Nội dung của chế độ TNLĐ&BNN:
4.1 Đối tượng tham gia:
Mọi người lao động đều có nguy cơ bị tai nạn lao động hoặc mắc phải
bệnh nghề nghiệp. Cuộc sống của họ và gia đình họ luôn đứng trước nguy cơ
bất ổn do phần thu nhập của người lao động bị giảm sút đột ngột do việc suy
giảm sức khoẻ sau khi bị TNLĐ&BNN. Do vậy, tất cả mọi người lao động
đều là đối tượng tham gia BHXH. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện mỗi
nước mà các nước có những quy định riêng về đối tượng tham gia. Nó có thể

là tất cả những người lao động hoặc quy định những đối tượng tham gia bắt
buộc và những đối tượng tham gia tự nguyện. Mỗi nước có thể tự lựa chọn
cho mình đối tượng tham gia phù hợp nhất với điều kinh tế - xã hội - chính trị
và khả năng quản lí của mình. Tuy nhiên, phạm vi tối thiểu những người được
bảo vệ phải bao gồm:
- Những người làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất phải
chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương và đối với trợ cấp tiền
tuất thì bao gồm cả vợ và con của người làm công ăn luơng của những người
lao động đó.
- Đối với những nước mà nền kinh tế và các phương tiện y tế chưa phát
triển đủ mức có thể thì đối tượng tham gia phải bao gồm những lao động làm
công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người
làm công ăn luơng làm việc trong các cơ sở công nghiệp sử dụng 20 người trở
lên và đối với trợ cấp tiền tuất thì bao gồm cả vợ và con của người làm công
ăn lương của những người đó.
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế cho nên việc
thực hiện BHXH nói chung và thực hiện chế độ BHXH TNLĐ&BNN nói
riêng vẫn còn nhiều khó khăn và chúng ta mới chỉ dừng ở việc thực hiện cho
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
những đối tượng phải tham gia bắt buộc. Theo điều lệ BHXH ban hành kèm
theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính Phủ, đối tượng bắt buộc
tham gia BHXH bao gồm: Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp
Nhà nước, trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên; người lao động Việt Nam làm việc
trong các doanh nghiệp, có vốn đầu tư nước ngoài, các khu chế xuất, khu
công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại
Việt Nam; người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh, dịch vụ
thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể; người lao động

làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang;
người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý nhà
nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện; công chức, viên chức
Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, người làm việc
trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện; Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội chúng ta đang nỗ lực để ngày càng mở
rộng phạm vi đối tượng tham gia BHXH nhằm đảm bảo thực hiện những
quyền lợi chính đáng cho mọi người lao động và cũng là để thực hiện tốt công
bằng xã hội. Chính vì vậy, Nghị định số 01/2003/ NĐ - CP của Chính phủ
ngày 09/01/2003 đã bổ sung thêm một số đối tượng bắt buộc tham gia BHXH
như sau: Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3
tháng trở lên và hợp đồng không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ
quan tổ chức sử dụng lao động; Người lao động làm việc và hưởng tiền
lương, tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các doanh
nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp và các cán bộ công
chức, viên chức theo Pháp lệnh công chức. Việc mở rộng đối tượng tham gia
BHXH cũng đồng nghĩa với việc ngành BHXH của chúng ta chấp nhận thêm
nhiều khó khăn và thách thức mới. Tuy nhiên, ngành BHXH đã chủ động
phối hợp với các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể thực hiện nhiều
biện pháp để khai thác nắm bắt số lượng lao động và thu nhập của người lao
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc, kịp thời xử lí các vấn đề khó
khăn, vướng mắc ở cơ sở, tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng lao động thực
hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH cho người lao động.
4.2 Trách nhiệm và mức đóng góp của các bên tham gia:
Đối với các chế độ khác trong hệ thống BHXH của mỗi quốc gia, thì người
lao động muốn được hưởng trợ cấp từ chế độ nào thì phải tham gia đóng góp
vào chế độ đó. Tuy nhiên, trong chế độ TNLĐ&BNN, người lao động lại

không phải tham gia đóng góp vào quỹ. Lý do được đưa ra là: những rủi ro về
TNLĐ&BNN là những rủi ro xảy ra nằm ngoài mong muốn của người lao
động và chủ sử dụng lao động luôn là người có lỗi lớn nhất trong việc không
đảm bảo an toàn sản xuất cho người lao động. Theo quy định chung, người sử
dụng lao động phải có trách nhiệm tham gia đóng góp đầy đủ vào quỹ chế độ
TNLĐ&BNN cho người lao động và Nhà nước sẽ đóng vai trò là người hỗ trợ
cho quỹ. Hiện nay trên thế giới, các nước đang áp dụng hai hình thức đóng
góp của chủ sử dụng lao động đó là: hình thức tham gia đóng góp theo một tỷ
lệ % nhất định trên tổng quỹ lương của người lao động và hình thức đóng góp
theo tỷ lệ % phụ thuộc vào ngành nghề sản xuất kinh doanh và xác suất để
xảy ra TNLĐ&BNN ở các ngành nghề đó. Ở Việt Nam, chúng ta sử dụng
hình thức đóng góp theo một tỷ lệ nhất định trên cơ sở tổng quỹ tiền lương
cho người lao động. Tuy nhiên, mức đóng góp này cho tới nay vẫn được tính
chung cho cả các chế độ trợ cấp BHXH ngắn hạn khác mà chưa có quy định
đóng góp riêng cho chế độ TNLĐ&BNN, mức đóng góp này là 5% trên tổng
quỹ lương của người lao động và do chủ sử dụng lao động đóng.
4.3 Đối tượng được hưởng trợ cấp:
Theo quy định chung đối tượng được hưởng trợ cấp bao gồm những
người lao động có tham gia BHXH và trong quá trình lao động của mình, họ
gặp tai nạn lao động hoặc không may mắc phải các bệnh nghề nghiệp. Ngoài
ra, đối tượng được hưởng trợ cấp chế độ này còn bao gồm những người sống
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phụ thuộc vào nguồn thu nhập chính do những người lao động này mang về
như vợ, con nhỏ, bố mẹ già yếu…
Ở Việt Nam, chúng ta cũng thực hiện theo đúng nội dung trên và có quy
định chi tiết cho những trường hợp nào được coi là tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp
Người lao động trong các trường hợp sau được hưởng trợ cấp tai nạn lao

động:
- Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc kể cả làm ngoài giờ do yêu
cầu của chủ sử dụng lao động;
- Bị tai nạn ngoài nơi làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của
người sử dụng lao động;
- Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc.
Như vậy, người lao động chỉ được coi là bị tai nạn lao động khi thực hiện
các nhiệm vụ do người sử dụng lao động giao cho hoặc trên dường đi và về
liên quan đến nhiệm vụ (kể cả việc hàng ngày đi từ nhà tới nơi làm việc). Nếu
ngưòi lao động đang trên đường làm nhiệm vụ nhưng thực hiện thêm các
công việc khác không do chủ sử dụng lao động giao cho mà bị tai nạn thì
không được coi là tai nạn lao động mà chỉ coi là tai nạn rủi ro.
Còn về bệnh nghề nghiệp, khi người lao động bị mắc phải một trong
những bệnh theo danh mục quy định bệnh nghệ nghiệp sau được hưởng trợ
cấp cho chế độ Bệnh nghề nghiệp:
+ Bệnh bụi phổi
+ Bệnh bụi phổi atbet hay bụi phổi amiăng.
+ Bệnh bụi phổi bông (byssinosis).
+ Bệnh điếc nghề nghiệp.
+ Bệnh rung chuyển nghề nghiệp.
+ Bệnh nhiễm xạ nghề nghiệp (bức xạ ion hoá).
+ Bệnh loét da, loét vành ngăn mũi, viêm da, chàm tiếp xúc (bệnh
da nghề nghiệp do crôm).
Nguyễn Phương Thuỷ Bảo hiểm 44A
25

×