Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

BÀI BÁO CÁO-THỰC HÀNH PHÂN TÍCH ĐẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.46 KB, 19 trang )

Chương 6
THỰC HÀNH PHÂN TÍCH ĐẤT
BÀI 1
QUY TRÌNH CHUẨN BỊ MẪU ĐẤT ĐỂ PHÂN TÍCH
Công tác chuẩn bị mẫu để phân tích bao gồm việc đi lấy mẫu ngoài thực địa và
xử lý mẫu trong phòng để phân tích. Công tác chuẩn bị mẫu phân tích khi tiến hành
cần phải đảm bảo 02 yêu cầu cơ bản:
* Mẫu được lấy phân tích phải mang tính đại diện cho toàn khối, toàn khu vực
cần phân tích.
* Phải nghiền nhỏ mẫu phân tích đạt đến độ mịn cần thiết (qua rây 0,25mm
hoặc 1mm tùy theo chỉ tiêu phân tích) để đảm bảo cho quá trình hòa tan hoặc rút tinh
sau này.
1. Phương pháp lấy mẫu
Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, việc lấy mẫu có thể tiến hành theo các
cách sau: Lấy mẫu theo tầng phát sinh (theo phẫu diện đất); lấy mẫu cá biệt và mẫu
hỗn hợp để phân tích hàng loạt các chỉ tiêu hay chỉ phân tích một vài thành phần của
môi trường đất. Mẫu lấy ở trạng thái tự nhiên, cấu tạo đất không bị phá hủy.
1.1. Lấy mẫu đất theo tầng phát sinh (theo phẫu diện đất)
Để nghiên cứu, phân tích đất về phương diện phát sinh học hoặc nghiên cứu
những tính chất tự nhiên của đất (tính chất vật lý, hóa học và sinh học); cách tiến hành
lấy mẫu được tiến hành theo “phương pháp chìa khóa”. Nội dung của phương pháp
này như sau:
- Theo bản đồ thổ nhưỡng của khu vực nghiên cứu, tiến hành phân chia, xác
định ranh giới của những loại đất chính theo nguồn gốc phát sinh và theo thành phần
cơ giới.
- Trên những khoanh vi của các loại đất chính và trong những địa hình đặc
trưng điển hình của khu vực nghiên cứu tiến hành phân chia khu vực lấy mẫu “chìa
khóa”: 10 x 10m hoặc 100 x 100m đào ở đây 1 - 2 phẫu diện.
- Kích thước của từng phẫu diện: 1,2 x 0,8m; về độ sâu thông thường đào đến
tầng đá mẹ, ở những nơi có tầng phong hoá dày thì có thể đào đến 2m hoặc hơn; tiến
hành mô tả phẫu diện một cách tỉ mỉ, mô tả đặc trưng hình thái phẫu diện.


137
Việc lấy mẫu được tiến hành theo quy cách như sau: Đầu tiên lấy mẫu ở tầng
dưới cùng (tầng mẫu chất), tức là tầng trên của tầng đá mẹ; sau đó tiếp tục lấy dần lên các
tầng ở bên trên. Mẫu được lấy ở khoảng giữa của tầng được lấy mẫu với độ dày khoảng
10cm bằng cách rạch một đường chia đôi tầng lấy mẫu, lấy bên dưới và bên trên đường
này 5cm.
Tất cả tầng đều được lấy như trên, trừ tầng dưới cùng (tầng mẫu chất) và tầng
trên cùng (tầng canh tác). Đối với tầng dưới cùng dùng xẻng lấy từ đáy phẫu diện sau
khi vừa đào xong. Còn tầng canh tác thì lấy dọc theo cả chiều dày của chúng. Tầng
tích tụ mùn tùy độ dày mà có thể lấy theo từng lớp 10cm. Trường hợp độ dày của tầng
phát sinh quá lớn thì có thể lấy 2 mẫu hoặc hơn cho tầng đó. Trường hợp tầng phát
sinh có độ dày < 10cm thì lấy hết cả tầng đó. Đối với tầng tích tụ của đất mặn mẫu lấy
không phải ở giữa tầng mà lấy ở khu vực chặt nhất của tầng này. Một điều đáng chú ý
nữa là không nên lấy trùng vị trí theo chiều thẳng đứng từ trên xuống mà nên lấy xen
kẽ.
Bên cạnh việc phân tích các tính chất hóa học của môi trường đất, nếu cần phân
tích các tính chất lý học như xác định thành phần đoàn lạp, độ thấm theo các phương
pháp trong phòng thí nghiệm thì lượng đất cần được lấy phải trên 1kg. Để đảm bảo
phân tích đầy đủ các tính chất hóa học của đất thì lượng đất cần lấy từ 0,5 - 1kg.
Mẫu lấy xong, trước khi buộc lại mang về Phòng thí nghiệm phân tích cần phải
ghi phiếu mẫu cho vào mẫu đất. Phiếu ghi mẫu gồm các nội dung sau:
- Địa điểm lấy mẫu: Tỉnh, huyện, xã, thôn, vùng đất (chủ sở hữu),…
- Ký hiệu mẫu: Bằng số hoặc bằng chữ.
- Loại đất, màu sắc.
- Tầng dày lấy mẫu.
- Điều kiện thời tiết.
- Thời gian lấy mẫu.
- Người lấy mẫu.
1.2. Lấy mẫu cá biệt
Việc tiến hành lấy mẫu cá biệt ngoài thực tế được tiến hành tương đối đơn giản.

Phương pháp này chỉ áp dụng để phân tích một số chỉ tiêu cần thiết nhằm đưa ra nhận
định tình trạng hiện tại của môi trường đất hoặc phân tích nhanh một số chỉ tiêu của
môi trường đất ngoài thực địa. Qua khảo sát thực tế, chúng ta tiến hành lấy mẫu ở bất
kỳ một vị trí nào đó (theo nhận định mang tính chủ quan của những người khảo sát và
138
lấy mẫu). Kết quả phân tích của các mẫu cá biệt không phản ánh toàn bộ tính chất đất
khu vực nghiên cứu mà chỉ để đưa ra những nhận định (chủ yếu trong trường hợp môi
trường đất bị ô nhiễm). Để đánh giá toàn bộ tiềm năng đất đai và chất lượng môi
trường đất khu vực nghiên cứu cần phải tiến hành lấy mẫu theo tầng phát sinh hoặc lấy
mẫu hỗn hợp đại diện để phân tích các chỉ tiêu của môi trường đất.
1.3. Lấy mẫu hỗn hợp đại diện
Việc lấy mẫu hỗn hợp đại diện là công việc rất khó khăn, là giai đoạn đầu tiên
của quá trình phân tích đất, có ảnh hưởng quyết định đến kết quả phân tích đất.
Để lấy mẫu đại diện điển hình cho toàn khu vực phân tích với mức độ cao, có
thể tiến hành theo các biện pháp sau:
* Lấy nhiều điểm: Trên khu vực nghiên cứu nếu chúng ta chỉ lấy mẫu ở một
điểm thì rất khó điển hình và đại diện cho toàn khu vực; lấy mẫu càng nhiều điểm thì
càng dễ điển hình hơn. Trong thực tế không cho phép chúng ta lấy thật nhiều điểm mà
thường chỉ lấy từ 5 - 10 điểm rồi trộn đều lại và lấy ra một lượng cần thiết gói mang về
phòng thí nghiệm. Các điểm được lấy mẫu phải phân bố đều trong khu vực nghiên
cứu.
Hình 6.1. Phân bố các điểm lấy mẫu đất
* Loại trừ các điểm cá biệt không điển hình: Khi tiến hành lấy mẫu đất ở trong
một khu vực đất cần tránh lấy những mẫu cá biệt không điển hình. Ví dụ lấy mẫu đất
trên một đám ruộng hay một đám đất nào đó, cần tránh những điểm vừa bón phân hay
có vôi tích tụ; tránh lấy sỏi đá hoặc rễ cây lẫn vào nhiều; nếu ở sườn dốc thì không nên
lấy ở đỉnh sườn hay chân sườn…
Nếu toàn khu vực nghiên cứu kém đồng nhất thì phải phân nhỏ khu vực lấy
mẫu. Ví dụ một khu đất có vùng đất cao, đất trũng hay đất bằng; có thành phần cơ giới
khác nhau, có hiện trạng sử dụng khác nhau… thì không thể lấy một mẫu điển hình

cho toàn khu vực đó được. Trường hợp này phải phân chia nhỏ khu vực ra thành nhiều
ô, mỗi ô phải có sự tương đồng về địa hình, tính chất đất và mỗi ô lấy một mẫu đại
diện để phân tích.
139
* Trộn đều tất cả các mẫu để lấy mẫu điển hình: Các mẫu đất khi lấy tại nhiều
điểm (như trên) cần được tán nhỏ và trộn đều để lấy mẫu đại diện mang về. Lượng
mẫu đất đã lấy tại một khu vực được dàn mỏng trên giấy hoặc nilon, sau đó dùng quy
tắc chia 4 lấy một nữa (toàn bộ mẫu đất chia thành 4 phần như hình vẽ, sau đó lấy 2
phần không liền kề nhau, phần còn lại bỏ đi), tiếp tục tiến hành lấy như thế cho đến khi
nào đủ trọng lượng cần thiết.
Hình 6.2. Quy tắc chia 4 lấy một nữa
1 và 3 lấy; 2 và 4 bỏ hoặc ngược lại
Lượng mẫu lấy mang về phòng để phân tích khoảng từ 0,5 - 1,0kg. Mẫu phải
kèm theo phiếu ghi mẫu (nội dung phiếu ghi mẫu như trên).
Mẫu mang về Phòng thí nghiệm phải nhập sổ phân tích các thông tin trong
phiếu ghi mẫu của từng mẫu đất được lấy.
2. Phơi khô mẫu
Trừ một số trường hợp phải phân tích trong đất tươi như xác định hàm lượng
nước, một số chất dễ biến đổi khi đất khô như NH
4
+
, NO
3
-
, Fe
2+
, Fe
3+
còn hầu hết các
chỉ tiêu khác đều được xác định trong đất khô.

Mẫu đất lấy từ đồng ruộng về phải được hong khô kịp thời, băm nhỏ (cỡ 1 -
1,5cm), nhặt sạch các xác thực vật, sỏi đá sau đó dàn mỏng trên bản gỗ hoặc giấy
sạch rồi phơi khô trong nhà. Nơi hong mẫu phải thoáng gió và không có các hóa chất
bay hơi như NH
3
, Cl
2
, SO
2
Để tăng cường quá trình làm khô đất có thể lật đều mẫu
đất. Thời gian hong khô đất có thể kéo dài vài ngày tùy thuộc loại đất và điều kiện khí
hậu. Thông thường đất cát sẽ chóng khô hơn đất sét.
Cần chú ý là mẫu đất được hong khô trong không khí là tốt nhất. Không nên
phơi khô ngoài nắng hoặc sấy khô trong tủ sấy.
Mẫu phân tích tươi: Trong phân tích đất, một số chỉ tiêu bắt buộc phải phân
tích ngay trong mẫu mới được lấy (mẫu tươi) như: điện thế oxi hóa khử, hàm lượng
140
Fe
2+
, amoni, sunphua, vì hàm lượng các chất này sẽ thay đổi trong quá trình phơi
khô mẫu.
Mẫu đất mới lấy về trộn đều rồi đem phân tích ngay. Đồng thời cân 5 gam đất
này đem sấy khô để xác định hàm lượng nước, phục vụ cho việc chuyển kết quả phân
tích từ đất tươi sang đất khô kiệt.
3 . Nghiền và rây mẫu
Đất sau khi đã hong khô, đập nhỏ rồi nhặt hết xác thực vật và các chất lẫn khác.
Dùng phương pháp ô chéo góc (chia 4 lấy 1 nữa) lấy khoảng 500 gam đem nghiền,
phần còn lại cho vào túi giữ đến khi phân tích xong.
Trước hết giã phần đất đem nghiền trong cối sứ, rồi rây qua rây 2mm. Phần sỏi
đá có kích thước lớn hơn 2 mm được cân khối lượng rồi đổ đi (không tính vào thành

phần của đất). Lượng đất đã qua rây được chia đôi, một nửa dùng để phân tích thành
phần cơ giới, nửa còn lại tiếp tục nghiền nhỏ bằng cối sứ (cối đồng hoặc máy nghiền
mẫu) rồi rây qua rây 0,25mm hoặc rây 1 mm (phải giã và cho qua rây toàn bộ lượng
đất này). Đất đã qua rây được đựng trong lọ thủy tinh nút nhám rộng miệng hoặc trong
hộp giấy bằng bìa cứng, có ghi nhãn cẩn thận dùng để phân tích các thành phần hóa
học thông thường. Nếu cần phân tích tổng thành phần khoáng, mùn, nitơ tổng số thì
lấy khoảng 50 gam đất đã qua rây 1mm, tiếp tục nhặt hết các xác thực vật (dùng kính
lúp phóng đại, hoặc đũa thủy tinh xát nóng bằng miếng dạ rồi rà trên lớp đất rải mỏng
để hút hết rễ cây nhỏ), sau đó nghiền nhỏ và cho qua rây 0,25mm. Gói đất này bằng
giấy dầu (hoặc giấy can) rồi bỏ chung vào hộp đựng đất trên.
141
BÀI 2
PHÂN TÍCH MÙN TRONG ĐẤT
THEO PHƯƠNG PHÁP CỦA TIURIN
1. Nguyên tắc phân tích mùn trong đất
Mùn là nguồn cung cấp thức ăn cho cây trồng, hàm lượng mùn trong đất ảnh
hưởng đến tính chất lý, hoá học của đất. Nói chung, hàm lượng mùn trong đất càng
nhiều thì đất được đánh giá càng tốt; nhưng cần lưu ý thêm một số điểm liên quan khi
đánh giá hàm lượng mùn như chế độ canh tác, tỷ lệ C/N, mùn/N, axit humic/axit
fulvic…
Thành phần chủ yếu của mùn là C, N, H, O, S, P và các nguyên tố khác. Nếu
phân tích tổng số các nguyên tố trên rất khó, người ta thường chỉ phân tích C hoặc N
rồi suy ra hàm lượng mùn. Như vậy số liệu phân tích mùn là con số gần đúng, tất
nhiên mức độ chênh lệch với thực tế không đáng kể.
Người ta đã xây dựng nhiều phương pháp phân tích mùn trong đất. Có thể chia
ra 3 nhóm phương pháp chính.
- Phương pháp trọng lượng: Phương pháp này dựa vào lượng CO
2
thoát ra
trong quá trình oxi hoá mùn. Theo phương pháp này có các phương pháp của

Guttapson (1886); phương pháp Knôp (Knôp oxi hoá mùn theo lối ướt bằng hỗn hợp
CrO
3
+ H
2
SO
4
, Gattuson oxi hoá theo lối khô nhờ dòng oxi).
- Phương pháp thể tích: Là phương pháp phổ biến nhất hiện nay và được áp
dụng rộng rãi trong các phòng thí nghiệm thổ nhưỡng. Phương pháp này dựa vào sự
tiêu hao dung dịch chất oxi hoá trong quá trình oxi hoá mùn. Điển hình của nhóm này
là phương pháp của Tiurin (1931). Phương pháp này dùng K
2
Cr
2
O
7
pha trong H
2
SO
4
làm chất oxi hoá.
- Phương pháp so màu: Phương pháp này dựa vào việc đo lường cường độ
màu xanh Crôm (III) được tạo thành trong quá trình oxi hoá mùn bằng K
2
Cr
2
O
7
. Theo

nhóm này có các phương pháp của Walkley Blac, phương pháp của Xưplencop,
phương pháp Oclop, phương pháp Grinden.
2. Phân tích mùn trong đất theo phương pháp của Tiurin
2.1. Nguyên tắc phân tích
Phân tích mùn trong đất theo phương pháp của Tiurin thuộc nhóm phương pháp
thể tích, dựa vào sự tiêu hao dung dịch chất oxi hoá trong quá trình oxi hoá mùn để
tính ra hàm lượng mùn có trong đất.
142
Theo phương pháp này, mùn được oxi hoá bằng dung dịch Kali Bicromat
(K
2
Cr
2
O
7
). Dựa vào lượng K
2
Cr
2
O
7
đã tiêu hao trong phản ứng mà tính ra lượng mùn.
Ban đầu cho vào đất một lượng K
2
Cr
2
O
7
lấy dư (K
2

Cr
2
O
7
được pha trong H
2
SO
4
đđ với tỉ lệ 1:1):
3C + 2K
2
Cr
2
O
7
+ 8H
2
SO
4
2Cr
2
(SO
4
)
3
+ 2K
2
SO
4
+ 8H

2
O + 3CO
2
Sau đó chuẩn độ K
2
Cr
2
O
7
còn lại sau phản ứng trên bằng dung dịch muối Mo
((NH
4
)
2
SO
4
.FeSO
4
.6H
2
O):
K
2
Cr
2
O
7
+ 7H
2
SO

4
+ 6FeSO
4
Cr
2
(SO
4
)
3
+ Fe
2
(SO
4
)
3
+ K
2
SO
4
+ 7H
2
O
K
2
Cr
2
O
7
+ 7H
2

SO
4
+ 6 FeSO
4
.(NH
4
)
2
SO
4
Cr
2
(SO
4
)
3
+ 3Fe
2
(SO
4
)
3
+ 6.
(NH
4
)
2
SO
4
+ K

2
SO
4
+ 7H
2
O.
Lúc này Cr
6+
trong dung dịch bị khử thành Cr
3+
tạo nên dung dịch có màu xanh
đặc trưng, do đó dung dịch sẽ chuyển từ màu nâu tím xanh màu xanh.
2.2. Thủ tục tiến hành
Cân chính xác 0,2g đất đã qua rây 0,25mm cho vào bình tam giác 100ml. Dùng
pipet cho từ từ đúng 10ml dung dịch K
2
Cr
2
O
7
0,4N vào bình tam giác có sẵn mẫu đất
(hoặc có thể đong 10ml K
2
Cr
2
O
7
0,4N trong ống đong rồi cho vào bình). (Cấm dùng
miệng để hút dung dịch này vì nồng độ H
2

SO
4
cao rất nguy hiểm).
Lắc tròn nhẹ, tránh để đất bám trên thành bình. Đun sôi hỗn hợp ở nhiệt độ 140
- 180
0
C trong thời gian 10 phút. Xong lấy ra để nguội.
Dùng 10 - 20ml nước cất tia vào cổ và thành bình để rửa lượng K
2
Cr
2
O
7
còn
bám vào. Cho 4 giọt phenyl antranilic 0,2% (dung dịch sau khi cho vào có màu nâu
tím) và chuẩn độ bằng dung dịch muối Mo 0,2N đến khi dung dịch chuyển từ màu nâu
tím sang màu xanh lá cây.
Ghi chú: Nikitin đề nghị thay việc đun mẫu bằng cách cho đồng loạt mẫu (bình
tam giác có chứa mẫu đất + 10ml K
2
Cr
2
O
7
0,4N) vào tủ sấy ở nhiệt độ 150
0
C trong
thời gian 20 phút.
2.3. Cách tính
Thành phần phần trăm hàm lượng mùn sẽ được tính theo công thức:


% Mùn =
Trong đó: N
1
: Nồng độ đương lượng của K
2
Cr
2
O
7
đã sử dụng
N
2
: Nồng độ đương lượng của dung dịch muối Mo dùng để chuẩn độ.
b: Số ml dung dịch muối Mo đã dùng để chuẩn độ.
143
(10.N
1
– b.N
2
).5,17.100
n
5,17: Là mili đương lượng gam của mùn.
n: Số mg đất phân tích
3. Các hoá chất cần thiết
- K
2
Cr
2
O

7
0,4N: K
2
Cr
2
O
7
pha trong H
2
SO
4
đậm đặc (d = 1,81) với tỷ lệ 1:1.
- Dung dịch muối Mo 0,2N: (NH
4
)
2
SO
4
.FeSO
4
.6H
2
O
- Axit phenyl antranilic 0,2%: C
13
H
11
O
2
N.

144
BÀI 3
PHÂN TÍCH ĐẠM TỔNG SỐ TRONG ĐẤT
THEO PHƯƠNG PHÁP CỦA KJENDAN
1. Nguyên tắc phân tích
Đạm tổng số trong đất là một chỉ tiêu dinh dưỡng thường được phân tích để
đánh giá độ phì tiềm tàng của đất. Đạm trong đất thường tồn tại chủ yếu ở dạng hữu
cơ, chỉ một phần nhỏ ở dạng vô cơ (đạm amoni, đạm nitrat, đạm sunphat,…)
Để phân tích lượng đạm tổng số trong đất, trước hết người ta công phá tất cả
các dạng đạm thành đạm amoni (NH
4
+
). Sau khi công phá xong tiến hành chưng cất
đạm trên bộ chưng cất đạm Kjendan, chuẩn độ để xác định hàm lượng đạm tổng số có
trong đất.
2. Thủ tục tiến hành
2.1. Công phá mẫu
a. Công phá mẫu theo phương pháp Kjendan (H
2
SO
4
kết hợp chất xúc tác)
Cân 1g đất qua rây 0,25mm cho vào đáy bình công phá Kjendan. Cho vào bình
từ 1 - 2 hạt Se kim loại để làm chất xúc tác, dùng ống đong hình trụ đong 10ml H
2
SO
4
đậm đặc (d = 1,81) rót vào bình sao cho đất thấm đều axit.
Đun mẫu trên bếp điện. Lúc đầu đun nhẹ, khi đã bốc nhiều khói trắng thì đun
nóng hơn đến sôi nhẹ (sôi mạnh có thể mất đạm do một phần amôn sunphat bị phân

giải). (Tiếp tục đun cho đến khi xuất hiện cặn trắng thì thêm 1 - 2 giọt HClO
4
70% và
tiếp tục đun cho đến khi trắng mẫu). Lấy bình ra khỏi bếp, để nguội.
Dùng bình nước cất để cuốn trôi cặn bám trên thành bình xuống.
b. Công phá mẫu bằng H
2
SO
4
đậm đặc kết hợp HClO
4
Cân 1g đất qua rây 0,25mm cho vào đáy bình công phá Kjendan. Cho vào bình
5ml nước cất, tiếp theo là 5ml H
2
SO
4
đậm đặc (d = 1,81) rót vào bình sao cho đất thấm
đều axit.
Đun mẫu trên bếp điện. Lúc đầu đun nhẹ cho đến khi ngừng khói trắng mạnh.
Lấy ra để nguội rồi cho vào đấy 4 giọt HClO
4
70%. Tiếp tục đun cho đến khi xuất hiện
cặn trắng nhiều thì ngừng đun (nếu mẫu chưa xuất hiện cặn trắng thì thêm 1 - 2 giọt
HClO
4
70% và tiếp tục đun cho đến khi trắng mẫu). Lấy bình ra khỏi bếp, để nguội.
Dùng bình nước cất để cuốn trôi cặn bám trên thành bình xuống.
Các mẫu sau khi công phá đều cho vào bộ chưng cất đạm Kjendan để chưng cất
đạm amôni và chuẩn độ để xác định hàm lượng của chúng.
145

Hình 6.3: Hệ thống chưng cất đạm Kjendan
2.2. Chưng cất đạm
- Đun sôi bình nước số 1.
- Đong 20ml dung dịch NaOH
40% cho vào bình tam giác 100ml.
- Lấy bình tam giác 100ml
khác, đong vào đấy 10ml axit boric
10% (H
3
BO
3
) + 5 giọt chỉ thị Tasirô,
đặt làm bình hứng dưới ống sinh hàn.
- Khi nước trong bình số 1 sôi,
cho vào bình chưng Kjendan hỗn hợp
mẫu đã công phá + 20ml dung dịch
NaOH 40% đã chuẩn bị sẵn. Khoá
chặt hệ thống tránh để mất đạm. Tháo
ống dẫn nước để làm lạnh hệ thống.
- Thời gian chưng cất đạm từ 20 - 25 phút. Lấy bình hứng dưới ống sinh hàn để
chuẩn độ.
- Tiến hành chuẩn độ hàm lượng đạm trong bình hứng bằng dung dịch H
2
SO
4
0,02N đến khi dung dịch chuyển từ màu xanh lục sang màu tím đỏ.
3. Cách tính
Thành phần phần trăm hàm lượng đạm tổng số sẽ được tính theo công thức:
% N
TS

=
Trong đó: - N Nồng độ đương lượng của H
2
SO
4
đã sử dụng để chuẩn độ
- a: Số ml dung dịch H
2
SO
4
đã dùng để chuẩn độ
- n: Số mg đất đã dùng để phân tích đạm
4. Các hoá chất cần thiết
- H
2
SO
4
đậm đặc và H
2
SO
4
0,02N
- HClO
4
70%
- NaOH 40%
- H
3
BO
3

10%
- Chỉ thị Tasirô: Hỗn hợp metyl xanh và metyl đỏ.
146
14.N.a.100
n
BÀI 4
PHÂN TÍCH LÂN TỔNG SỐ TRONG ĐẤT
THEO PHƯƠNG PHÁP CỦA LÊ VĂN TIỀM
1. Nguyên tắc phân tích
Phương pháp này dựa trên sự biểu thị cường độ màu xanh molipđen trong dung
dịch. Cường độ biểu thị màu tỷ lệ thuận với hàm lượng lân có trong dung dịch đất.
Tiến hành so màu với dung dịch lân chuẩn để tính ra hàm lượng lân tổng số có trong
đất.
2. Thủ tục tiến hành
2.1. Công phá mẫu
Cân 1g đất qua rây 0,25mm cho vào đáy bình công phá Kjendan. Cho vào bình
5ml nước cất, tiếp theo là 5ml H
2
SO
4
đậm đặc (d = 1,81) rót vào bình sao cho đất đều
thấm axit.
Đun mẫu trên bếp điện. Lúc đầu đun nhẹ cho đến khi ngừng khói trắng mạnh.
Lấy ra để nguội rồi cho vào đấy 6 giọt HClO
4
70%. Tiếp tục đun cho đến khi xuất hiện
cặn trắng nhiều thì ngừng đun (nếu mẫu chưa xuất hiện cặn trắng thì thêm 1 - 2 giọt
HClO
4
70% và tiếp tục đun cho đến khi trắng mẫu). Lấy bình ra khỏi bếp, để nguội.

Dùng bình nước cất để cuốn trôi cặn bám trên thành bình xuống. Chuyển toàn
bộ mẫu công phá sang bình định mức 100ml, thêm nước cất đến vạch.
Để yên cho lắng cặn, lọc để lấy dịch lọc.
2.2. Hiện màu
Hút 5ml dịch lọc cho vào bình định mức 50ml. Thêm 10ml H
2
SO
4
4N, 2ml
Na
2
SO
4
10% và 1ml axit ascobic 1%.
Tiến hành so màu với dung dịch lân chuẩn và suy ra %P
2
O
5
có trong đất.
3. Các hoá chất cần thiết
- H
2
SO
4
đậm dặc và H
2
SO
4
4N
- HClO

4
70%
- Na
2
SO
4
10%
- Axit ascobic 1%
- Molipdat amon 7%
- Dung dịch lân chuẩn
147
BÀI 5
XÁC ĐỊNH ĐỘ CHUA TRAO ĐỔI TRONG ĐẤT
THEO PHƯƠNG PHÁP ĐAICUHARA
1. Nguyên tắc phân tích
Các ion nằm ở lớp ngoài cùng của keo đất (lớp hấp thụ trao đổi), đặc biệt là các
ion H
+
và Al
3+
đều có khả năng tham gia vào các quá trình trao đổi ion bề mặt keo đất.
Khi rút tinh đất bằng dung dịch muối trung tính KCl, ion K
+
trong dung dịch
muối sẽ đẩy H
+
và Al
3+
ra khỏi lớp hấp phụ trao đổi của keo đất:
[KĐ]

H+
+ K
+
[KĐ]
K+
+ H
+
Mỗi ion Al
3+
sẽ thuỷ phân hoàn toàn tạo ra 3 ion H
+
:
[KĐ]
Al 3+
+ K
+
[KĐ]
3K+
+ 3H
+
Sau đó chuẩn độ H
+
trong dung dịch sau khi rút tinh bằng NaOH (chỉ thị Phenol
Phtalein).
2.Thủ tục tiến hành:
Al
3+
3H
+
Cân 40g đất qua rây 1mm cho vào bình tam giác 250ml. Cho vào bình 100ml

dung dịch KCl 1N. Lắc đều hỗn hợp trong 1 giờ (hoặc lắc vài lần rồi để yên trong 1
ngày).
Sau đó tiến hành lọc để lấy dịch lọc trong suốt. Hút lấy 50ml dịch lọc cho vào
bình tam giác 250ml để xác định độ chua trao đổi và phần dịch lọc còn lại để xác định
pH.
a. Xác định độ chua thuỷ phân: Cho vào bình 3 giọt Phenol Phtalein và tiến
hành chuẩn độ bằng dung dịch NaOH 0,02N cho đến khi xuất hiện màu hồng (không
biến mất trong 1 phút).
b. Xác định pH
KCl
của đất: Đo chỉ số pH dịch lọc của đất bằng máy đo pH.
3. Cách tính
Độ chua trao đổi trong đất được tính theo mili đương lượng gam trong 100g đất
theo công thức:
X
mE
= V.N.5 (mE/100g đất)
Trong đó: - V: Thể tích dung dịch NaOH đã dùng để chuẩn độ
- N: Nồng độ đương lượng của dung dịch NaOH dùng để chuẩn độ
148
3H
2
O
- 5: Hệ số quy đổi ra 100g đất
4. Hoá chất cần thiết
- Dung dịch KCl 1N
- Dung dịch NaOH 0,02N
- Dung dịch Phenol Phtalein 0,1%
149
BÀI 6

XÁC ĐỊNH ĐỘ CHUA THUỶ PHÂN TRONG ĐẤT
THEO PHƯƠNG PHÁP KAPPEN
1. Nguyên tắc phân tích
Ion H
+
hấp thụ được rút ra khỏi keo đất bằng dung dịch muối thuỷ phân kiềm
theo sơ đồ phản ứng:
[KĐ]
H+
+ CH
3
COONa [KĐ]
Na+
+ CH
3
COOH
Ở đây, ngoài tác dụng đẩy H
+
ra khỏi keo đất của cation Na
+
giống như khi rút
tinh độ chua trao đổi mà còn có tác dụng liên kết H
+
của amoni nữa. Do đó, không
những H
+
của độ chua trao đổi bị rút mà còn cả những ion H
+
, Al
3+

liên kết tương đối
bền với keo đất, vì thế độ chua thuỷ phân thường lớn hơn độ chua trao đổi.
CH
3
COONa + H-OH CH
3
COOH + NaOH
CH
3
COOH rất ít khi phân ly thành iôn, còn NaOH phân lý hoàn toàn thành Na
+
và OH
-
; OH
-
tạo ra một ái lực có tác dụng hút các Cation hấp thụ trên keo đất, đồng
thời làm cho dung dịch có phản ứng hơi kiềm; đó là những điều kiện để Na
+
đẩy hết
Al
3+
và H
+
ra khỏi keo đất.
H
+
4Na
+
[KĐ] + 4 NaOH + 3H
2

O [KĐ] + Al(OH)
3
+ 4 CH
3
COOH
Al
3+

Sau đó chuẩn độ H
+
trong dung dịch sau rút tinh bằng NaOH (chỉ thị Phenol
Phtalein).
Trị số độ chua thuỷ phân cho biết tổng số cation H
+
hấp thụ. Đại lượng này biểu
thị mức độ chưa no bazơ của đất. Căn cứ vào độ chua thuỷ phân, người ta tính ra
lượng vôi (hoặc các hoá chất xử lý độ chua của đất).
2. Thủ tục tiến hành
Cân 40 g đất qua rây 1mm cho vào bình tam giác 250ml. Cho vào bình 100ml
dung dịch CH
3
COONa 1N. Lắc đều hỗn hợp trong 1 giờ (hoặc lắc vài giờ rồi để yên
trong 1 ngày).
Sau đó tiến hành lọc để lấy dịch lọc trong suốt. Hút lấy 50ml dịch lọc cho vào
bình tam giác 250ml để xác định độ chua thuỷ phân.
Cho vào bình 3 giọt Phenol Phtalein và tiến hành chuẩn độ bằng dung dịch
NaOH 0,1N cho đến khi xuất hiện màu hồng (không biến mất trong 1 phút).
3. Cách tính
150
Độ chua thuỷ phân trong đất được tính theo mili đương lượng gam trong 100g

đất theo công thức:
H = V.N.5.1,75 (mE/100g đất)
Trong đó: - V: Thể tích dung dịch NaOH đã dùng để chuẩn độ
- N: Nồng độ đương lượng của dung dịch NaOH dùng để chuẩn độ
- 5: Hệ số quy đổi ra 100g đất
- 1,75: Hệ số hiệu chỉnh để quy ra trường hợp rút tinh toàn bộ độ chua thuỷ
phân.
4. Hoá chất cần thiết
- Dung dịch CH
3
COONa 1N
- Dung dịch NaOH 0,1N
- Dung dịch Phenol Phtalein 0,1%
CÁCH TÍNH LƯỢNG VÔI CẦN BÓN DỰA VÀO ĐỘ CHUA THUỶ PHÂN
- Nếu sử dụng vôi Cao: Lượng vôi Q (kg/diện tích) = 0.28*S*h*D*H
- Nếu sử dụng vôi CaCO
3
: Lượng vôi Q (kg/diện tích) = 0.5*S*h*D*H
Trong đó: H – Độ chua thuỷ phân (mE/100g đất)
S- Diện tích cần bón (m
2
)
h: Bề dày tầng đất canh tác (m)
D: Dung trọng đất (g/cm
3
)
Ví dụ: S = 1 ha = 10.000m
2
H = 0.2m
D bình quân khoảng 1.5 (tấn/m

3
)
Trọng lượng lớp đất mặt = S*h*D= 3.10
6
kg
H tính bằng lđl/100g đất, vì vậy 1000g (1kg) sẽ có 10H (là số lđl H
+
)
Số lđl H
+
tầng mặt là = 3.10
6
*10H= 3.10
7
H
Nếu dùng 1 lđl CaO thì cần: 3.10
7
H*28.10
-6
= 840H (kg/ha)
151
BÀI 7
XÁC ĐỊNH TỔNG BAZƠ TRAO ĐỔI TRONG ĐẤT
(THEO PHƯƠNG PHÁP KAPPEN – GINCÔVIT)
1. Nguyên tắc phân tích
Phương pháp này dựa trên quá trình đẩy các cation bazơ hấp thu bằng ion H
+
của dung dịch HCl theo phản ứng trao đổi:
Tổng lượng bazơ trao đổi được xác định theo sự giảm nồng độ HCl trong dung
dịch sau khi rút tinh đất. Lượng HCl còn dư được xác định bằng cách chuẩn độ bằng

dung dịch NaOH.
2. Thủ tục tiến hành
Cân 20g đất qua rây 1mm cho vào bình tam giác 250ml. Cho vào bình 100ml
dung dịch HCl 0,1N. Lắc đều hỗn hợp trong 1 giờ. Sau đó tiến hành lọc để lấy dịch lọc
trong.
Hút lấy 50ml dịch lọc cho vào bình tam giác 250ml. Cho vào bình 3 giọt Phenol
Phtalein và tiến hành chuẩn độ bằng dung dịch NaOH 0,1N cho đến khi xuất hiện màu
hồng không biến mất khi lắc đều trong vòng 1 phút.
3. Cách tính
* Tổng số bazơ trao đổi S trong đất được tính theo mili đương lượng gam trong
100g đất theo công thức:
S = (N
1
.V
1
- N
2
.V
2
).10 (mE/100g đất)
Trong đó: - N
1
: Nồng độ đương lượng của dung dịch HCl dùng để rút tinh đất
- V
1
: Thể tích dung dịch HCl đã dùng để rút tinh đất
- N
2
: Nồng độ đương lượng của dung dịch NaOH dùng để chuẩn độ
- V

2
: Thể tích dung dịch NaOH đã dùng để chuẩn độ
- 10: Hệ số quy đổi ra 100g đất
* Tính độ no bazơ của mẫu đất đã dùng để phân tích theo công thức:
V (%) =
152
[ ] [ ]
++
+→+
++
2
2
2
2
CaKDHKD
HCa
[ ] [ ]
++
+→+
++
2
2
2
2
MgKDHKD
HMg
S.100
S + H
4. Hoá chất cần thiết
- Dung dịch HCl 0,1N

- Dung dịch NaOH 0,1N
- Dung dịch Phenol Phtalein
THANG ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOÁ HỌC ĐẤT
1. Độ chua
+ pHH
2
O: + pHKCl:
Giá trị Thang đánh giá Giá trị Đánh giá
< 4,0 Rất chua < 4,5 Rất chua
4,0 - 4,9 Chua nhiều 4,6 - 5,0 Chua vừa
5,0 - 5,4 Chua 5,1 - 5,5 Chua nhẹ
5,5 - 5,9 Hơi chua 5,6 - 6,0 Gần trung tính
6,0 - 7,5 Trung tính > 6,0 Trung tính
7,6 - 8,4 Hơi kiềm
8,5 - 9,4 Kiềm
> 9,5 Kiềm mạnh
(Nguồn: FAO-UNESCO) (Nguồn: Sổ tay phân tích - ĐHTH Hà
Nội)
2. Chất hữu cơ
Giá trị OC (%) Thang đánh giá Giá trị OM (%) Thang đánh giá
< 0,4 Rất thấp < 1 Nghèo
0,5 - 0,9 Thấp 1,0 - 2,0 Trung bình
1,0 - 1,9 Trung bình > 2,0 Giàu
2,0 - 5,0 Cao
> 5,0 Rất cao
(Nguồn: FAO-UNESCO) (Nguồn: Đất Việt Nam - Hội KH Đất)
3 Đạm (N)
Giá trị N (%) Thang đánh giá
< 0,1 Đất nghèo N
0,1 - 0,2 Đất trung bình

> 0,2 Đất giàu N
(Nguồn: Đất Việt Nam - Hội KH Đất)
4. Lân (P
2
O
5
)
+ Tổng số: + Dễ tiêu:
P
2
O
5
(%) P
2
O
5
(mg/100g đất) Thang đánh giá
153
< 0,06 < 5 Đất nghèo P
0,06 - 0,10 5,0 - 10,0 Đất trung bình
> 0,10 > 10,0 Đất giàu P
(Nguồn: Đất Việt Nam - Hội KH Đất)
5. Kali (K
2
O)
+ Tổng số: + Dễ tiêu:
K
2
O (%) K
2

O (mg/100g đất) Thang đánh giá
< 1,0 < 10,0 Đất nghèo K
1,0 - 2,0 10,0 - 20,0 Đất trung bình
> 2,0 > 20,0 Đất giàu K
(Nguồn: Đất Việt Nam - Hội KH Đất)
6. Dung tích hấp thu CEC [pH7] (cmol(+)/kg đất)
Giá trị Thang đánh giá
< 4,0 Rất thấp
4,0 - 9,9 Thấp
10,0 - 19,9 Trung bình
20,0 - 39,9 Cao
> 40,0 Rất cao
7. Tổng các Bazơ [Ca + Mg + K + Na] (cmol(+)/kg đất)
Giá trị Thang đánh giá
< 1,0 Rất thấp
1,0 - 3,9 Thấp
4,0 - 7,9 Trung bình
8,0 - 15,9 Cao
> 16,0 Rất cao
8. Độ bão hòa Bazơ BS [CEC pH7] (%)
Giá trị Thang đánh giá
> 80 Rất cao
50 - 79 Cao
30 - 49 Trung bình
10 - 29 Thấp
< 10 Rất thấp
9. Độ mặn
+ Độ mặn Chiupunư:
Hàm lượng muối (%) Loại đất
154

< 0,3 Đất không mặn
0,3 - 0,6 Đất mặn ít
0,6 - 1,0 Đất mặn trung bình
1,0 - 2,0 Đất mặn
2,0 - 3,0 Đất rất mặn
> 3,0 Đất solontrat
+ Độ mặn (Tsôsin): Dựa vào Cl
-
và SO
4
2-
:
Loại đất Cl
-
(%) SO
4
2-
(%) Hỗn hợp Cl
-
và SO
4
2-
(%)
Đất mặn ít 0,2 - 0,6 1,0 - 1,3 0,4 (0,6) - 0,8 (0,9)
Đất mặn trung bình 0,6 - 1,0 1,3 - 1,7 0,8 (0,9) - 1,2 (1,3)
Mặn 1,0 - 2,0 1,7 - 2,7 1,2 (1,3) - 2,2 (2,3)
Rất mặn 2,0 - 3,0 2,7 - 3,7 2,2 (2,3) - 3,2 (3,3)
Solonchat > 3,0 > 3,7 > 3,3
+ Dựa vào tỉ số Cl
-

, SO
4
2-
:
Tỷ số Cl
-
/SO
4
2-
Loại đất
> 4,0 Đất mặn clo
4,0 - 1,0 Đất mặn clo-sunfat
1,0 - 0,5 Đất mặn sunfat-clo
< 0,5 Đất mặn sunfat
10. Nhôm trao đổi (%)
Giá trị Thang đánh giá
< 5 Rất thấp
5 - 24 Thấp
24 - 49 Trung bình
50 - 79 Cao
> 80 Rất cao
155

×