Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Hình thành năng lực tự học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.03 KB, 132 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
* Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII đã xác định: "Phải khuyến khích tự
học "phải" áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho
những sinh viên năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề".
* Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII tiếp tục khẳng định phải:
Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện
hiện đại vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên Cao đẳng, Đại
học.
* Từ định hướng trên đã được pháp chế hóa trong Luật Giáo dục tại
Điều 24.2:
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh
* Đứng trước thực trạng của xã hội loài người ngày nay là xã hội tri
thức và thông tin. Sự đổi mới với tốc độ rất nhanh trong các lĩnh vực khoa
học và công nghệ tác động đến thông tin ở ba khía cạnh:
- Thông tin có giá trị không dài;
- Khối lượng thông tin tăng nhanh;
1
- Nội dung thông tin ngày càng chuyên môn hóa và phức tạp (S.T.
chong. 1998).
Như vậy, cách dạy chỉ hướng tới cung cấp kiến thức (thông tin) sẽ
luôn bị lạc hậu với thời đại. Mà xã hội tri thức và thông tin đòi hỏi một nền
giáo dục suốt đời cho mọi người.


1.2. Do thực trạng việc dạy và học ở các trường Cao đẳng sư phạm
thầy thường dạy theo phương pháp diễn giải, thuyết trình, nói lại giáo trình,
còn sinh viên ngồi nghe rồi ghi chép rất thụ động. Giảng viên chỉ chú trọng
dạy kiến thức lý luận, còn việc rèn kĩ năng cho sinh viên thông qua môn học
rất ít đề cập đến. Kết quả là: Sau khi học xong phần đó, chóng quên, cũng như
việc hình thành cho sinh viên kĩ năng dạy học sau này không được tốt.
1.3. Do vai trò tự học trong quá trình dạy học hiện nay mà Đảng đã đề
ra cho ngành giáo dục đặc biệt ở các trường Sư phạm nói chung và các trường
Cao đẳng Sư phạm nói riêng một trách nhiệm nặng nề là đào tạo những người
thầy giáo đảm đương được trách nhiệm trồng người trong thời đại mới.
Trong nền giáo dục suốt đời và xã hội học tập thì việc tự học của mỗi
người ngày càng trở nên quan trọng.
Như khi bàn về việc học:
- Lênin đã khuyên thanh niên: "Học, học nữa, học mãi".
- Hay Bác Hồ đã viết trong cuốn Sửa đổi lề lối làm việc: "Cách học
tập phải lấy tự học làm cốt lõi, phải biết tự động học tập".
Như vậy, để sinh viên tự học được tốt thì giảng viên phải hướng tới
việc dạy cho sinh viên biết cách học (ở đây cũng có nghĩa là hình thành cho
sinh viên năng lực tự học) là chủ yếu.
Do những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn như trên, nên tôi đã
chọn đề tài: "Hình thành năng lực tự học cho sinh viên Cao đẳng Sư phạm
trong dạy học phần: "Động vật học có xương sống"".
2
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định các năng lực tự học cần có và biện pháp hình thành trong
giảng dạy học phần Động vật học có xương sống cho sinh viên nhằm góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo và đổi mới phương pháp dạy học ở các
trường Cao đẳng Sư phạm.
3. Giả thuyết khoa học
Nếu xác định được năng lực tự học cần có và biện pháp hình thành

phù hợp sẽ vừa hình thành được năng lực tự học, vừa nâng cao được chất
lượng học phần Động vật có xương sống.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu năng lực tự học cần có và biện pháp hình
thành năng lực tự học ở sinh viên Cao đẳng Sư phạm trong giảng dạy học
phần Động vật có xương sống.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Sinh viên năm thứ nhất lớp Hóa - Sinh
K24 trường Cao đẳng Sư phạm.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở lý thuyết của việc hình thành năng lực tự học ở
sinh viên Cao đẳng Sư phạm.
5.2. Xác định thực trạng năng lực tự học ở sinh viên Cao đẳng Sư phạm.
5.3. Xác định năng lực tự học cần có ở sinh viên Cao đẳng Sư phạm.
5.4. Xác định biện pháp hình thành ở sinh viên năng lực tự học trong
khi giảng dạy học phần Động vật học có xương sống.
5.5. Thực nghiệm sư phạm để xác định hiệu quả của các biện pháp
trong việc hình thành năng lực tự học và nâng cao kết quả học tập qua học
phần Động vật học có xương sống.
6. Phương pháp nghiên cứu
3
6.1. Nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu về đường lối giáo dục, phương hướng phát
triển giáo dục, các nghị quyết chỉ thị của bộ giáo dục và đào tạo về phương
pháp đổi mới: Nội dung, phương pháp dạy học ở các cấp học, các ngành học.
- Nghiên cứu các tài liệu về:
+ Học và cách dạy học;
+ Năng lực tự học, đặc trưng phương pháp học tập học phần: động
vật học có xương sống.
- Tài liệu lý luận về dạy học sinh học.
6.2. Phương pháp điều tra

- Điều tra thực trạng năng lực tự học ở sinh viên Cao đẳng sư phạm.
- Điều tra thực trạng biện pháp hình thành năng lực tự học ở sinh viên
qua giảng dạy một số môn học thông qua việc dự giờ, trao đổi…
6.3. Thực nghiệm sư phạm
- Mục đích thực nghiệm: Kiểm tra hiệu quả của các biện pháp hình
thành năng lực tự học ở sinh viên.
- Nội dung thực nghiệm: Xác định hiệu quả của các biện pháp về:
+ Hình thành năng lực tự học;
+ Nắm vững kiến thức qua dạy chương 6,8 của học phần: Động vật
học có xương sống.
- Phương pháp tiến hành:
+ Đối tượng: Sinh viên năm thứ nhất lớp hóa sinh K24 trường Cao
đẳng Sư phạm Bắc Ninh.
+ Công thức thực nghiệm: Thực nghiệm theo mục tiêu nghĩa là: Lấy
mục tiêu làm đối chứng còn thực nghiệm là các biện pháp hình thành năng lực
tự học.
4
+ Các bài dạy thực nghiệm: Thuộc chương 6, 8 học phần Động vật
học có xương sống.
+ Xử lý số liệu: Kết quả được phân tích kỹ cả mặt định tính và định
lượng theo tiêu chí định trước.
7. Giới hạn của đề tài
Hình thành năng lực tự nghiên cứu giáo trình theo hướng dẫn của
giảng viên qua học phần Động vật học có xương sống.
8. Những đóng góp mới của luận văn
8.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hình thành năng lực tự học ở sinh
viên Cao đẳng Sư phạm. Từ đó làm tài liệu cần thiết cho việc nghiên cứu lý
luận dạy học Đại học.
8.2. Hệ thống hóa những năng lực tự học cần có ở sinh viên khi
nghiên cứu giáo trình về sinh học. Góp phần nâng cao phương pháp giảng dạy

theo hướng đổi mới ở các trường Cao đẳng Sư phạm.
8.3. Đề xuất biện pháp hình thành ở sinh viên năng lực tự học qua
giảng dạy học phần Động vật học có xương sống. Từ đó làm tài liệu để cải
tiến dạy học môn học.
8.4. Những kết quả thực nghiệm là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu
tiếp của hướng đề tài này. Đồng thời là những gợi ý để áp dụng cải tiến
phương pháp trong dạy học bộ môn ở Cao đẳng Sư phạm
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở của việc hình thành năng lực tự học ở sinh viên.
Chương 2: Các biện pháp hình thành năng lực tự học ở sinh viên
trong dạy học, học phần "Động vật có xương sống".
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
5
Chương 1
CƠ SỞ CỦA VIỆC HÌNH THÀNH
NĂNG LỰC TỰ HỌC Ở SINH VIÊN
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1.Các quan niệm về việc hình thành năng lực tự học ở sinh viên
1.1.1.1. Trên thế giới
Hình thức dạy học theo kiểu giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức,
giúp cho người học tự học, tích cực hoạt động để tự tìm ra tri thức đã được
nghiên cứu rộng khắp thế giới từ lâu như:
* Ở Mỹ từ những năm 1920 Helen Pankhutôts đã nghiên cứu, đề xuất
và triển khai kế hoạch Dalton tại trường Dalton ở tiểu bang Massa Chuse là:
Giáo viên có vai trò vạch ra những công việc cần làm và giao nhiệm vụ cho
người học, còn người học tự quyết định kế hoạch thực hiện. Toàn bộ hoạt
động học tập của người học do họ tự thực hiện từ các phòng thí nghiệm, thực
hành bộ môn và được kiểm soát bằng các phiếu học tập.

* Theo G.D.Sharmo và Shatt.R.Ahmed đã nhận định: Hình thức
hướng dẫn sinh viên tự học là một hình thức tổ chức học có hiệu quả: "Cốt lõi
của hình thức này là quá trình điều khiển gián tiếp của giảng viên đối với quá
trình tự học của sinh viên thông qua việc giao nhiệm vụ nhận thức đã được
thiết kế thành dạng phù hợp, nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ học tập đã
được xác định [51].
* Theo A.Đixtécvéc (1790 - 1866) cho rằng: Nghệ thuật sư phạm của
người thầy giáo không phải chỉ: "Dạy cho họ cách tìm ra chân lý" mà phải
tăng cường tổ chức hoạt động tự học, tự nghiên cứu "Biến quá trình dạy học
thành quá trình tự học".
6
* Theo T. Makiggerchi đã nhấn mạnh: "…nhà giáo trước hết không
phải là người cung cấp thông tin mà là người hướng dẫn đắc lực cho sinh viên
tự mình học tập tích cực… Họ phải nhường quyền cung cấp tri thức cho sách
vở, tài liệu và cuộc sống" thay vào đó "Giáo viên phải là cố vấn", là "Trọng
tài khoa học".
* Nhiều tác giả Liên Xô (cũ) đã nghiên cứu sâu sắc cách thức nhằm
nâng có hiệu quả hoạt động tự học của người học, trong đó đã nêu lên các
biện pháp tổ chức hoạt động độc lập nhận thức của người học trong quá trình
dạy học(như Catxechue G.X…).
1.1.1.2. Trong nước
* Tự học - tự đào tạo là vấn đề được Nghị quyết Đại hội Đảng VIII và
Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đề cập rất đậm nét: "Tập trung sức nâng
cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học sáng tạo của sinh viên bảo
đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, phát triển
mạnh phong trào tự học - tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn
dân…".
* GS Nguyễn Văn Đạo (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã có một vài suy
nghĩ chung về vấn đề "Tự học": Tự học là công việc suốt cả cuộc đời mỗi
người và tác giả cho rằng:"Sinh, bệnh, lão, tử là quy luật chung của cuộc sống

đối với mọi sinh vật, song con người khác với sinh vật ở khả năng tư duy,
sáng tạo và khả năng này chỉ có thể đạt tới và phát huy trên nền kiến thức cơ
bản được tạo ra thông qua quá trình học và tự học. Số thời gian dành cho việc
học với sự giúp đỡ của người thầy là rất ít chỉ chiếm khoảng 1/4 của một đời
người. Thời gian còn lại chủ yếu là dành cho việc tự học, cho lao động sáng
tạo. Ngay cả trong giai đoạn đi học việc tự học luôn luôn có vai trò đặc biệt
quan trọng. Những người biết tự học, năng động, sáng tạo trong quá trình đi
học là những người có triển vọng và tiến xa trong cuộc đời này.
7
* Nguyễn Kỳ (Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học) cho rằng: Tự
học - tự đào tạo là con đường phát triển tối ưu. Con đường phát triển tối ưu là
con đường ba nhất:
- Chất lượng cao nhất;
- Quy mô lớn nhất;
- Hệ thống hợp lý nhất.
Trong cuốn Tự học - tự đào tạo - tư tưởng chiến lược của phát triển
Giáo dục Việt Nam tác giả Nguyễn Kỳ cho rằng: Chiếc gậy thần để làm cho
giáo dục Việt Nam tăng tốc từ "Ba thấp" đến "Ba nhất" là truyền thống tự học
sáng tạo của dân tộc, là khoa học tự học.
* GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: Tự học là tự mình động não,
sử dụng các năng lực trí tuệ, cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ,
tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan, để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu
biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
1.1.2. Về tài liệu hướng dẫn tự học
1.1.2.1. Trên thế giới
* GS.TSKH Hans Joachin Luabs [17] đã đưa ra những yêu cầu về nội
dung, kỹ thuật thiết kế, chỉ dẫn cho các tác giả viết tài liệu dùng cho sinh viên.
Theo tác giả, tài liệu chính dùng cho sinh viên là giáo trình, ngoài ra còn có
các tài liệu khác trợ giúp cho việc học như sách bài tập, tập lưu trữ tư liệu,
sách luyện tập, sách tóm tắt tài liệu tham khảo… Đồng thời tác giả đã chỉ rõ

chức năng của các tài liệu học dành cho sinh viên là:
- Chức năng biểu đạt;
- Chức năng điều khiển;
- Chức năng khuyến khích động cơ;
- Chức năng phân hóa, chức năng luyện tập và kiểm tra.
8
* Các tác giả Hà Lan: Fortunat Walther, Rudolf, Batliner, Devi Pdahl,
John Colkun, Gobinda R Poudel, Gerald Stegmanm, Shiv Kuman Shah [43]
đã biên soạn các thẻ kỹ năng. Mỗi thẻ này như một tài liệu hướng dẫn và rèn
luyện một kỹ năng sư phạm nhất định. Thẻ được trình bày trên hai mặt của
một tờ giấy gồm các nội dung sau: Mở đầu, mục đích, các tiến hành, lưu ý,
kết luận và bản hướng dẫn thực hiện kỹ năng sư phạm đó.
1.1.2.2. Trong nước
* GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn [48] đã chỉ ra rằng: Để hướng dẫn tự
học phải viết tài liệu in ra và hướng dẫn người học tự học. Tài liệu hướng dẫn
phải vạch ra được kế hoạch học tập, phương pháp học, nội dung tài liệu
hướng dẫn tự học phải chỉ ra được mối quan hệ lôgic giữa các chương, vẽ ra
một sơ đồ về mối quan hệ đó. Việc hướng dẫn nên thể hiện ra bằng những câu
hỏi hoặc bài tập nhỏ.
* Theo Nguyễn Bá Kim [24] tài liệu hướng dẫn phải có yếu tố phương
pháp học và có yếu tố mô phỏng sự tìm tòi, khám phá để định hướng và khêu
gợi động cơ, hỗ trợ, ôn tập, củng cố.
* Tác giả Hoàng Hữu Niềm [32] đã nghiên cứu chức năng, mục đích,
nội dung, yêu cầu, hình thức của phiếu tự học và tài liệu hướng dẫn tự học để
biên soạn và sử dụng chúng trong quá trình hướng dẫn cho sinh viên ở các
Trung tâm giáo dục thường xuyên.
* Tác giả Phan Đức Duy, trong luận án tiến sĩ [13] đã nghiên cứu quy
trình thiết kế, các yêu cầu kỹ thuật của bài tập tình huống - Đây như một tài
liệu hướng dẫn sinh viên tự học và rèn luyện kỹ năng để hình thành năng lực
tự học.

* Trong lĩnh vực dạy học bộ môn sinh học, nhiều công trình nghiên
cứu cũng đề cập đến việc hình thành năng lực tự học cho sinh viên thông qua
các tài liệu hướng dẫn học và quy trình sử dụng chúng trong dạy học. Trần Bá
9
Hoành [21] đã xây dựng các kỹ thuật thực hiện các phương pháp tích cực,
trong đó các kỹ thuật xây dựng và sử dụng phiếu học tập.
* GS.TS Đinh Quang Báo đã nêu phương pháp dạy sinh viên đọc sách -
Phương pháp dạy tự học chủ yếu.
* PGS.TS Nguyễn Đức Thành cũng đã nghiên cứu về tài liệu hướng
dẫn tự học: Mô hình hướng dẫn học và học có hướng dẫn trong dạy học ở Đại
học nhằm rèn luyện năng lực tự học cho sinh viên khoa sinh Đại học sư phạm
trong dạy học môn "Phương pháp dạy học sinh học" nhằm nâng cao kết quả
đào tạo.
1.1.3. Về hướng dẫn tự học theo hướng hình thành năng lực tự
học ở sinh viên
Để quá trình hướng dẫn tự học được hình thành theo hướng "Hình
thành năng lực tự học ở sinh viên" trong hoạt động dạy học đó ta nên hiểu: Dạy
chính là sự tổ chức và điều khiển tối ưu hóa quá trình chiếm lĩnh tri thức, hình
thành năng lực tự học. Hoạt động dạy có hai chức năng luôn xoắn kết chặt chẽ
với nhau là: "Cung cấp thông tin dạy học và điều khiển hoạt động học". Mối
tương quan giữa hai chức năng này thay đổi qua lịch sử phát triển của các
phương pháp dạy học. Ta xem xét hai quan điểm dưới đây:
Khái niệm Quan điểm truyền thống
Quan điểm dạy học theo
phương pháp tích cực
Khái niệm
dạy học
cơ bản
Đào tạo trẻ em thành người lớn
thông qua những người lớn tuổi

hơn, những hình mẫu, lý luận
dạy học ở đây thiên về mệnh
lệnh và uy quyền
Tạo ra các chương trình đào tạo
phù hợp với chủ thể nhằm hình
thành năng lực chuyên môn, năng
lực xã hội và cá nhân, khả năng
hành động. Lý luận dạy học chú
trọng phát triển năng lực tự chủ và
khả năng giao tiếp
Phương Các phương pháp truyền thụ và Giờ học là sự phối hợp hoạt động
10
pháp,
phương tiện
dạy học
thông báo chiếm ưu thế trong
đó bao gồm định hướng mục
đích học tập và kiểm tra, các
phương pháp nặng về định
hướng hiệu quả truyền đạt.
của người dạy và người học trong
việc lập kế hoạch thực hiện, đánh
giá. Dạy học theo hướng: Dạy cách
tự học, giải quyết vấn đề, định
hướng hành động chiếm ưu thế
Mỗi hình thức tổ chức dạy sẽ ứng với một cách thức học tập nhất
định. Sự tương quan giữa dạy và học được thể hiện theo sơ đồ 1.1:
Sơ đồ 1.1: Sự phát triển mối tương quan giữa dạy và học
* Theo xu hướng hiện nay, việc giảng dạy ở các trường Đại học là giảm
tối đa kiểu dạy theo lối truyền thụ và sinh viên lĩnh hội tri thức một cách thụ

động. Mà tăng cường tổ chức, điều khiển để sinh viên tự lực tìm tòi, nghiên cứu
nhằm phát huy tính độc lập trong quá trình nhận thức, phát triển năng lực của
người học. Có rất nhiều tác giả trên thế giới và trong nước nghiên cứu, đề xuất
các quy trình hướng dẫn sinh viên tự học như quy trình 8 bước học định hướng
giải quyết vấn đề, quy trình 5 bước học theo công đoạn. Vậy trong khuôn khổ
của đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu quy trình hướng dẫn sinh viên tự
học trên cơ sở tài liệu hướng dẫn học.
11
Dạy
Điều khiển
Truyền thụ
Học
Lĩnh hội
Tính độc lập
Hướng dẫn tự học chính là sự hỗ trợ của giáo viên trong việc định
hướng, tổ chức và chỉ đạo nhằm giúp cho người học tối ưu hóa quá trình tự
lực chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo thông qua đó để hình
thành và phát triển nhân cách của họ [33].
Theo Nguyễn Kỳ, quy trình dạy tự học có 3 thời (sự điều khiển của thầy
theo 3 giai đoạn tương ứng với 3 giai đoạn học tập của trò) theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2: Chu trình dạy - tự học
Trong sơ đồ trên: Hình tròn bên trong tương ứng với nội lực - năng
lực tự học của trò theo 3 thời: Tự nghiên cứu → tự thể hiện → tự kiểm tra, tự
điều chỉnh.
Hình tròn ở giữa tượng trưng cho ngoại lực - tác động dạy của thầy,
cùng với 3 thời tương ứng của quá trình dạy:
Hướng dẫn - tổ chức - trọng tài - cố vấn, kết luận, kiểm tra.
12
Hướng
dẫn

Tự học
Tổ chức
2
Tự thể hiện
Trọng t ià
Hướng dẫn
Tự nghiên cứu
Tự kiểm tra
1
3
Các mũi tên trong sơ đồ ở vào từng thời đều xuất phát từ cực "thầy";
sáng kiến điều hành chung cả chu trình dạy - tự học đều thuộc về thầy: Thầy
là người khởi xướng, người dẫn chương trình tự học của trò.
* Theo PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, ĐHSP Hà Nội - 2002 thì quy
trình hướng dẫn gồm các bước sau:
+) Bước 1: Định hướng việc học:
Giáo viên phải giúp cho người học ý thức được nội dung, mục tiêu đạt
được. Định hướng con đường đạt đến.
+ Bước 2: Hướng dẫn học chủ để:
- Chỉ ra được các nội dung cần phải học.
- Chỉ ra được các nội dung cần làm rõ.
- Đối với những kiến thức khó cần chỉ rõ nguồn tài liệu để tham khảo
(cung cấp những thông tin cần thiết để làm rõ vấn đề này).
- Có tài liệu hướng dẫn.
+ Bước 3: Tổ chức thảo luận.
+ Bước 4: Tổng kết đánh giá.
* Từ quy trình trên tác giả đã đề xuất quy trình hướng dẫn học một
chủ đề, quy trình hướng dẫn một buổi học.
+ Quy trình hướng dẫn học một chủ đề:
- Ý thức được việc học

- Tự nghiên cứu theo hướng dẫn
- Tự thể hiện bằng bài làm
- Tự thể hiện trước nhóm, lớp, giáo viên.
13
- Tự tổng kết, rút kinh nghiệm
+ Quy trình hướng dẫn một buổi học
- Kiểm tra sự chuẩn bị của người học
- Thảo luận
- Tổng kết
- Hướng dẫn chủ đề mới.
* Trong luận án tiến sĩ - khoa giáo dục sinh học, tác giả Hoàng Hữu
Niềm đã đưa ra quy trình hướng dẫn tự học như sau [32]:









* Như vậy, có rất nhiều quy trình hướng dẫn học khác nhau, nhưng tất
cả các quy trình đó đều có các đặc trưng là:
14
Kết quả tự học của học viên
Tổ chức, chỉ đạo v trà ọng t ià Tự thể hiện kết quả tự học,
tự đánh giá
Tự học ở nh theo PTHà
Hướng dẫn cách tự học
theo PTH tổ chức

Nghe HDTH trên lớp
tự thể hiện qua thảo luận
Định hướng tự học cái gì
v mà ức độ phải đạt
Xác định mục tiêu
v nà ội dung cơ bản chủ điểm
Mục tiêu b i HDHà
Giáo viên
Học viên
- Thể hiện sự tự chủ, độc lập nghiên cứu của người học, từ việc ý thức
mục tiêu, nghiên cứu nội dung cho đến tự kiểm tra, tự đánh giá.
- Thầy là người hướng dẫn, định hướng, tổ chức, trọng tài.
- Việc tự học có được ắt phải có tài liệu.
- Phát huy tính vận dụng sáng tạo của người học.
* Hướng dẫn tự học để hình thành năng lực tự học ở SV được dựa trên
những cơ sở:
- Cơ sở tâm lý, sư phạm:
+ Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi ở SV có một số ưu thế như: Sự chú ý
tập trung và bền hơn học sinh phổ thông, đặc biệt là trước các vấn đề lý luận,
các vấn đề xã hội, óc tưởng tượng không gian nhạy bén, tăng khả năng ghi
nhớ, ghi nhớ máy móc giảm hơn. Khả năng ghi nhớ ở SV có tính khái quát
độc lập, mang tính chọn lọc và có phê phán hơn học sinh phổ thông.
Những đặc điểm trên rất thuận lợi cho hình thức hướng dẫn SV tự học.
+ Hướng dẫn tự học không phải là một phương án cụ thể nào mà nó bao
gồm tập hợp nhiều phương pháp. Hầu hết các phương pháp đó đều nhằm phát
huy tính tích cực học tập của SV và đều có đặc trưng chung là:
- Dạy học bằng việc tổ chức các hoạt động cho SV.
- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tự rèn luyện.
- Tăng cường học tập cá nhân, phối hợp.
- Dạy SV tự đánh giá.

Có thể kể đến các phương pháp được sử dụng như: Phương pháp tổ
chức SV thảo luận theo nhóm, theo lớp, phương pháp dạy học theo tình huống
(các tình huống được xây dựng trong tài liệu, phương pháp dạy học giải quyết
vấn đề...).
+ Động cơ học tập của sinh viên CĐSP là trở thành thầy giáo dạy ở
THCS. Để sinh viên tự học tốt thì động cơ cần được cụ thể hóa thành những
15
nhiệm vụ, mục tiêu, kiến thức, kỹ năng rõ ràng. Đây là nhiệm vụ của những
người hướng dẫn học hoặc tài liệu HDTH.
- Cơ sở triết học: Theo quan điểm triết học kết quả của hành động bị
chi phối bởi hai yếu tố đó là: nội lực và ngoại lực.
Sơ đồ 1.3: Sự cộng hưởng nội và ngoại lực
+ Theo quan điểm phát triển của sự vật, ngoại lực dù có quan trọng đến
đâu, lợi hại đến mấy thì cũng chỉ là nhân tố hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện.
Còn nội lực mới là nhân tố quyết định phát triển bản thân sự vật. Sự
phát triển đó đạt được trình độ cao nhất khi nội lực và ngoại lực cộng hưởng
với nhau.
Thật vậy, nếu xem nội lực là nhân tố quyết định phát triển bản thân
người học thì năng lực tự học (việc học) được xem là có ý nghĩa quyết định.
Trò là chủ thể, trung tâm, tự mình tìm ra kiến thức, chân lý bằng hành động
của chính mình, tự phát triển từ bên trong. Thầy là tác nhân, hướng dẫn, tổ
chức, đạo diễn cho trò tự học. Người thầy giỏi là người thầy biết dạy cho trò
biết tự học. Người học giỏi là người biết tự học, sáng tạo suốt đời. Song tự
học thuộc quá trình cá nhân hóa không có nghĩa là học một mình, đơn thân
độc mã, mà học trong sự hợp tác với các bạn, trong môi trường xã hội, dưới
sự hướng dẫn của nhà giáo.
Năng lực tự học - nội lực sẽ khó phát triển nếu thiếu sự hướng dẫn của
thầy và sự hợp tác của các bạn - ngoại lực. Ngược lại tác động của thầy, cô và
16
Nội lực

Ngoại lực
của môi trường xã hội sẽ kém hiệu lực nếu không phát huy được năng lực tự học
của người học. Vấn đề được đặt ra là không thể nhấn mạnh một chiều hoặc tách
rời nội lực với ngoại lực, mà là kết hợp chặt chẽ, mật thiết giữa nội lực với ngoại
lực, nhằm tiến tới đỉnh cao của chất lượng phát triển là cộng hưởng nội lực với
ngoại lực. Nói một cách khác, quá trình tự học, tự nghiên cứu (cá nhân hóa)
phải kết hợp với quá trình hợp tác với các bạn trong cộng đồng lớp học và quá
trình dạy của nhà giáo (xã hội hóa). Đó là quan điểm "Nội lực quyết định" của
dạy học tích cực lấy việc học (trò) làm trung tâm. Do đó cần chú trọng đến
yếu tố nội lực. Đây chính là bản chất quá trình tự học của SV.
- Cơ sở sinh lý học:
Quá trình hướng dẫn tự học dựa trên cơ sở "Học thuyết phản xạ có
điều kiện chủ động" của Skinner. Theo học thuyết này học là tự điều hòa hành
vi để dẫn tới mọi hành vi mong muốn bằng cách thử sai, nó được thực hiện vì
lợi ích của chính người học. Trong học thuyết của mình, Skinner cho rằng:
Con vật có thể tự tìm tòi, tự hình thành các phản xạ có điều kiện khi nó được
thực hành rèn luyện để giải quyết một tình huống, một nhiệm vụ mới xuất
hiện. Đây chính là cơ sở sinh lý học của hoạt động tự học nhờ tài liệu hướng
dẫn dưới sự điều khiển của thầy để hình thành năng lực tự học ở SV.
1.2. KHÁI NIỆM VỀ NĂNG LỰC
Ai cũng biết một xã hội tốt hay xấu, tiến nhanh hay trì trệ là do phẩm
chất và năng lực của những con người trong xã hội. Phẩm chất và năng lực
tiềm ẩn trong mỗi con người, đó cũng chính là nội lực ẩn náu trong con người.
Ta có thể hiểu: Năng lực là sự tích hợp tổng thể cách học và kỹ năng
tác động đến nội dung trong hàng loạt tình huống, vấn đề khác nhau, ta có thể
sơ đồ hóa khái niệm như sau:
Năng lực = Cách học ⇔ Kỹ năng ⇔ Nội dung ⇔ Tình huống ⇔ Vấn đề
17
* Ta nhận thấy, năng lực cơ bản có tác động lớn trong cuộc sống học
đường và đời thường. Các năng lực cơ bản cần chú ý tới là:

- Năng lực tư duy, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực
tự học.
- Năng lực được tạo ra dần dần và sử dụng suốt cả cuộc đời.
1.3. KHÁI NIỆM NĂNG LỰC TỰ HỌC
* Như trên (mục 1.2) đã nói:
Năng lực = Cách học ⇔ Kỹ năng ⇔ Nội dung ⇔ Tình huống ⇔ Vấn đề
Vậy cách học ở đây là gì?
Cách học là cách tác động của người học đến đối tượng học. Có thể
nói học cách học, học phương pháp học chính là học cách tự học. Tự học là
một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri
thức và kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ngoài
lớp, theo hoặc không theo chương trình sách giáo khoa đã được quy định. Tự
học có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học nhưng nó có tính độc lập cao
và mang đậm nét sắc thái cá nhân.
Như vậy, tự học là cách học với sự tự giác, tính tích cực và độc lập
cao của từng cá nhân.
Và khi nói đến học thì đương nhiên là phải tự học, không thể ai học
thay được. Song có hai cách học cơ bản:
- Một là, cách học có phần bị động, từ ngoài áp vào như kiểu hình
thành phản xạ cổ điển của Paplốp.
- Hai là, cách học chủ động, tự bản thân mình tạo nên các phản xạ có
điều kiện, như kiểu hình thành phản xạ tác động. Và về "Cách tự học" thì mỗi
người một vẻ, tùy theo tư chất và hoàn cảnh, điều kiện sống của mình mà mỗi
người có cách học riêng. Vì vậy mà ta thấy được: Ngày xưa không có các
18
trường chuyên nghiệp, mà cuộc thi hương, thi hội, thi đình đều theo một
chương trình "Từ chương khoa cử" nhưng xã hội vẫn có những người làm
nghề này, nghề khác... đó chủ yếu là qua con đường tự học.
Qua điều này ta càng thấy rõ khả năng tự học tiềm ẩn trong mỗi
con người.

Từ đó, ta hiểu năng lực tự học là: Nội lực phát triển bản thân của
người học. Trong bất cứ con người Việt Nam nào, trừ những người bị khuyết
tật, tâm thần, đều tiềm ẩn một tiềm lực, một tài nguyên quốc gia vô cùng quý
giá: đó là năng lực tự tìm tòi, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề thực tiễn, tự
đổi mới sáng tạo trong công việc hàng ngày của mình.
1.4. VAI TRÒ CỦA NĂNG LỰC TỰ HỌC
Năng lực tự học sáng tạo đã làm nên biết bao nhiêu nhà quân sự, chính
trị, khoa học, văn hóa lỗi lạc của đất nước. Biết bao anh hùng dân tộc từ
những người nông dân, công nhân, chiến sĩ bình thường trong lịch sử dựng
nước và giữ nước.
Chính năng lực tự học sáng tạo đã làm nên vị lãnh tụ vĩ đại của dân
tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất của thế giới - đó là Hồ Chí Minh.
Năng lực tự học có vai trò:
* Tự tìm ra ý nghĩa, làm chủ các kỹ xảo nhận thức, tạo ra cầu nối nhận
thức trong tình huống học.
* Làm chủ tri thức hiện diện trong chương trình học và tri thức siêu
nhận thức qua các tình huống học.
* Tự học, tự nghiên cứu đi đôi với sự hợp tác với các bạn trong môi
trường xã hội, cộng đồng lớp học và dưới sự hướng dẫn của nhà giáo.
* Tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lượm và xử
lý thông tin từ môi trường xung quanh mình.
19
* Tự học, tự nghiên cứu, tự mình tìm ra kiến thức bằng hành động của
chính mình, cá nhân hóa việc học, đồng thời hợp tác với các bạn trong cộng
đồng lớp học, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo, xã hội hóa lớp học.
1.5. CÁC LOẠI NĂNG LỰC TỰ HỌC
Lâu nay, khi nói đến "học" thì hầu như câu cửa miệng mọi người
đều nói là: "Học kiến thức", đôi khi nói thêm là: "Học kỹ năng". Kiến thức
và kỹ năng dĩ nhiên là quan trọng, là mục tiêu cần đạt được trong việc học,
nhưng ít ai nghĩ đến "cách đạt tới mục tiêu" và "cách vận dụng mục tiêu

mỗi khi đạt tới để đi đến những mục tiêu mới xa hơn, cao hơn". Không
những như vậy, thì nhận thức về sự học vẫn nông cạn, nhiều nội lực tiềm
tàng vẫn nằm im không được khơi dậy. Nếu khơi dậy ta cần chú ý tới việc
khơi dậy những năng lực tự học cơ bản như: năng lực tư duy, năng lực
phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực tự học. Trong đó cần khơi dậy
năng lực tự học của người học, mà năng lực tự học của người học, có
nhiều mức độ:
- Tự học hoàn toàn (học với sách, không có thầy bên cạnh).
- Tự học có người hướng dẫn (đây cũng là hình thức hoạt động tự
lực của người học để chiếm lĩnh tri thức và hình thành kỹ năng tương ứng
dưới sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của giáo viên thông qua tài liệu hướng
dẫn tự học).
1.5.1. Tự học hoàn toàn (học với sách, không có thầy bên cạnh)
Ở đây ta cũng hiểu sách là do một ông thầy viết ra, nên học có sách
tức là học với thầy (thầy là tác giả của sách) nhưng không có thầy bên cạnh
để hỏi mà học với sách không có thầy bên cạnh thường được hiểu là tự học.
Nhưng hiểu như vậy cũng vẫn là hẹp hòi vì ngay cả khi có thầy bên cạnh thì
thầy cũng chỉ giảng giải, uốn nắn, chứ thầy đâu có học hộ trò. Dạy dù sao
20
cũng chỉ là ngoại lực tác động đến trò. Ngoại lực đó phải tạo ra được sự
cộng hưởng của nội lực - tức là sự cố gắng của học trò. Sự cố gắng này mới
đúng là tự học, nó tồn tại cùng "học" như hình với bóng, ta thấy hai người
cùng học một thầy thì phần thầy giảng là như nhau đối với hai người nhưng
kết quả học tập lại phụ thuộc vào sự cố gắng tự học của mỗi người bắt đầu
ngay từ khi nghe giảng, người này có thể nghe thầy giảng một cách chăm
chú, người kia nghe giảng lơ đãng, thế là phần tự học đã khác nhau rồi.
Tự học, hiểu như vậy có thể xảy ra khi có thầy, có sách, cả khi không
có thầy, không có sách. Trong trường hợp này, người học có thể tích lũy thêm
được kinh nghiệm, thêm kiến thức, nhiều sự cọ xát với thực tiễn, và con
người từ 2 tháng tuổi trở đi đã biết tự học như vậy.

Cách học không thầy, không sách, thả nổi như vậy cũng có thể có
kết quả tích cực nhưng kết quả lâu đến vì không có hệ thống và chiều sâu
tư tưởng, rất ít kế thừa sự hiểu biết của những người đi trước. Vì vậy, phải
học một cách hệ thống với thầy rồi với sách và ngày nay cách học đó phải
dẫn tới thông minh, sáng tạo, học một biết mười vì nắm chắc kiến thức cơ
bản, có hệ thống, rồi năng lực tự học, tư duy với một tư cách tốt đẹp mà tự
mình tìm đến nhiều kiến thức khác nhờ cả vào công phu sưu tầm lẫn công
phu tự mình nghĩ ra. Đạt đến trình độ này rồi thì cách học không thầy,
không sách mà chỉ cọ xát với thực tiễn cũng sẽ được người học đích thân tổ
chức có hiệu quả cao như tổ chức tra cứu có mục đích, có phương hướng,
có phân công, hợp tác, có tài liệu, trang thiết bị hỗ trợ.
Tự học hoàn toàn là mức mà mọi người phải đạt đến nếu muốn học
suốt đời.
Và không có thầy thì có thể hỏi sách. Hỏi sách này không được thì
hỏi sách khác. Nhưng sách khác đó là sách gì? Thì nhiều khi cũng phải động
21
não mới biết là nên tìm sách gì, tìm sách đó ở đâu làm sao mà tìm được. Tìm
được sách lại phải biết chọn những chương nào, trang nào để học. Trong lúc
đọc lại thấy cần đọc thêm sách khác, biết tìm sách mà đọc, biết độc lập làm
việc với sách chính là "biết hỏi sách". Cần phải biết học cách "Hỏi sách" vì đó
là điều kiện không thể thiếu để tự học hoàn toàn, tự học suốt đời và việc tìm
sách ở trong thư viện kể cả thư viện điện tử phải trở thành thói quen của học
sinh, sinh viên ngày nay.
1.5.2. Tự học có hướng dẫn:
* Tự học có hướng dẫn là hình thức hoạt động tự lực của người học để
chiếm lĩnh tri thức và hình thành kỹ năng tương ứng, dưới sự hướng dẫn, tổ
chức, chỉ đạo của GV thông qua tài liệu HDTH.
* Việc tự học có hướng dẫn có thể được cụ thể hóa theo mô hình:
Mô hình học có hướng dẫn giáp mặt
Hoạt động khám phá

Hoạt động học Đối tượng
- Thu thập thông tin
+ Qua đọc sách giáo khoa, tài liệu
+ Qua quan sát
+ Qua tư liệu, mạng internet
+ Qua thí nghiệm
+ Qua bài tập
- Xử lý thông tin
+ Phân tích, tổng hợp, khái quát
+ Nhận xét, đánh giá
+ Phê phán
+ Tự trình bày
+ Ứng dụng
+ Tóm tắt nội dung
+ Lập bảng hệ thống
- Tự kiểm tra, tự điều chỉnh
+ Qua trả lời của bạn
22
+ Qua tự trả lời
+ Qua tổng kết của thầy
Để tự học có hướng dẫn đạt được kết quả cao, phải tuân thủ nghiêm
ngặt những điều sau đây:
- Phải tuyển sinh cho được những người "học được", không tùy tiện
châm chước, chiếu cố.
- Phải lo tạo động lực cho người học, giúp họ có sức chiến thắng các
khó khăn, nhất là ở giai đoạn đầu.
- Không được làm gì để cho tư tưởng ỷ lại phát sinh ở họ, đặc biệt thi
cử phải nghiêm túc để chặn đứng ở họ hy vọng được chiếu cố, châm chước.
- Tạo được những điều kiện tối thiểu (nhất là điều kiện giáo trình) cho
họ học.

Thật vậy, để tạo được động lực cho người học (gợi mở, khuyến khích
để hình thành năng lực tự học cho SV), GV dạy cho SV một số phương pháp
tự học (dựa trên mô hình học có hướng dẫn giáp mặt) trên đây đó là:
Các phương pháp tự học
* Các phương pháp thu nhập thông tin:
Bao gồm các phương pháp sau:
- Phương pháp đọc sách và ghi chép: Trong phương pháp này cần chú
ý tới:
+ Ý nghĩa của việc đọc sách
+ Lựa chọn sách để đọc
+ Xác định mục đích đọc
+ Phương pháp đọc
+ Đọc sách tham khảo
+ Cách ghi chép.
23
- Phương pháp hỏi: Cần:
+ Tự nêu ra những câu hỏi để tự trả lời
+ Hỏi bạn
+ Hỏi thầy
- Nghe bài giảng và ghi chép: Nên chú ý:
+ Ý nghĩa của bài giảng và ghi chép.
+ Chuẩn bị nghe giảng
+ Nghe giảng ở trên lớp
+ Cách ghi chép.
+ Xem lại và chỉnh lý bản in.
- Phương pháp ghi nhớ thông tin
+ Nhẩm lại.
+ Sắp xếp.
+ Tổ chức.
- Học "Tập trung tư tưởng cao độ":

+ Tập trung tư tưởng cao độ là gì?
+ Cách luyện "Tập trung tư tưởng cao độ".
+ Vận dụng "Tập trung" trong học tập.
- Phương pháp sử dụng từ điển:
+ Trong nước
+ Sử dụng từ điển nước ngoài.
* Các phương pháp xử lý thông tin:
- Diễn đạt ý:
24
+ Đặc điểm
+ Nguyên tắc
- Đặt câu hỏi
- Lập sơ đồ khái niệm.
- Sắp xếp các khái niệm.
- Sử dụng cách tiếp cận có hệ thống.
- Tóm tắt các ghi chép.
* Phương pháp nghiên cứu khoa học:
- Một số vấn đề chung về nghiên cứu khoa học:
+ Khái niệm
+ Mục đích
+ Tập dượt nghiên cứu khoa học:
- Yêu cầu và các bước tiến hành:
+ Yêu cầu.
+ Các bước tiến hành.
* Phương pháp rèn luyện tư duy
* Phương pháp tương tác, hợp tác:
- Khái niệm
- Làm việc với thầy, với bạn:
+ Thời một
+ Thời hai

+ Thời ba
- Xêmina, một hình thức thảo luận ở Đại học:
25

×