Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

khái quát lịch sử việt nam thời trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.76 KB, 25 trang )

Nhà Trần
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Loạt bài
Lịch sử Việt Nam
Thời tiền sử
Hồng Bàng
An Dương Vương
Bắc thuộc lần I (207 TCN - 40)
Nhà Triệu (207 - 111 TCN)
Hai Bà Trưng (40 - 43)
Bắc thuộc lần II (43 - 541)
Khởi nghĩa Bà Triệu
Nhà Tiền Lý và Triệu Việt
Vương (541 - 602)
Bắc thuộc lần III (602 - 905)
Mai Hắc Đế
Phùng Hưng
Tự chủ (905 - 938)
Họ Khúc
Dương Đình Nghệ
Kiều Công Tiễn
Nhà Ngô (938 - 967)
Loạn 12 sứ quân
Nhà Đinh (968 - 980)
Nhà Tiền Lê (980 - 1009)
Nhà Lý (1009 - 1225)
Nhà Trần (1225 - 1400)
Nhà Hồ (1400 - 1407)
Bắc thuộc lần IV (1407 - 1427)
Nhà Hậu Trần


Khởi nghĩa Lam Sơn
Nhà Hậu Lê (1428 - 1788)
Lê sơ

trung
hưng
Nhà Mạc
Trịnh-Nguyễn
phân tranh
Nhà Tây Sơn (1778 - 1802)
Nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Pháp thuộc (1887 - 1945)
Đế quốc Việt Nam (1945)
Chiến tranh Đông Dương
(1945 - 1975)
Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa
Quốc gia Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam (từ 1976)
Xem thêm
• Vua Việt Nam
• Nguyên thủ Việt
Nam
• Các vương quốc cổ
• Niên biểu lịch sử Việt
Nam

sửa
Bài này nói về nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, để tham khảo về nhà Trần trong
lịch sử Trung Quốc, xin xem Nhà Trần (Trung Quốc). Về các nghĩa khác của
chữ Trần, xem Trần (định hướng).
Nhà Trần hoặc Trần triều (Hán-Nôm: 家陳・陳朝—nhà Trần・Trần triều) là triều đại
phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi
giành được quyền lực từ tay nhà Lý và chấm dứt khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi
bị ép thoái vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly
– tổng cộng là 175 năm.
Mục lục
[ẩn]
• 1 Lịch sử
o 1.1 Nguồn gốc
o 1.2 Nguồn gốc tên
• 2 Thay ngôi nhà Lý, củng cố chính quyền
o 2.1 Thay ngôi nhà Lý
o 2.2 Dẹp nội loạn
• 3 Chống Nguyên Mông
• 4 Đối ngoại
o 4.1 Với Chiêm Thành
o 4.2 Với Ai Lao
• 5 Tổ chức quân đội
• 6 Hành chính
• 7 Luật pháp
• 8 Kinh tế
• 9 Giáo dục, thi cử
• 10 Tôn giáo
• 11 Văn hóa nghệ thuật
• 12 Thời kỳ suy tàn
• 13 Chính sách hôn nhân

• 14 Nhận định
o 14.1 Về chiến thắng Mông - Nguyên
o 14.2 Về hậu kỳ nhà Trần
• 15 Các vua nhà Trần
• 16 Thế phả nhà Trần
• 17 Xem thêm
• 18 Tham khảo
• 19 Chú thích
• 20 Liên kết ngoài
[sửa] Lịch sử
Xem thêm bài Trần Thủ Độ.
Khi nhà Lý bắt đầu suy yếu, người đứng đầu dòng họ Trần ở đây là Trần Cảnh (Trần
Thái Tông) nhưng người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của nhà Trần là Trần Thủ
Độ. Nhà Lý suy vi, quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi ép Lý Chiêu Hoàng
(7 tuổi) nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (8 tuổi; 1218 - 1277) thì thời đại của nhà
Trần chính thức bắt đầu năm 1225. Trong khoảng 175 năm trị vì, nhà Trần đã lãnh đạo
nhân dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống quân Nguyên thành công vào các năm 1258,
1285 và 1288, nhưng trong những năm sau này, kể từ đời vua Dụ Tông thì triều đại nhà
Trần đã suy yếu đi vì nhiều lý do, chủ yếu là do sự mục nát và yếu kém của hệ thống
quan lại. Cuối cùng vào năm 1400, Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, chấm dứt 175
năm trị vì của dòng họ này.
[sửa] Nguồn gốc
Tổ tiên của dòng dõi nhà Trần có nguồn gốc dân tộc Mân ở quận Tần Châu, tỉnh Phúc
Kiến, Trung Hoa. Ông Trần Quốc Kinh từ Phúc Kiến sang Việt Nam vào khoảng năm
1110, thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127), lúc đầu cư trú tại xã An Sinh, huyện Đông
Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay; sống bằng nghề chài lưới trên sông nước, trên đường
làm ăn chuyển dần vào hương Tức Mạc, huyện Thiên Trường, nay là vùng đất thuộc Thái
Bình - Nam Định. Trần Quốc Kinh lấy vợ ở Tức Mạc, sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp sinh ra
Trần Lý và Trần Hoằng Nghi. Trần Lý sinh ra Trần Tự Khánh, Trần Thừa và Trần Thị
Dung- sau được tôn là Trần Thái Tổ. Trần Hoằng Nghi sinh được ba người con trai: Trần

An Quốc, Trần An Bang và Trần Thủ Độ
[1]
.
[sửa] Nguồn gốc tên
Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc
xuất thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là
鯉, phiên âm là "Lý", nghĩa là cá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa).
Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha
của Trần Quốc Tuấn), người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang
chữ Cảnh (vua Thái Tông). Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm
hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà
vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".
Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường
biết tới.
[sửa] Thay ngôi nhà Lý, củng cố chính quyền
Một công trình trong quần thể đền Trần, Nam Định, Việt Nam
[sửa] Thay ngôi nhà Lý
Xem chi tiết: Lý Huệ Tông
Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông
ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có
thế lực vùng Hải Ấp (nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hoá, Thái tử
Sảm chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng
Trần Thị Dung, con gái thứ hai của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý
dẹp loạn, diệt trừ Quách Bốc (thuộc tướng của Phạm Bỉnh Di), đưa vua Lý trở lại kinh
đô. Cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ
Uy thế họ Trần bắt đầu được đề cao từ khi hoàng tử Sảm lên ngôi vào năm 1211, tức là
vua Lý Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm nguyên phi. Lúc
này, Tô Trung Từ được phong Thái uý phụ chính.
Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Thái hậu họ Đàm khống chế, nên mọi việc đều phó

thác cho Đàm Dĩ Mông, người chức cao, quyền lớn nhưng "không có học thức, không có
mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát". Lợi dụng tình
hình đó, Đoàn Thượng làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến
triều đình không chế ngự nổi. Năm 1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý
Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung, cùng với Trần thị Dung trốn đến nơi đóng quân
của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần.
Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ (em họ Trần
Thừa và Tự Khánh) khi ấy là chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân.
Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để vua Huệ Tông nhường ngôi
cho công chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo. Liền sau đó, Trần Thủ
Độ lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần
Cảnh lên 8 tuổi. Một năm sau, vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu
Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị.
Khi lên ngôi, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay
Thái sư Trần Thủ Độ và cha là Nhiếp chính Trần Thừa.
[sửa] Dẹp nội loạn
Xem chi tiết: Trần Tự Khánh, Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng
Từ năm 1211 trong nước Đại Việt đã hình thành ba thế lực phân cát lớn là:
• Họ Đoàn (Hải Dương và Hải Phòng).
• Họ Trần (Thái Bình, Nam Định và nam Hưng Yên).
• Họ Nguyễn (Quốc Oai, Hà Tây)
Triều đình nhà Lý chỉ kiểm soát vùng xung quanh Thăng Long. Trong quá trình nắm
quyền bính trong triều cho tới khi thay ngôi nhà Lý, nhà Trần tiếp tục phải đối phó với
các lực lượng cát cứ từ thời Lý.
Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến
thuật khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của
chính các thế lực này tự làm yếu nhau.
Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228.
Nhưng không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã.
Nhà Trần chấm dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm

nghiêng ngả dưới thời Lý.
[sửa] Chống Nguyên Mông
Bài chi tiết: Kháng chiến chống Nguyên Mông
Ở phương Bắc, người Mông Cổ dần dà xâm chiếm Trung Quốc. Sau khi tiêu diệt nhà
Kim phía bắc, các vua Mông Cổ tiến xuống phía nam để diệt nước Nam Tống vốn đã suy
yếu khi bị nhà Kim của người Nữ Chân xâm lấn từ đầu thế kỷ 12. Để tạo thế bao vây
Nam Tống, vua Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam (1254) và sau đó đánh
sang Đại Việt.
Cuối năm 1257 âm lịch, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai hay 兀
良合台) mang 3 vạn quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái
Tông đích thân ra chiến trận. Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến vào
được Thăng Long. Nhân dân Thăng Long theo lệnh của triều đình đã thực hiện "vườn
không nhà trống", rút về Thiên Mạc (Hà Nam). Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào
Thăng Long chưa đầy 1 tháng thì bị thiếu lương thực. Nhân cơ hội đó quân Đại Việt phản
công ở Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà Nội). Quân Mông Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long,
đến vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân của tộc trưởng Hà Bổng đánh tan tác, quân Mông
Cổ rút chạy về Vân Nam.
Năm 1279, quân Mông diệt được Nam Tống. Từ năm 1260, vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt
đã lập ra nhà Nguyên. Để lấy cớ đánh Đại Việt, nhà Nguyên cho Toa Đô mượn đường
đánh Chiêm Thành (Champa). Sau nhiều hoạt động ngoại giao hòa hoãn bất thành, cuối
cùng chiến tranh bùng phát. Cuối năm 1284, nhà Nguyên liền phái hoàng tử Thoát Hoan
và tướng Toa Đô mang quân đánh hai đường nam, bắc kẹp lại để chiếm Đại Việt. Thoát
Hoan đi từ Quảng Tây còn Toa Đô đi đường biển từ cảng Quảng Châu, trước hết đánh
vào Chiêm Thành rồi đánh "gọng kìm" thốc lên từ phía nam Đại Việt.
Đây là lần xâm lược Đại Việt với quy mô lớn nhất của nhà Nguyên (huy động hơn 50 vạn
quân) và cũng là cuộc kháng chiến gian khổ nhất của nhà Trần chống phương Bắc, quyết
định sự tồn vong của Đại Việt lúc đó.
Sau nhiều đợt rút lui để tránh thế mạnh của các đạo quân Mông, dùng chiến thuật vườn
không nhà trống để quân địch không có lương ăn và bị bệnh dịch do không hợp thủy thổ
bản địa, nhà Trần tổ chức phản công vào cuối xuân, đầu hè năm 1285. Với những chiến

thắng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, quân Trần đại thắng, bắt giết được Toa Đô.
Thoát Hoan thu tàn quân chạy về bắc.
Thắng lợi năm 1285 cơ bản xác định sự tồn tại của Đại Việt và củng cố lòng tin của
người Việt có thể đương đầu được với đạo quân hùng mạnh của Mông Nguyên liền kề
phía bắc. Bởi vậy trong lần kháng chiến thứ 3 chống Mông Nguyên năm 1287, Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn nói với vua Trần: " Quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân
nó thì sợ phải đi xa Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn". Nhà Trần
tiếp tục chủ động áp dụng chiến thuật tránh thế mạnh, triệt lương thảo. Cuối cùng quân
Trần đại phá quân Nguyên ở sông Bạch Đằng tháng 4 năm 1288, bắt sống Nguyên soái Ô
Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan một lần nữa chạy trốn về bắc.
Sau thất bại lần thứ ba ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình
chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời
cơ thuận tiện. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt băng hà.
Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc
chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt.
[sửa] Đối ngoại
Trong triều đại nhà Trần, ngoài những cuộc chiến tranh với quân Nguyên Mông ở phía
Bắc thì Đại Việt cũng có những sự liên hệ với các nước láng giềng phía tây và phía nam
là Ai Lao và Chiêm Thành.
[sửa] Với Chiêm Thành
Có thể nói trong các triều đại Việt Nam, Chiêm Thành không lúc nào không quấy phá và
cuộc chiến tranh giữa hai nước vẫn thường xuyên xảy ra. Lúc nhà Trần lên ngôi, nước
Chiêm Thành vẫn giữ lệ triều cống và giao hòa. Trong đời vua Trần Nhân Tông, sau khi
chinh phạt Chiêm Thành, thì giữa Đại Việt và nước Chiêm Thành có sự giao hảo tốt đẹp.
Đến đời vua Trần Anh Tông, lúc bấy giờ Trần Nhân Tông đã lên làm thái thượng hoàng
và trong lúc sang thăm vãn cảnh nước Chiêm và để cho tình giao hảo của hai nước trở
nên bền vững hơn, nhà Trần đã gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế
Mân năm 1306. Chế Mân dâng châu Ô và châu Rí cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tông đổi
tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi đặt quan cai trị cũng như cho di dân sang ở. Một năm
sau, Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm Thành thì hoàng hậu phải bị hỏa thiêu chết theo.

Vua Trần Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung giả tiếng vào thăm rồi tìm kế rước về.
Chế Mân chết thì Chế Chỉ lên thay và đòi lại hai châu mà Chế Mân đã dâng cho Đại Việt.
Vua Trần Anh Tông sai quân sang bắt Chế Chỉ đem về trị tội và phong cho em của Chế
Chỉ là Chế Đà A Bà lên thay làm vua nước Chiêm Thành. Đến đời vua Trần Dụ Tông,
con và rể của vua Chiêm Thành tranh giành nhau ngôi vua, quân nhà Trần sang can thiệp
nhưng bị quân Chiêm Thành đánh bại cả hai lần.
Năm 1370, các hoàng tử con vua Minh Tông lật đổ Dương Nhật Lễ (xem phần "Thời kỳ
suy tàn" bên dưới) lập Trần Nghệ Tông. Mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xui vua
Chiêm đánh Đại Việt. Lúc đó thế lực nhà Trần suy yếu, Chiêm Thành có ý khởi binh
đánh đòi lại hai châu đã mất. Đến đời vua Trần Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế
Bồng Nga quấy rối biên giới, vua Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hóa
Châu. Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng lên. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nối dối
là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Duệ Tông giận lắm, quyết ý thân
chinh. Cuối năm 1376, quân Trần xuất phát. Năm 1377, quân Trần chiếm cửa Thị Nại
(Quy Nhơn ngày nay) rồi tiến đánh kinh thành là Đồ Bàn. Lúc đó Chế Bồng Nga, một
ông vua có tài thao lược, dùng kế dụ quân Trần
vào ổ mai phục đánh tan. Vua Trần Duệ Tông bị tử trận, Hồ Quý Ly, Đỗ Tử Bình rút
quân bỏ chạy về nước. Thừa thắng xông lên, Chế Bồng Nga nhiều lần mang quân sang
đánh phá Đại Việt, Hồ Quý Ly nhiều lần ra trận bị thua, quân Chiêm ba lần chiếm được
kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Trần phải bỏ thành chạy. Quân Chiêm cướp phá kinh
thành rồi rút về. Đỗ Tử Bình chỉ bị đồ làm lính 1 năm rồi sau đó lại được nhấc lên địa vị
cao hơn.
Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh. Tướng trẻ Trần Khát Chân được lệnh
đem binh dàn trận ở sông Hải Triều (sông Luộc ở vùng Hưng Yên ngày nay). Nhờ có
hàng tướng bên Chiêm sang chỉ chỗ, Khát Chân sai chĩa hỏa pháo nhằm cả vào thuyền
Chế Bồng Nga mà bắn. Vua Chiêm trúng đạn tử trận, quân Chiêm bỏ chạy và sau đó con
của Chế Bồng Nga hàng phục Đại Việt. Kể từ đó trong thời gian dài Chiêm Thành không
dám đánh Đại Việt nữa.
[sửa] Với Ai Lao
Vào đời nhà Trần, quân của Ai Lao thường sang quấy phá cướp bóc ở vùng Nghệ An và

Thanh Hóa. Vì thế triều đình đã phải sai quân lính đi đánh dẹp mãi và chính các vị vua
phải thân chinh đi dẹp giặc, trong đó nhiều nhất phải kể đến vua Trần Nhân Tông. Mỗi
lần bị thua thì quân Ai Lao rút về, nhưng sau đó thì lại sang quấy phá. Trong đời vua
Trần Anh Tông, ông cũng nhiều lần thân chinh đi dẹp giặc nhưng ông cũng đã ra lệnh
cho Phạm Ngũ Lão hơn ba, bốn phen đi dẹp giặc. Vua Trần Minh Tông cũng nhiều phen
thân chinh đi dẹp giặc. Trong triều đại nhà Trần, mục đích của Đại Việt là dẹp các cuộc
đánh phá và quấy nhiễu của quân Ai Lao chứ không có mục đích đánh chiếm lấy đất
nước này.
[sửa] Tổ chức quân đội
Bài chi tiết: Quân đội nhà Trần
Quân chủ lực nhà Trần gồm cấm quân và quân các lộ. Quân các lộ ở đồng bằng gọi là
chính binh, ở miền núi gọi là phiên binh. Cấm quân được gọi là quân túc vệ.
Các đơn vị quân đội được gọi là quân. Đứng đầu mỗi quân là một đại tướng quân. Mỗi
quân có 30 đô, chỉ huy mỗi đô có chánh phó đại đội. Mỗi đô có 5 ngũ, đứng đầu mỗi ngũ
là đầu ngũ.
Cấm quân là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh chống ngoại xâm, có thể được điều
động đi các lộ để tác chiến.
Nhằm có lực lượng đông đảo cần thiết khi chống xâm lược, nhà Trần kế tục chính sách
ngụ binh ư nông (giữ quân lính ở nhà nông) của nhà Lý, vừa đảm bảo số quân cần thiết
phòng khi có chiến tranh xảy tới. Quân cấm vệ và các lộ có khoảng 10 vạn người
[2]
.
[sửa] Hành chính
Bài chi tiết: Hành chính Đại Việt thời Trần
Đền nhà Trần (Nam Định)
Đời nhà Trần, Việt Nam chia ra làm 12 lộ, Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép như
sau:
Nhâm Dần, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11 1242: Mùa xuân, tháng 2, chia
nước làm 12 lộ. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các
xã, sách thì đặt chức đại tư xã, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục

phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người làm kiêm cả 2-4 xã, cùng xã chính, xã sử,
xã giám gọi là xã quan.
Mỗi lộ đều có quyền dân tịch để kiểm soát dân số trong lộ. Dân chúng trong nước được
chia ra làm 3 hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ
20 tuổi đến 60 tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi). Lúc đầu chỉ có những người trong hoàng
tộc mới được giữ các chức quan nhưng từ đời vua Anh Tông, những người tài đức cũng
được tuyển dụng vào giữ các chức vụ quan trọng này. Sách Khâm định Việt sử Thông
giám Cương mục, phần chính biên, có ghi lại 12 lộ như sau: Thiên Trường, Long Hưng,
Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoái, Thanh Hoá,
Hoàng Giang, Diễn Châu.
[sửa] Luật pháp
Bài chi tiết: Pháp luật Đại Việt thời Trần
Vua Thái Tông cho sửa lại luật pháp rất nghiêm minh. Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại
như sau:
Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 5 1230: Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ
của triều trước, soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi,
gồm 20 quyển.
Định bị đồ có mức độ khác nhau:
• Loại bị đồ làm Cảo điền hoành thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xã (nay
là xã Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300
thăng thóc.
• Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở
Phượng Thành, thành Thăng Long, lệ vào quân Tứ sương.
Đặt ty bình bạc là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long lúc đó với chức
quan kinh doãn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành. Năm 1265 đổi thành Đại an
phủ sứ, sau lại đổi thành Kinh sư đại doãn.
[sửa] Kinh tế
Bài chi tiết: Nông nghiệp Đại Việt thời Trần, Thủ công nghiệp Đại Việt thời Trần,
và Thương mại Đại Việt thời Trần
Về mặt nông nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và

cử quan đặc trách trông coi việc đê gọi là hà đê sứ. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình còn
ra lệnh cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Đại Việt sử ký toàn thư
có chép:
Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7, 1231: Mùa xuân, tháng giêng, sai nội minh tự
Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và
kênh Hào (là tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), tỉnh
Thanh Hóa) từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu.
Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó,
lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương.
Về mặt thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng tiền
và ít nhiều tuỳ theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế. Thuế
điền thì đóng bằng thóc. Ngoài ra còn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền
tệ, để tiện việc tiêu dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua.
[sửa] Giáo dục, thi cử
Bài chi tiết: Giáo dục khoa cử thời Trần
Đời nhà Trần, văn học rất được mở mang, Nho học cũng phát triển hơn so với thời Lý.
Ngoài Quốc Tử Giám có tại kinh đô từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc Học
Viện để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân
chúng.
Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các
khoa thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa có
mở định kỳ. Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ
theo định kỳ cứ 7 năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam
khôi để lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu
bảng nhãn.
Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa
phụ), lấy 283 người đỗ
[3]
. Có 2 khoa thi 1256 và 1266 lấy 2 trạng nguyên là Kinh trạng
nguyên và Trại trạng nguyên nên tổng số có 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi.

[sửa] Tôn giáo
Bài chi tiết: Tôn giáo Đại Việt thời Trần
Về Phật giáo, vào đầu đời nhà Trần thì Phật giáo còn thịnh. Các nhà vua đều sùng đạo
cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi. ĐVSKTT chép lại Thượng
hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng phật để
thờ.
Vua Nhân Tông còn sai sứ sang Trung Hoa để thỉnh kinh về truyền bá đạo Phật, và ông
chính là ông tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối đời Trần, Phật giáo bị pha
thêm các hình thức mê tín bùa chú cho nên ngày càng suy vi. Về Lão giáo thì cũng được
nhân dân ngưỡng mộ. Do đó, nhà Trần cũng cho mở những khảo thi tam giáo như đời
nhà Lý.
[sửa] Văn hóa nghệ thuật
Bài chi tiết: Văn học đời Trần và Nghệ thuật Đại Việt thời Trần
Đời nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ Đại
Việt Sử Ký và đây là bộ sử đầu tiên của Việt Nam. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông
trạng rất mực thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải
kính phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua
Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn
chương và có soạn Ngự tập và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá
trị như Hịch tướng sĩ.
Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ Nôm.
Vì thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài
thơ Nôm rất giá trị. ĐVSKTT chép:
Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn
Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như
việc của Hàn Dũ, bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc
ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy.
Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời
Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong cách Chiêm
Thành. Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng

[4]
.
Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung Quốc
[5]
.
Một số nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến đã truyền
nghề ca hát cho dân Đại Việt, càng ngày càng phổ biến.
[sửa] Thời kỳ suy tàn
Nhà Trần đã có một thời đại rất hưng thịnh, đã từng đại phá quân Nguyên cũng như bình
phục được Chiêm Thành, nhưng kể từ khi thái thượng hoàng Trần Minh Tông qua đời
(1357), vua Trần Dụ Tông ham mê tửu sắc, phó mặc mọi việc triều chính để cho nhà
Trần bước vào giai đoạn suy vi và sau cùng bị mất ngôi.
Vua Trần Dụ Tông chẳng những bỏ bê triều chính mà còn ra lệnh cho xây cung điện, tạo
sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi
lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên
lộng hành vô cùng.
Chu Văn An, một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng thất trảm sớ đề
nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu
Văn An đã từ quan về nhà dạy học.
Năm 1369, Trần Dụ Tông mất, một người con là Nhật Lễ lên thay. Theo sử sách, Nhật Lễ
không phải là con Dụ Tông mà mẹ Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương, đã
mang thai Lễ trước khi làm vợ Dụ Tông. Vì vậy sử vẫn gọi tên người con là Dương Nhật
Lễ. Nhật Lễ ở ngôi bỏ bễ chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò
hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương. Sau Lễ lại giết Hiến Từ Tuyên Thánh Thái hoàng
thái hậu vì bà đã hối hận việc lập Nhật Lễ. Người tôn thất và các quan đều thất vọng.
Tháng 10 năm 1370, các tôn thất nhà Trần hợp mưu lật đổ và bắt giết Nhật Lễ, đưa con
thứ 3 của vua Minh Tông là Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông.
Nghệ Tông làm vua được 2 năm, lên làm thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là
Kính lên thay, tức là Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, thượng
hoàng Nghệ Tông lập con Duệ Tông là Phế Đế lên thay. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm

quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Lê Quý Ly
(tức Hồ Quý Ly). Do đó, Quý Ly xúi giục Nghệ Tông giết hại các trung thần, các hoàng
tử, các thân vương và ngay cả vua Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ
Tông phế bỏ
[6]
. Con Nghệ Tông là Thuận Tông (đồng thời là con rể Quý Ly) được lập lên
ngôi nhưng cũng không có thực quyền.
Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vua mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly
đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý
Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì. Năm 1394, Nghệ Tông mất, Hồ Quý
Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi
công việc xong xuôi, Hồ Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu
ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thiếu Đế khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi. Quý Ly
lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông và chuẩn bị cướp ngôi.
Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Trần Khát Chân lập
hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào
khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua,
chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ.
Nhà Trần chấm dứt,kéo dài 175 năm với 13 đời vua.
[sửa] Chính sách hôn nhân
Nhà Trần lấy ngôi nhà Lý bằng biện pháp hôn nhân. Nhà Trần từ vai trò là ngoại thích
của nhà Lý đã giành ngôi. Do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết
hôn với người trong họ.
Tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh
[7]
đã dẫn ra hơn 30 trường hợp hôn nhân nội tộc của nhà
Trần:
1. Trần Liễu, anh Thái Tông, con Thượng hoàng Trần Thừa, lấy Thuận Thiên công
chúa, con vua Lý Huệ Tông và Thuận Trinh. Thuận Trinh là em ruột Trần Thừa,
Trần Liễu và Thuận Thiên là con cô con cậu.

2. Năm 1225, Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông, lấy Lý Chiêu Hoàng, em Thuận
Thiên; trường hợp này cũng là con cô lấy con cậu.
3. Sau khi Lý Huệ Tông chết, giáng Huệ hậu (Trần Thị Dung) làm Thiên Cực công
chúa, gả cho Trần Thủ Độ tức là chị em họ lấy nhau. Hai người vốn đã có tư tình
với nhau từ trước.
[cần dẫn nguồn]

4. Năm 1237, vì Chiêu Hoàng không có con, Thủ Độ ép Thái Tông lấy Thuận Thiên,
lúc ấy đã có mang ba tháng với Trần Liễu. Trường hợp này vừa là con cô con cậu
lấy nhau, vừa là em chồng lấy chị dâu.
5. Vua Thái Tông hứa gả em gái là Trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung
Thành vương và đã cho Thiên Thành tới ở nhà Nhân Đạo vương, là cha đẻ ra
Trung Thành vương, để chờ ngày cưới. Năm 1251, Hưng Đạo vương muốn lấy
công chúa Thiên Thành, đang đêm lẻn vào phòng Thiên Thành thông dâm. Thụy
Bà Trưởng công chúa, chị Thái Tông và Thiên Thành, lại là mẹ nuôi Hưng Đạo
vương, đang đêm gõ cửa cung nói dối là Hưng Đạo vương đã bị Nhân Đạo vương
bắt giam, xin vua cứu giúp. Sự thật, khi vua sai người tới thì Hưng Đạo vương
còn trong phòng Thiên Thành và lúc ấy Nhân Đạo vương mới biết. Hôm sau Thụy
Bà phải dâng mười mâm vàng sống xin cưới Thiên Thành cho Hưng Đạo. Vua bất
đắc dĩ phải gả và bồi thường cho Trung Thàng vương (Trung Thành vương?).
Như vậy Thiên Thành có họ với Trung Thành vương, lại là cô ruột Hưng Đạo, vì
Hưng Đạo là con Trần Liễu, anh ruột Thiên Thành. Đây là trường hợp cháu lấy
cô.
6. Năm 1258, Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm công chúa là con Trần Liễu, tức là
con chú con bác lấy nhau.
7. Thụy Bảo công chúa, con vua Thái Tông, lấy Uy Văn vương Toại.
8. Gả công chúa tên Thúy, con Thái Tông cho Thượng vị Văn Hưng hầu.
9. Thiên Thụy công chúa, con vua Thánh Tông và Thiên Cảm, tức cháu nội Thái
Tông và cháu ngoại Trần Liễu, lấy Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn (con Trần Hưng
Đạo), cháu nội Trần Liễu; trường hợp này vừa là con cô con cậu (Trần Hưng Đạo

và Thiên Cảm là con Trần Liễu) vừa là cháu chú cháu bác lấy nhau.
10. Thiên Thụy công chúa lại tư thông với Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là tông
thất nhà Trần. Khánh Dư nhờ có công đánh quân Nguyên được Thượng hoàng
Thánh Tông nhận làm con nuôi.
11. Năm 1274, Nhân Tông, con Thánh Tông, lấy Bảo Thánh, rồi Tuyên Từ, đều là
con Hưng Đạo vương. Trường hợp này giống Thiên Thụy lấy Quốc Nghiễn.
12. Anh Tông, con Nhân Tông, cháu Thánh Tông, chắt Thái Tông, lấy Văn Đức phu
nhân năm 1292, là con Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, cháu nội Hưng Đạo
vương, chắt Trần Liễu. Trường hợp này là cháu cô cháu cậu (Hưng Đạo vương và
Thiên Cảm là con Trần Liễu) hay chắt chú chắt bác lấy nhau.
13. Sau Anh Tông lại bỏ Văn Đức phu nhân mà lấy em ruột phu nhân là Thánh Tư.
14. Anh Tông lấy Huy Tư là con Thụy Bảo công chúa và Trần Bình Trọng. Thụy Bảo
là em Thánh Tông, Anh Tông là cháu nội Thánh Tông, tức cháu lấy cô.
15. Năm 1301, Thiên Trân công chúa, con Anh Tông, Anh Tông là con Nhân Tông,
cháu Thánh Tông, lấy Uy Túc công Văn Bích, cháu nội Trần Quang Khải. Quang
Khải và Thánh Tông là anh em, tức cháu chú cháu bác lấy nhau.
16. Thiên Trân chết, Uy Túc lại lấy Huy Thánh công chúa.
17. Thượng Trân công chúa, em Anh Tông, chắt Thái Tông lấy Văn Huệ công Quang
Triều, con Quốc Tảng, cháu Hưng Đạo, chắt Trần Liễu, tức chắt chú chắt bác lấy
nhau.
18. Trần Minh Tông, con Anh Tông, cháu Nhân Tông, lấy Huy Thánh tức Lệ Thánh,
con gái lớn Huệ Vũ vương Quốc Chẩn. Chẩn là em Anh Tông: con chú con bác
lấy nhau.
19. Minh Tông gả Huy Chân, con Nhân Tông, cho Uy Giản hầu năm 1317. Mẹ Huy
Chân là Trần Thị Thái Bình, cung tần của Thượng hoàng Anh Tông.
20. Năm 1318 Minh Tông gả Thiên Chân Trưởng công chúa cho Huệ Chính vương.
21. Năm 1337 Hiến Tông, con Minh Tông, lấy Hiển Trinh, con gái lớn Huệ Túc
vương Đại Niên.
22. Năm 1342, Thiên Ninh công chúa, con Minh Tông, lấy Hưng/Chính Túc vương
Kham.

23. Năm 1349, Dụ Tông, con Minh Tông, lấy con gái thứ tư Huệ Túc vương là YÙ
Từ Nghi Thánh.
24. Năm 1351, Dụ Tông loạn dâm với Thiên Ninh là chị ruột. Nguyên năm 1339 Dụ
Tông bị chết đuối ở Hồ Tây, được thầy thuốc Tàu là Trâu Canh dùng kim châm
cứu khỏi nhưng đoán sau này lớn lên sẽ bị liệt dương. Sau quả nhiên sự việc xảy
ra đúng như vậy, Trâu Canh được vời đến chữa, khuyên vua giết một đứa con trai
nhỏ tuổi lấy mật hoà với thuốc dương khởi thạch mà uống rồi thông dâm với chị
hay em ruột. Vua nghe theo, thông dâm với Thiên Ninh công chúa.
25. Huy Ninh công chúa, con Minh Tông, lấy tông thất Nhân Vinh. Sau Nhân Vinh bị
Dương Nhật Lễ giết, Nghệ Tông là anh, lại gả Huy Ninh cho Quý Ly.
26. Duệ Tông, con Minh Tông và Lê Đôn Từ, cô Quý Ly, lấy Hiền Trinh là em họ
Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.
27. Duệ Tông lấy con gái Thái bảo Trần Liêu làm phi.
28. Năm 1375 Duệ Tông gả con là Trang Huy công chúa cho Nguyên Dẫn, con Cung
Chính vương. Cung Chính vương và Duệ Tông đều là con Minh Tông, tức con
chú con bác lấy nhau.
29. Thiên Huy hay Thái Dương công chúa, con Nghệ Tông, lấy Phế Đế là con Duệ
Tông. Nghệ Tông và Duệ Tông cùng là con Minh Tông, mẹ Nghệ Tông là Minh
Từ, mẹ Duệ Tông là Đôn Từ, là hai chị em ruột, cô của Quý Ly: vừa là con chú
con bác, vừa là cháu dì cháu già lấy nhau.
30. Sau khi Phế Đế chết, vợ là Thái Dương tư thông với Nguyên Uyên, con Cung Tín
vương Thiên Trạch, em Nghệ Tông: con chú con bác tư thông với nhau.
31. Năm 1393, thượng hoàng Trần Nghệ Tông giận Thái Dương, đem gả Thái Dương
cho Nguyên Hãng là em Nguyên Uyên để làm nhục.
32. Tuyên Huy công chúa, con Duệ Tông, lấy Quan Phục Đại vương Húc, con Nghệ
Tông, giống trường hợp Thái Dương lấy Trần Phế Đế.
33. Quý Ly gả Trang Huy công chúa, con Tông thất Nhân Vinh (bị Nhật Lễ giết) cho
Mộng Dữ, con Trần Nguyên Đán, cháu bốn đời của Quang Khải.
34. Thuận Tông, con út Nghệ Tông, lấy Thánh Ngẫu công chúa là con gái lớn của Hồ
Quý Ly và Huy Ninh công chúa. Huy Ninh là em Nghệ Tông, tức là con cô con

cậu lấy nhau. Thuận Tông lại là cháu nội của Đôn Từ, cô của Quý Ly, lấy con gái
Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.
Từ khi Trần Nghệ Tông trọng dụng Hồ Quý Ly là một ngoại thích, lập tức nhà Trần cũng
gặp "họa ngoại thích" và mất về tay ngoại thích.
[sửa] Nhận định
[sửa] Về chiến thắng Mông - Nguyên
Theo đánh giá của các sử gia, việc nhà Trần lên thay nhà Lý vào đầu thế kỷ 13 là cần
thiết và kịp thời cho sự phục hưng nước Đại Việt bị suy yếu nghiêm trọng cuối thời nhà
Lý. Nếu không có sự xuất hiện của nhà Trần, nước Đại Việt sẽ khó tồn tại trong cảnh cát
cứ (Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng) bên trong và họa Mông - Nguyên bên ngoài như các
nước Đại Lý, Nam Tống láng giềng. Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của
nhà Trần là chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc
nhà Trần có những người phản bội theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất,
nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng
[8]
.
Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng
lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân
quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước - và bảo vệ quyền
lợi dòng tộc - số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị
nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ
hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những
tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư,
Trần Quốc Toản
[9]
Mông - Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận
lúc đó như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân
Mông cũng không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước
Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm
với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm

cả đại lục Á-Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan
lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy
được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông - Nguyên của nhà Trần.
[sửa] Về hậu kỳ nhà Trần
Nhìn chung, triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông
là thời xây dựng và chống Mông-Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có
thượng hoàng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hoàng
Minh Tông mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn.
Để tránh "họa ngoại thích", nhà Trần chủ trương chính sách "hôn nhân nội tộc". Chính sự
nhà Trần bắt đầu suy từ đời vua Dụ Tông xa hoa hưởng lạc, xa lánh lương thần, tin dùng
gian thần. Nhưng đó đơn giản chỉ là sự hưởng thụ như Lý Cao Tông trước đây mà thôi.
Tới các đời sau, đặc biệt là Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu
hiện của sự mê muội, u tối của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Lê
Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Nhiều hành
động của Nghệ Tông như thể để "dọn đường" cho Quý Ly cướp ngôi nhà Trần sau này.
Thời kỳ Nghệ Tông trở về sau, vấn đề chống Chiêm Thành là lớn nhất, vậy mà một Quý
Ly luôn chạy dài trước những đợt tấn công của địch, không hề lập được công bao giờ, lại
vẫn được tin dùng đến như vậy. Còn Đế Hiện đối với Đỗ Tử Bình, gian thần xảo trá gây
ra cái chết của cha mình (Duệ Tông), không những không trừng trị đích đáng mà còn
nhiều lần thăng lên làm đại thần cấp cao hơn trước, khi chết (1382) còn được truy tặng
gia phong. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự "thoái
hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán
ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh,
Trần đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Quan hệ giữa
Quý Ly với Nghệ Tông, Tử Bình với Đế Hiện không thể như Trần Thủ Độ với Lý Huệ
Tông, Mạc Đăng Dung với Lê Cung Hoàng Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ
trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các
vua Trần quả là hiếm có
[10]
.

Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng
quan lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông-Nguyên khổng lồ một cách oai hùng
bao nhiêu thì đời con cháu phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình
trong chiến tranh chống Mông-Nguyên xưa kia, một cách thảm hại bấy nhiêu. Tới lúc bị
Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống
được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ
Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù
Quý Ly có manh tâm cũng không thể tính chuyện cướp ngôi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần
Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy
được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi
nhà Trần
[11]
.
Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam.
Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều
bài học cho đời sau.
[sửa] Các vua nhà Trần
Nhà
Trn
Niên đại các vị vua Nhà Trần
Miếu
hiệu
Niên hiệu Tên
Sinh-
Mất
Trị vì Thụy hiệu Lăng
Thái Tông
Kiến Trung
(1226-1232)

Thiên Ứng
Chính Bình
(1232-1251)
Nguyên Phong
(1251-1258)
Trần Cảnh
1218-
1277
1226-
1258
Nguyên Hiếu
Hoàng đế
Chiêu Lăng
Thánh
Tông
Thiệu Long
(1258-1272)
Bảo Phù
(1273-1278)
Trần Hoảng
1240-
1291
1258-
1278
Tuyên Hiếu
Hoàng Đế
Dụ Lăng
Nhân
Tông
Thiệu Bảo

(1278-1285)
Trùng Hưng
(1285-1293)
Trần Khâm
1258-
1308
1278-
1293
Duệ Hiếu Hoàng
Đế
Đức Lăng
Anh Tông Hưng Long
Trần
Thuyên
1276-
1320
1293-
1314
Nhân Hiếu Hoàng
Đế
Thái Lăng
Minh
Tông
Đại Khánh
(1314-1323)
Khai Thái
(1324-1329)
Trần Mạnh
1300-
1357

1314-
1329
Văn Triết Hoàng
Đế
Mục Lăng
Hiến
Tông
Khai Hựu
Trần
Vượng
1319-
1341
1329-
1341
?
Xương An
Lăng
Dụ Tông
Thiệu Phong
(1341-1357)
Đại Trị
(1358-1369)
Trần Hạo
1336-
1369
1341-
1369
? Phụ Lăng
Hôn Đức
Công

Đại Định
Dương
Nhật Lễ
?-1370
1369-
1370
tiếm ngôi bị giết
Nghệ
Tông
Thiệu Khánh Trần Phủ
1321-
1394
1370-
1372
Anh Triết Hoàng
Đế
Nguyên
Lăng
Duệ Tông Long Khánh Trần Kính
1337-
1377
1373-
1377
? Hy Lăng
Phế Đế Xương Phù Trần Hiện
1361-
1388
1377-
1388
phế làm Linh Đức

Vương
An Bài Sơn
Thuận
Tông
Quang Thái Trần Ngung
1378-
1399
1388-
1398
ép nhường ngôi và
ép chết
Yên Sinh
Lăng
Thiếu Đế Kiến Tân Trần An 1396-?
1398-
1400
bị Hồ Quý Ly
cướp ngôi
phế làm Bảo Ninh
Đại Vương
?
[sửa] Thế phả nhà Trần
Bản đồ mô tả các thế hệ vua và quý tộc nhà Trần
1
Trần Thái Tông
1226 - 1258


2
Trần Thánh

Tông
1258 - 1278


3
Trần Nhân
Tông
1278 - 1293


4
Trần Anh Tông
1293 - 1314


5
Trần Minh
Tông
1314 - 1329



8
Trần Nghệ
Tông
1370 - 1372

6
Trần Hiến
Tông

1329 - 1341

7
Trần Dụ Tông
1341 - 1369

9
Trần Duệ Tông
1373 - 1377


11
Trần Thuận
Tông
1388 - 1398

10
Trần Phế Đế
1377 - 1388


12
Trần Thiếu Đế
1398 - 1400

[sửa] Xem thêm
• Kháng chiến chống Nguyên Mông
• Văn học thời Trần
• Nhà Nguyên
• Nhà Hồ

• Chiêm Thành
[sửa] Tham khảo
• Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, NXB Hải Phòng.
• Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm (1975), Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên Mông thế kỷ XIII, NXB Khoa học xã hội.
• Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên (2008), Đại cương
lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục.
• Mai Hồng (1989), Các trạng nguyên nước ta, NXB Giáo dục.
[sửa] Chú thích
1. ^ “Gia phả họ Trần”.
2. ^ Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 182
3. ^ Mai Hồng, sách đã dẫn, tr 20
4. ^ Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, tr 268
5. ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 469
6. ^ Quý Ly nói với thượng hoàng "nên lập con mình chứ không nên lập cháu". Do đó Nghệ
Tông kiếm tội phế truất cháu là Phế Đế (con Duệ Tông) mà lập con mình là Thuận Tông
7. ^ Trong bài viết Công chúa đời Trần - Mỹ nhân kế - Loạn luân (1993)
8. ^ Trần Xuân sinh, sách đã dẫn, tr 36
9. ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 251
10. ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 398-399
11. ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 399
[sửa] Liên kết ngoài
• Đại Việt sử ký toàn thư - Bản điện tử
• Khâm định Việt sử Thông giám cương mục - Bản điện tử
• Dấu vết 'kinh đô thứ hai' của nhà Trần trên VnExpress ngày 13 tháng 12 năm
2006
[hiện]
x • t • s
Vua nhà Trần
[hiện]

x • t • s
Nhà Trần (1225-1400; 1407-1413)
Lấy từ “ />Thể loại: Nhà Trần | Thành lập 1225 | Diệt vong 1400
Công cụ cá nhân
• Đăng nhập / Mở tài khoản
Không gian tên
• Bài viết
• Thảo luận
Biến thể
Xem
• Đọc
• Sửa
• Xem lịch sử
Tác vụ
Tìm kiếm
Tìm ki?m
Xem nhanh
• Trang Chính
• Cộng đồng
• Thời sự
• Thay đổi gần đây
• Bài viết ngẫu nhiên
• Trợ giúp
• Quyên góp
In/xuất ra
• Tạo một quyển sách
• Tải về dưới dạng PDF
• Bản để in ra
Gõ tiếng Việt (?)
Tự động [F9]

Telex (?)
VNI (?)
VIQR (?)
VIQR*
Tắt [F12]
Bỏ dấu kiểu cũ [F7]
Đúng chính tả [F8]
Công cụ
• Các liên kết đến đây
• Thay đổi liên quan
• Các trang đặc biệt
• Liên kết thường trực
• Chú thích trang này
Ngôn ngữ khác
• Česky
• Deutsch
• English
• Français
• 한국어
• Nederlands
• 日本語
• Svenska
• 中文
• Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 03:38, ngày 25 tháng 10 năm 2010.
• Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons
Ghi công/Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Xem Điều khoản
Sử dụng để biết thêm chi tiết.
Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ
chức phi lợi nhuận.
• Quy định quyền riêng tư

• Giới thiệu Wikipedia
• Lời phủ nhận


×