Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Gián án Lịch sử việt nam thời nhà Nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 44 trang )

Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Gia Long lên ngôi
năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và sụp đổ hoàn toàn khi vua Bảo Đại thoái vị vào năm 1945 – tổng
cộng là 143 năm. Triều đại Nhà Nguyễn được ghi nhớ với các giai đoạn chính:
• Giai đoạn độc lập (1802 - 1858)
• Giai đoạn bị người Pháp xâm lăng và đô hộ (1858 - 1945)
Mục lục
[ẩn]
• 1 Thành lập
o 1.1 Thời kỳ các chúa Nguyễn
o 1.2 Thành lập nhà Nguyễn
• 2 Thời kỳ độc lập
o 2.1 Đối nội
 2.1.1 Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương
 2.1.2 Phân chia hành chính
 2.1.3 Quân đội
 2.1.4 Thuế khóa và lao dịch
 2.1.4.1 Thuế nhân đinh và thuế ruộng
 2.1.4.2 Lao dịch
 2.1.5 Luật pháp
o 2.2 Đối ngoại
 2.2.1 Với Trung Quốc
 2.2.2 Với Xiêm La
 2.2.3 Với Ai Lao
 2.2.4 Với Chân Lạp
 2.2.5 Với phương Tây
o 2.3 Kinh tế
 2.3.1 Thương nghiệp
 2.3.1.1 Nội thương
 2.3.1.2 Ngoại thương
 2.3.2 Thủ công nghiệp
 2.3.3 Nông nghiệp


 2.3.3.1 Vấn đề ruộng đất
 2.3.3.2 Việc khai hoang và phục hóa
 2.3.3.3 Việc trị thủy
 2.3.3.4 Việc cứu đói
o 2.4 Văn hóa và giáo dục
 2.4.1 Văn hóa
 2.4.2 Giáo dục
 2.4.3 Văn học
o 2.5 Khoa học, kỹ thuật
 2.5.1 Sử học
 2.5.2 Địa lý và Địa lý Lịch sử
 2.5.3 Kỹ thuật công nghệ
 2.5.4 Kiến trúc
o 2.6 Các phong trào chống triều đình
 2.6.1 Tại Bắc Hà
 2.6.2 Tại Nam Hà
• 3 Thời kỳ bị Pháp xâm lăng và đô hộ
o 3.1 Người Pháp vào Nam Kỳ
o 3.2 Người Pháp vào Bắc Kỳ
 3.2.1 Chiến tranh Pháp-Thanh
o 3.3 Phong trào Cần Vương
o 3.4 Triều Nguyễn thời Pháp thuộc
 3.4.1 Quân Pháp xâm lược
 3.4.2 Sự sụp đổ của nhà Nguyễn
• 4 Di sản
• 5 Nhận định
o 5.1 Vấn đề cải cách
o 5.2 Nguyên nhân mất nước
o 5.3 Quan điểm đánh giá
• 6 Các vua và thế phả

o 6.1 Các vua nhà Nguyễn
o 6.2 Thế phả nhà Nguyễn
• 7 Chú thích
• 8 Tài liệu tham khảo
• 9 Đọc thêm
• 10 Liên kết ngoài
[sửa] Thành lập
[sửa] Thời kỳ các chúa Nguyễn
Bài chi tiết: Chúa Nguyễn
Một bức tranh vẽ quang cảnh thương gia người Pháp Pierre Poivre tại cảng Tourane năm 1749 dưới thời Vũ
Vương Nguyễn Phúc Khoát
Người khởi đầu cho sự nghiệp của nhà Nguyễn là Nguyễn Kim (1468 - 1545). Khi nhà Hậu Lê bị nhà Mạc
cướp ngôi vào năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống lại nhà Mạc. Sau đó Nguyễn Kim còn
kiếm được một người con của vua Lê Chiêu Tông lập lên ngôi để nối tiếp nhà Lê, là vua Lê Trang Tông. Nhờ
công này, Nguyễn Kim được vua phong chức Quốc công, trông coi tất cả quân đội. Nguyễn Kim sau bị người
nhà Mạc dùng thuốc độc giết. Nguyễn Kim có hai người con trai là: Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng đều
được phong chức Quận công, nhưng binh quyền lọt vào tay người anh rể là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm nắm
quyền chỉ huy quân đội, trông coi tất cả mọi việc trong triều đình. Để giảm bớt quyền lực của họ Nguyễn,
Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Lo sợ cho chính mình, Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa, về sau
được Trịnh Kiểm giao quyền cai quản luôn cả Quảng Nam, tức là miền nam của Việt Nam lúc đó (phần đất
thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam bây giờ), vào năm 1558 để tránh xa Chúa Trịnh.
Từ đó Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ của mình tại phương nam, mở rộng ranh giới bằng cách xâm lấn đất đai
của Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua của Đế quốc Khmer để họ nhường đất của xứ Phù
Nam cũ (tức là miền Nam Việt Nam bây giờ). Tuy nhiên, các chúa Nguyễn lúc đó về hình thức vẫn thần phục
vua Lê và cũng chỉ xưng "Chúa" (Chúa Nguyễn). Nguyễn Hoàng (sau được tôn là Chúa Tiên) là người mở
đầu cho việc xây dựng cơ nghiệp họ Nguyễn ở phương nam.
Con Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên, hay Chúa Sãi, lên ngôi chúa năm 1613, là người đầu tiên mang
họ Nguyễn Phúc. Từ đó con cháu trong giòng họ này đều mang họ này.
Sáu đời sau, Nguyễn Phúc Khoát, lên ngôi vào năm 1738, là người đầu tiên xưng "vương" vì Chúa Trịnh tại
phương bắc cũng đã xưng vương – vua Lê chỉ còn hư vị. Nguyễn Phúc Khoát xưng mình là Vũ Vương.

Sau khi Vũ Vương chết, theo di chúc người nối ngôi phải là Nguyễn Phúc Luân nhưng một vị quan trong
triều là Trương Phúc Loan lập Nguyễn Phúc Thuần, mới 12 tuổi, lên ngôi để dễ bề thao túng. Nguyễn Phúc
Thuần lên ngôi năm 1765, tức là Định Vương.
Trương Phúc Loan là người độc ác, tàn bạo nên dân chúng nổi lên khởi nghĩa, trong số đó là anh em nhà Tây
Sơn. Nhà Tây Sơn được lòng dân nên thế lực rất mạnh khiến chúa Nguyễn phải toàn tâm đối phó, nhân dịp
này chúa Trịnh đem quân vào lấy cớ là giúp chúa Nguyễn trị Trương Phúc Loan nhưng sau khi bắt được
Trương Phúc Loan rồi họ tiếp tục đánh và chiếm được Phú Xuân năm 1775. Vì đó chúa Nguyễn phải vào
Quảng Nam. Đến năm 1777, Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn, bắt giết cả Thái Thượng Vương Nguyễn
Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương cùng rất nhiều người và thuộc tướng của họ Nguyễn
Phúc. Chỉ có một người con duy nhất của Nguyễn Phúc Luân là Nguyễn Phúc Ánh trốn thoát.
[sửa] Thành lập nhà Nguyễn
Bài chi tiết: Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn
Gia Long, vị vua sáng lập triều Nguyễn
Năm 1778, Nguyễn Ánh quay lại và tập hợp lực lượng chiếm được Gia Định và đến năm 1780, ông xưng
vương. Tây Sơn sau đó nhiều lần tấn công Nguyễn Ánh khiến ông trốn chạy rồi quay về nhiều lần. Đến năm
1790, Nguyễn Ánh chiếm được hẳn Gia Định.
Trong 24 năm liên tiếp sau đó, Nguyễn Ánh ra sức củng cố lại vùng Gia Định; tranh thủ những sự ủng hộ,
nhất là về các vũ khí, của các nhà truyền giáo người Pháp mà tiêu biểu sự giúp đỡ của giám mục Pigneau de
Béhaine để củng cố quân đội và tạo cho mình một thế đứng vững vàng. Cũng đồng thời lúc đó vua Quang
Trung của Tây Sơn đột ngột qua đời, nhà Tây Sơn rơi vào cảnh "cốt nhục tương tàn", triều đình nhanh chóng
suy yếu và mất lòng dân. Nguyễn Ánh ra sức tấn công và đến năm 1802 đánh bại hoàn toàn Tây Sơn. Sau đó,
ông lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long, nhà Nguyễn thành lập.
[sửa] Thời kỳ độc lập
Từ thời Gia Long bắt đầu có quốc hiệu Việt Nam. Ban đầu, Gia Long cho đổi quốc hiệu Đại Việt sang Nam
Việt nhưng về sau, vì vua Gia Khánh nhà Thanh sợ lầm với nước Nam Việt của nhà Triệu mà lãnh thổ bao
gồm cả Lưỡng Quảng nên đổi tên thành Việt Nam.
[sửa] Đối nội
[sửa] Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương
Bài chi tiết: Quan chế nhà Nguyễn
Hiệu kỳ hoàng đế nhà Nguyễn từ 1802 đến 1885

Quan phục của một viên quan nhỏ triều Nguyễn-Hình vẽ của họa sĩ Pháp E. Ronjat tại Huế (1874)
Ngay từ sớm, Nguyễn Ánh đã phong vương, đặt quan lại cho những người theo phò tá mình. Sau khi đánh
bại nhà Tây Sơn và trở thành hoàng đế Gia Long, ông lại tiếp tục kiện toàn lại hệ thống hành chính và quan
chế của chính quyền mới.
Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền trung ương giống như các
triều đại trước đó. Đứng đầu Nhà nước là vua, nắm mọi quyền hành trong tay. Giúp vua giải quyết giấy tờ,
văn thư và ghi chép có Thị thư viện (đến thời Minh Mạng thì đổi thành Văn thư phòng và năm 1829 thì lại
đổi là Nội các). Về việc quân quốc trọng sự thì có 4 vị Điện Đại học sĩ gọi là Tứ trụ Đại thần, đến năm 1834
trở thành viện Cơ mật. Ngoài ra còn có Tông nhân phủ phụ trách các công việc của Hoàng gia
[2]
.
Đặc biệt, để đề cao uy quyền nhà vua và ngăn chặn nạn quyền thần lấn át hoàng đế, vua Gia Long đã đặt ra lệ
Tứ bất: Trong triều không lập Tể tướng, thi đình không lấy Trạng nguyên, trong cung không lập Hoàng hậu,
không phong tước vương cho người ngoài họ vua
[3]

[2]
.
Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư chịu trách nhiệm chỉ đạo các công
việc chung của Nhà nước
[4]
:
• Bộ Lại : coi việc khảo xét công trạng, thảo những tờ chiếu sắc...
• Bộ Hộ : coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc...
• Bộ Lễ : coi việc tế tự, tôn phong, cách thức học hành thi cử...
• Bộ Binh : coi việc binh lính...
• Bộ Hình : coi việc pháp luật...
• Bộ Công : coi việc làm cung điện, dinh thự...
Bên cạnh 6 Bộ còn có Đô sát viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) chịu trách nhiệm thanh tra quan lại,
Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ coi sóc các kho tàng,

Quốc tử giám phụ trách giáo dục, Thái y viện chịu trách nhiệm về việc chữa bệnh và thuốc thang,... cùng với
một số Ti và Cục khác.
Theo Trần Trọng Kim, người ta "thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên chế theo nghĩa của các nước Âu Tây
ngày nay, chứ không biết mấy chữ ấy theo cái học Nho giáo có nhiều chỗ khác nhau..."
[5]

[6]
Theo tổ chức của
nhà Nguyễn, khi có việc gì quan trọng, thì vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn xét. Quan lại bất
kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình mà trình bày. Việc gì đã quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y,
rồi mới thi hành. Hoàng đế tuy có quyền lớn nhưng lại không được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có
làm điều gì sai thì các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can ngăn vua và thường là vua phải nghe lời can
ngăn của những người này
[7]
.
Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người
dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại đia phương. Tổng gồm có vài làng hay xã,
có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an
trong tổng.
Ngạch quan lại chia làm 2 ngành văn và võ. Kể từ thời vua Minh Mạng được xác định rõ rệt giai chế phẩm
trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra chánh và tòng 2 bậc. Trừ khi chiến tranh loạn lạc còn bình
thường quan võ phải dưới quan văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ huy
quân lính của tỉnh nhà
[8]
.
Lương bổng của các quan tương đối ít nhưng quan lại được hưởng nhiều quyền lợi, cha họ được khỏi đi lính,
làm sưu và miễn thuế tùy theo quan văn hay võ, hàm cao hay thấp. Ngoài ra con cái các quan còn được
hưởng lệ tập ấm
[9]
.

Nói chung bộ máy quan lại triều Nguyễn thật ra không cồng kềnh, nhưng tham nhũng vẫn là một trong những
vấn đề lớn trong hàng ngũ quan lại. Để hạn chế tệ tham nhũng, nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm đến chế độ
lương bổng đảm bảo cuộc sống ổn định, khá giả cho đội ngũ quan lại
[10]
. Đồng thời, trong bộ luật triều
Nguyễn có những hình phạt rất nghiêm khắc đối với tội này.
Phẩm phục của quan văn (trái) và quan võ (phải).
Mặc dù triều Nguyễn đã có nhiều cố gắng rất lớn, tệ tham nhũng là một vấn đề lớn của triều đại nhà Nguyễn.
Nhiều bằng chứng vào thời đó cho thấy những sự hà lạm của quan lại như tiếm nghịch, biển thủ của công và
ăn hối lộ không phải là hiếm. Nguyên nhân của việc này nằm ở chỗ hệ thống hành chính thiếu sự kiểm tra và
điều khiển. Quyền lực tuyệt đối của vị Hoàng đế đặt lên trên các thần dân đã thành nguyên tắc, đưa dân
chúng vào khuôn phép, phải tuân lệnh từ bên trên. Các quan chức triều đình không ai giám sát các quan ngoài
Hoàng đế trong khi vị vua này không thể đủ sức lo xuể tất cả mọi vấn đề. Nhà vua là cơ quan chủ động của
guồng máy hành chính tập trung nhưng lại không đủ khả năng để điều hành toàn bộ guồng máy này
[11]
.
Những thành quả của vương triều Nguyễn trong việc xây dựng nhà nước quân chủ phong kiến tập quyền
thống nhất trên toàn lãnh thổ cũng được ghi nhận từ việc quản lý đất nước. Đặc biệt là những thành tựu trong
cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng còn có nhiều giá trị. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng:
"Nhà Nguyễn có nhiều chính sách hay. Chính sách Đình Nghị: Đã đi họp là phải phát biểu. Ý kiến trong
Đình Nghị phải được ghi chép. Nếu không phát biểu trong kỳ họp trước, kỳ sau sẽ không được đi họp nữa.
Hay chủ trương Hầu trị: Người của địa phương không được đứng đầu trong địa phương. Phải đi nơi khác
làm quan, khi đến địa phương khác, không được lấy vợ, mua đất ở đó. Giám khảo chấm thi không được tham
gia khi có người nhà đi thi, hoặc phải trình báo…Đây là những chính sách mà ngày nay chúng ta cần học
tập."
[12]
Triều Nguyễn từng bị Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) đánh giá là "Chế độ
quân chủ chuyên chế cực kỳ phản động" và cho rằng nhà Nguyễn đã "tăng cường bộ máy đàn áp", "Bộ máy
quan lại hủ lậu mục nát"
[13]

. Nhưng nhiều nhà sử học về sau cho rằng bộ máy quan lại triều Nguyễn không
thực sự hủ bại, thối nát, rằng từ thời vua Gia Long (1802-1820) đến Minh Mạng (1820-1840), nhà Nguyễn đã
"thực hiện công cuộc cải cách hành chính theo xu hướng đơn giản, hợp lý, hiệu quả, chú trọng xây dựng đội
ngũ quan lại có năng lực, đáp ứng yêu cầu của đất nước". Sự thay đổi về quan điểm này được cho là do hiện
nay các nhà sử học đã có được "nguồn sử liệu toàn diện, phong phú và phương pháp tiếp cận khách quan,
khoa học, cộng với độ lùi thời gian cần thiết"
[10]
.
[sửa] Phân chia hành chính
Việc xây dựng chính quyền ở địa phương là một khó khăn về chính trị đối với triều Nguyễn, một nguyên do
là qua quá trình chia cắt đất nước lâu dài thì mỗi miền, cụ thể là Bắc Hà và Nam Hà có sự phân chia hành
chính khá khác nhau. Khi mới lên ngôi, vua Gia Long vẫn giữ nguyên cách phân chia hành chính cũ: ở Đàng
Ngoài các cấp hành chính là trấn->phủ->huyện->xã; ở Đàng Trong là trấn->dinh->huyện->xã. Ít lâu sau, tổng
trở thành một cấp trung gian giữa huyện và xã.
Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đô, ông vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc (tương đương
khu vực Bắc Bộ ngày nay) thành một Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu.
Đến thời Minh Mạng, để nhất thể hóa các đơn vị hành chính trong cả nước, năm 1831-1832 nhà vua thực
hiện một cuộc cải cách hành chính lớn, theo đó bỏ các tổng trấn, đổi các dinh, trấn trấn thành tỉnh. Đây là lần
đầu tiên đơn vị hành chính tỉnh xuất hiện ở Việt Nam. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ Quảng Trị trở
ra thành 18 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nội,
Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên, Sơn Tây, Bắc Ninh, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn,
Cao Bằng. Vùng còn lại ở phía Nam được chia làm 12 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa, Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, Hà Tiên. Thừa Thiên, nơi
chứa kinh đô Phú Xuân là phủ trực thuộc Trung ương. Cả nước được chia làm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên
[2]
.
Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (mỗi người phụ trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng
đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Giúp việc có Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo
về an ninh, luật pháp. Phụ trách về quân sự có chức lãnh binh. Tất cả các quan chức đứng đầu tỉnh đều do
chính quyền Trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và thường là võ quan cao cấp (về sau nhà Nguyễn mới bổ dụng

thêm các quan văn)
[2]
. Ở đây ta thấy hệ thống chính quyền được phân biệt rõ rệt giữa Trung ương và địa
phương, và trong hệ thống này nhà vua, người đứng đầu đất nước, nắm nhiều quyền lực hơn hẳn so với các
thời kỳ trước
[2]
.
Một vị quan phủ (Le préfet) tại Bắc Kỳ năm 1884
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở
xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc
tại đia phương. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các
làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng
[14]
. Nhưng nhìn chung là cơ cấu hành chính của các
tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều đình có thể dễ dàng quản lý và phản ứng mau lẹ khi có sự biến
xảy ra
[2]
.
Đối với vùng thượng du và với các khu vực sinh sống của các dân tộc thiểu số, chủ yếu là 6 ngoại trấn của
Bắc Thành cũ, vua Minh Mạng quyết định nhất thể hóa về mặt hành chính cùng với các vùng miền xuôi.
Năm 1829 ông bãi bỏ chế độ thế tập của các Thổ ti (các tù trưởng của dân tộc thiểu số) mà cho quan lại lựa
chọn những thổ hào ở địa phương "...thanh liêm, tài năng cần cán được dân tin phục" làm Thổ tri các châu
huyện. Tiếp theo, các châu huyện miền núi cũng được phân chia lại để phù hợp với diện tích và dân số mỗi
vùng. Sau đó, vua Minh Mạng còn đặt thêm một chức lưu quan do người Kinh nắm giữ để khống chế các
vùng này tốt hơn và tiến hành thu thuế các loại như ở miền xuôi. Chế độ này đã từng làm thí điểm ở các vùng
cao thuộc Nghệ An, nay áp dụng ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng. Tuy nhiên, do phản
ứng của người dân địa phương, vua Tự Đức sau đó đã bãi bỏ chế độ lưu quan
[2]
.
Tính đến cuối thế kỷ 19, Việt Nam có 98 phủ bao gồm 342 huyện và châu.

[15]
[sửa] Quân đội
Bài chi tiết: Quân đội Nhà Nguyễn
Binh lính người Việt thời Nguyễn
Một trong những thành quả Gia Long đạt được sau nhiều năm nội chiến với Tây Sơn là quân đội tương đối
mạnh với trang bị và tổ chức kiểu phương Tây. Sau khi quản làm chủ toàn bộ quốc gia, nhà Nguyễn xây
dựng quân đội hoàn thiện hơn, chính quy hơn.
Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực hiện phép giản binh, theo hộ tịch tuỳ nơi mà định, lấy 3, 5
hay 7 suất đinh tuyển 1 người lính
[16]
.
• Về tổ chức: Quân chính quy đóng tại kinh thành và những nơi xung yếu; các địa phương đều có lực
lượng vũ trang tại chỗ làm nhiệm vụ trị an. Quân chính quy có 14 vạn người
[17]
, ngoài ra còn có quân
trù bị
Quân đội được tổ chức thành 4 binh chủng: bộ binh, tượng binh, thuỷ binh và pháo binh, trong đó bộ
binh và thuỷ binh được chú trọng xây dựng để tác chiến độc lập. Trình độ chính quy thống nhất cao.
• Về trang thiết bị: ngoài vũ khí cổ truyền, quân chính quy được trang bị hoả khí mua của phương Tây
như đại bác, súng trường, thuyền máy, thuốc nổ...
Các loại súng thần công, đại bác được đúc với kích thước, trọng lượng thống nhất; thành luỹ, đồn to
nhỏ cũng được quy định cho từng cấp với số lượng quân nhất định.
Sự quan tâm tới khoa học quân sự phương Tây của Gia Long được xem là do tình thế bắt buộc thì với Minh
Mạng lại hoàn toàn tự nguyện. Minh Mạng lấy phương Tây làm kiểu mẫu cho việc tổ chức quân đội, hướng
đến việc quân cần tinh nhuệ, không cần nhiều, bỏ bớt số lượng người cầm cờ từ 40 người xuống 2 người
trong đội ngũ đơn vị 1 vệ (500 người)
[18]
..
Sang thời Tự Đức, công tác quốc phòng của nhà Nguyễn có sự tương phản rõ rệt với các triều trước. Một
trong các lý do khiến tình hình quân đội suy sút là vấn đề tài chính. Vũ khí và trang thiết bị làm mới gần như

không có. Trang bị bộ binh rất lạc hậu: 50 người mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập bắn 1 lần 6 viên đạn. Vũ khí
được bảo dưỡng cũng kém. Về thuỷ binh, không tàu hơi nước nào được đóng mới, thuỷ quân thậm chí không
đủ khả năng bảo vệ bờ biển chống hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không chú trọng tới sách vở phương
Tây nữa mà quay trở lại với Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Đời sống quân lính không được quan
tâm thoả đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Do đó tinh thần chiến đấu của quân sĩ không cao
[19]
.
Quan điểm khoa học quân sự của vua quan nhà Nguyễn không hề vượt quá khuôn khổ của khoa học quân sự
phong kiến. Việc không bắt kịp với thành tựu mới của khoa học phương Tây thời Tự Đức khiến quân sự Việt
Nam bị lạc hậu nhiều. Do đó, khi người Pháp vào xâm lược Việt Nam (1858), khoảng cách về trang thiết bị
giữa quân đội nhà Nguyễn và quân Pháp đã khá xa
[20]
.
[sửa] Thuế khóa và lao dịch
Việc sinh hoạt quốc gia đòi hỏi phải có đủ tài chính để duy trì bộ máy triều đình nên sau khi lên ngôi, vua
Gia Long đã tổ chức lại vấn đề đăng tịch, bắt buộc mỗi làng xã phải ghi vào sổ đinh trong làng số đàn ông từ
18-60 tuổi
[21]
. Các đinh bộ không bao giờ kê khai hết tất cả số đàn ông trong làng vì ngoài dân đinh còn có
một số người là dân ngoại tịch, dân lậu, những người bần cùng, vô sản, không thể đánh thuế cũng như những
người mới tới làng định cư
[22]
.
Do tổ chức xã hội Việt Nam căn bản dựa trên xã, thôn nên triều đình không đòi hỏi người dân phải trả thuế
trực tiếp mà giao cho làng lo việc thuế má và sưu dịch, không cần biết làng sẽ phân chia trách nhiệm giữa các
dân làng ra sao. Mỗi làng hưởng quyền tự trị rất lớn, tự họ cai trị theo những tục lệ riêng ghi trong hương ước
của làng.
Hội đồng Kỳ mục trông coi tất cả công sản (tài sản công) và thuế khóa, đê điều, trị an. họ cũng phải lo phân
phối công điền (ruộng công) giữa các dân đinh mỗi kỳ quân cấp và chỉ định thanh niên đi lính.
[sửa] Thuế nhân đinh và thuế ruộng

Nhà Nguyễn xoá bỏ tất cả chế độ thuế khoá cũ của Tây Sơn để đặt lại thuế khoá mới nặng hơn thời trước.
Vua Gia Long cho sửa lại hộ tịch và điền tịch đã hư hỏng qua thời nội chiến.
Hộ tịch phân ra 9 hạng, tuỳ từng hạng mà nộp thuế toàn bộ hay được miễn giảm một nửa hoặc miễn trừ cả
sưu thuế lẫn sai dịch. Thuế đinh nhà Nguyễn đặc biệt đánh nặng lên dân Thanh Nghệ và Bắc Hà. Dân công
nghệ thì nộp thuế sản vật.
Thời Minh Mạng thì định lại thuế điền, chia cả nước ra 3 khu vực để đánh thuế. Thuế điền thì dân Thanh
Nghệ và Bắc Hà cũng bị nặng hơn ở các miền khác.
Theo thống kê của bộ Hộ thì số nhân khẩu năm đầu đời Gia Long là 992.559 người, cuối đời Thiệu Trị là
1.024.380 người. Về điền thổ thì đầu đời Tự Đức có 3.398.584 mẫu ruộng và 502.672 mẫu đất
[23]
.
[sửa] Lao dịch
Mỗi người dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch cho triều đình. Lao dịch thường là để làm các mục đích: xây
sửa hệ thống đê điều, kênh rạch, sông ngòi; xây đắp các thành lũy; xây dựng các cung điện cho hoàng gia.
Trên thực tế, người dân phải lao dịch khá nặng trong thời gian vương triều Nguyễn xây dựng các cung điện,
lăng tẩm, dinh thự,... Ví dụ năm 1807, ngay khi kinh thành Huế vừa được xây xong, vua Gia Long lại huy
động hàng nghìn dân đinh và binh lính tiếp tục sửa chữa và tu bổ thêm trong một thời gian dài. Vua Minh
Mạng cũng tiếp tục công việc xây dựng kinh đô. Vua Thiệu Trị thì không tập trung xây dựng kinh đô nữa,
nhưng, trong một cuộc tuần du lớn ra Bắc Kì năm 1842, người dân đã phải xây 44 hành cung cho một phái
đoàn đông đến 17.500 người, 44 con voi và 172 con ngựa của nhà vua
[24]
.
Theo nhận xét của giáo sĩ Pháp Guérard: "...sự bất công và lộng hành làm người ta rên xiết hơn cả thời Tây
Sơn: thuế khóa và lao dịch đã tăng lên gấp ba"
[24]
. Trong dân gian đã xuất hiện các bài vè, bài ca miêu tả sự
nặng nề của chế độ lao dịch, ví dụ bài "Tố khuất khúc" của dân Sơn Nam Hạ có câu:
Binh tài hai việc đã xong:
Lại còn lực dịch thổ công bao giờ
...Một năm ba bận công trình

Hỏi rằng mọt sắt dân tình biết bao...
[24]

[sửa] Luật pháp
Lúc đầu, nhà Nguyễn chưa có một bộ luật rõ ràng, chi tiết. Vua Gia Long chỉ mới lệnh cho các quan tham
khảo bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều luật quan trọng nhất
[25]
.
Năm 1811, theo lệnh của Gia Long, tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành đã chủ trì biên soạn một bộ
luật mới và đến năm 1815 thì nó đã được vua Gia Long ban hành với tên Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là
luật Gia Long. Bộ luật Gia Long gồm 398 điều chia làm 7 chương và chép trong một bộ sách gồm 22 cuốn,
được in phát ra khắp mọi nơi. Theo lời tựa, bộ luật ấy hình thành do tham khảo luật Hồng Đức và luật nhà
Thanh nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều.
Chương "Hình luật" chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều trong khi những chương khác như "Hộ luật" chỉ có 66 điều
còn "Công luật" chỉ có 10 điều. Trong bộ luật có một số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản
nghịch, tội tuyên truyền "yêu ngôn, yêu thư"
[25]
. Tuy nhiên, bộ luật cũng đề cao việc chống tham nhũng và đặt
ra nhiều điều luật nghiêm khắc để trừng trị tham quan.
Tất nhiên, đến các đời vua sau Gia Long, bộ luật này cũng được chỉnh sửa và cải tiến nhiều, nhất là dưới thời
Minh Mạng
[25]
.
[sửa] Đối ngoại
Bài chi tiết: Ngoại giao Nhà Nguyễn
An Nam Đại Quốc Họa Đồ (Bản đồ nước An Nam to lớn), bản đồ vẽ bởi giáo sĩ Jean-Louis Taberd thời gian
ông ở Việt Nam thời vua Minh Mạng. Ấn hành trong sách Dictionarium Latino-Annamiticum completum et
novo ordine dispositum (Từ điển Việt-La) năm 1838.
[sửa] Với Trung Quốc
Sau khi lấy được Bắc Hà, vua Gia Long đă cử một sứ đoàn do Trịnh Hoài Đức dẫn đầu sang nhà Thanh xin

cầu phong. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó vua Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng thư là Lê
Quang Định sang cầu phong vua Gia Khánh nhà Thanh đổi quốc hiệu là Nam Việt. Sau những tranh luận về
tên gọi vì nhà Thanh ngại nhầm lẫn với nước Nam Việt xưa nằm ở lưỡng Quảng và cùng đồng ý đảo ngược
lại thành Việt Nam, vua Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây sang làm lễ tấn phong cho Gia Long là Việt Nam
quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang
làm lễ triều kính.
Tháng 8 năm 1809, sứ đoàn Việt Nam sang mừng thọ vua Gia Khánh 50 tuổi. Liên tục từ 1813, 1817 và 1819
việc giao thiệp giữa Gia Long và nhà Thanh được êm đẹp
[26]
. Về sau, nhà Thanh đã nhiều lần cử người giúp
triều Nguyễn trong vụ đàn áp Khởi nghĩa Lê Duy Phụng ở Bắc Kỳ những năm 1861-1865
[cần dẫn nguồn]
.
[sửa] Với Xiêm La
Trong thời kỳ các chúa Nguyễn còn chiến tranh với Tây Sơn, Xiêm La đã lợi dụng cơ hội để phân chia đất
Cao Miên năm 1779 dưới đời quốc vương Trịnh Quốc Anh (Phya Tak).
Năm 1794, Nặc Ấn lưu vong qua Vọng Các rồi được vua Xiêm cho một đạo quân đưa về nước nhưng hai
tỉnh Battambang và Angkor phải nhượng cho nước Xiêm. Nặc Ấn mất năm 1796. Năm 1802 Miên mới có
vua là Nặc Ông Chân, con Nặc Ông Ấn. Tuy đă thần phục Xiêm La, Ông Chân vẫn cử sứ đoàn ra chầu vua
Gia Long tại Thăng Long. Từ năm 1805 Miên thần phục triều đình Việt nhưng năm sau lại sang Vọng Các
thụ phong tiếp.
Người Xiêm không tán thành chính sách nước đôi này nên ngầm giúp Nặc Ông Nguyên, em của Ông Chân,
nổi loạn. Ông Chân phải chạy sang cầu cứu triều Nguyễn. Xiêm liền tiến quân đánh thành La Bích (Lovek).
Vua Gia Long cử Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành dẫn 10.000 quân hộ vệ đưa Ông Chân trở về
nước khiến Xiêm và Nặc Ông Nguyên phải rút lui. Lê Văn Duyệt sau đó đặt chế độ bảo hộ trên đất Miên từ
đấy và xây thành Nam Vang và thành La Lem. Sau đó vua cử Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân sang trấn
giữ xứ này như một thuộc quốc.
Dù có xung đột nhưng việc giao thiệp giữa triều Gia Long và Xiêm La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ năm
1802 trở đi hai bên vẫn có sự sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm. Tại Ai Lao, Việt và Xiêm cùng
đặt ảnh hưởng, Quốc vương Ai Lao xin thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Dân vùng Cam Lộ, dân ở các vùng Cao

nguyên hai tỉnh Thanh Nghệ, người Thượng (tức người Rhadé) ở các nước Thủy Xá và Hỏa Xá cũng có cống
phẩm đến để tỏ lòng tuân theo chính quyền của triều Nguyễn
[27]
.
Năm 1827, Quân Xiêm La đánh Vạn Tượng khiến quốc vương xứ này là A Nộ chống không nổi phải sang
cầu cứu triều đình Việt Nam. Vua Minh Mạng cho Thống chế Phan Văn Thúy mang viện quân sang giúp
nhưng bị quân Xiêm đánh bại. Năm 1828 Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào tiếp tục
đem 3.000 quân và 24 con voi đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tượng (Vientiane) nhưng đạo quân
của nhà Nguyễn và A Nộ lại bị thua phải xin viện binh Nghệ An. Vua Minh Mạng chán việc này hạ lệnh bãi
bỏ và chỉ còn phòng vệ vùng biên giới. Sau A Nộ chạy về Trấn Ninh bị bắt nộp cho Xiêm La
[28]
.
Quân Xiêm được đà đánh dấn vào các miền phụ cận Quảng Trị. Thống chế Phạm Văn Điển và Tham tán
Quân vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân nhà Nguyễn ở Lào phải đi ngăn quân Xiêm, đằng khác gửi
thư cho họ để trách cứ. Xiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân về. Tuy vậy họ vẫn bí mật giúp người
Chân Lạp nổi lên chống lại chính quyền Đại Nam hoặc lấn lướt Vạn Tượng và các xứ quy phụ triều đình.
Cuối năm 1833, nước Xiêm mang quân vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp theo lời kêu gọi của Lê Văn Khôi.
Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì "Xiêm La từ khi mất quyền bảo hộ ở Chân Lạp vẫn hằn học với Việt Nam,
lúc không sinh sự được với ta thì lại quay ra quấy rối Ai Lao và Chân Lạp, hoặc khi thấy có biến cố xảy ra
trên đất Việt Nam liền nắm ngay cơ hội để xâm lấn"
[28]
.
[sửa] Với Ai Lao
Thời vua Minh Mạng, nhiều xứ ở Ai Lao xin thuộc quyền bảo hộ của Việt Nam. Các vùng nay là Sầm Nứa,
Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, đều xin làm nội
thuộc và trở thành các châu, phủ của Việt Nam
[29]
.
[sửa] Với Chân Lạp
Khi vua Gia Long lên ngôi, nước Cao Miên tuy mất Thủy Chân Lạp cho người Việt nhưng vẫn phải chịu

thần phục. Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân Xiêm, Tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê Đại
Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp
[30]
.
Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có con trai nối dõi, quyền bính
chuyển sang cho Trà Long và Lê Kiên - hai người Chân Lạp làm quan cho người Việt. Năm sau, Trương
Minh Giảng lập công chúa Angmey, con của Nặc Ông Chân, còn gọi là Ngọc Vân công chúa, làm quận chúa.
Ông đổi nước Chân Lạp thành Trấn Tây thành, chia làm 32 phủ và 2 huyện, và đặt các chức quan coi sóc mọi
việc quân sự và dân sự
[30]
.
Do quan lại Đại Nam tại Chân Lạp làm nhiều điều ức hiếp, nhũng nhiễu dân Chân Lạp; do nhà Nguyễn bắt
Ngọc Vân công chúa về Gia Định, đày Trà Long và Lê Kiên ra miền Bắc Việt Nam, nhân dân Chân Lạp oán
giận và nổi dậy chống quân Việt Nam ở khắp nơi. Người em của Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa
với sự giúp đỡ của Xiêm La. Quân nhà Nguyễn đánh dẹp không nổi, đến khi vua Minh Mạng qua đời thì
Trương Minh Giảng phải bỏ Trấn Tây thành rút về An Giang
[30]
.
Ký ức của người Khmer về các cuộc nổi dậy của họ thời đầu thế kỷ 19 và về sự tàn bạo của quan quân nhà
Nguyễn khi đánh dẹp đã được lưu truyền trong ca dao và truyện kể của người Khmer. Họ dùng từ "Youn"
(trong tiếng Khmer có nghĩa là "man rợ") để chỉ người Việt. Các bà mẹ thường dùng chuyện "Youn bắt" để
dọa con. Kênh Vĩnh Tế - con kênh đào dài 25 dặm được xây dựng bởi dân phu Việt và một phần người
Khmer ở Thoại Sơn - đã để lại những câu chuyện về cách đối xử tàn ác của người Việt đối với người Khmer
mà sau này Khmer Đỏ đã sử dụng trong các chiến dịch tuyên truyền khơi dậy lòng hận thù của người
Campuchia đối với người Việt
[31]
.
[sửa] Với phương Tây
Ấn vàng của vua Minh Mạng
Năm 1803, Anh Quốc sai sứ là Robert sang xin cho mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam.

Vua Gia Long không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Anh còn đưa thư sang hai ba lần
nữa, nhưng vẫn bị từ chối.
Đối với nước Pháp, vua Gia Long có thiện cảm hơn do khi ông còn gian truân có nhờ ông Bá Đa Lộc giúp
đỡ. Khi chiến tranh kết thúc, các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, Gia Long cho mỗi
người 50 lính hầu và khi chầu thì không cần lạy Hoàng đế.
Năm 1817, chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền trưởng là
Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm
1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy
nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa
[32]
.
Cảnh hành hình giáo sĩ Pierre Borie năm 1838 dưới thời Minh Mạng
Tuy nhiên, sự bành trướng của Châu Âu ở Đông Nam Á khiến Gia Long e ngại, nhất là sau khi nước Anh
chiếm được Singapore. Nhà vua thấy rằng cần phải giao hảo với người Tây phương nhưng không thể biệt đãi
một quốc gia đặc biệt nào. Năm 1819, John White, một thương gia Hoa Kỳ tới Gia Định và được hứa hẹn sẽ
dành cho mọi sự dễ dàng khi buôn bán ở Việt Nam.
Vua Minh Mạng không có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người Á Đông lúc đó, coi người
Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược
[33]
. Ngoài ra ông cũng không thích cả Công giáo của Châu Âu.
Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngoài đã so
sánh ông với hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã - một hoàng đế từng tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo.
Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại
Việt Nam không được trọng dụng nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước
giữa hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận mua bán với
người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư
của Pháp xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Việt Nam không được nhà vua đếm xỉa đến.
Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ mọi việc giao thiệp với
các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương mại. Năm 1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa
Hàn có quốc thư xin thông thương nhưng không được tiếp nhận.

Từ năm 1855 các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên
xin thông thương cũng không được. Sau khi Gia Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình
với các nước phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Ty để lo buôn bán
và Thượng Bạc Viện để giao dịch với người nước ngoài nhưng không có kết quả vì những người được ủy
thác vào các việc này không được học gì về ngoại giao
[33]
.
[sửa] Kinh tế
[sửa] Thương nghiệp
[sửa] Nội thương
Việc thống nhất đất nước vào đầu thế kỷ XIX là một điều kiện thuận lợi cho thương nghiệp phục hồi và tái
phát triển sau một thời gian dài suy thoái. Ngoài ra, Gia Long và các vua nhà Nguyễn cũng cho sửa sang
đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của người dân được tiện lợi, cụ thể là:
đường sá trong nưóc là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên Gia Long mới định lệ sai quan ở các doanh,
các trấn phải sửa sang đường quan lộ, bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì
phát cho dân 10.000 phương gạo. Từ ải Nam Quan (thuộc Lạng Sơn) vào tận Bình Thuận, cứ 4.000 trượng
phải làm một nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm. Còn từ
Bình Thuận trở vào phía nam đến Hà Tiên thì phải đi đường thủy.
[34]
Tuy nhiên, thương mại của Việt Nam rất kém cỏi, họ buôn lẻ hàng hóa của người Hoa để bán lại kiếm lời. Sự
tổ chức thương mại của người Việt sơ sài, trong phạm vi gia đình. Nếu có những hội buôn lớn thì cũng chỉ là
những phường họp vài thương gia hùn vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay. Họ không liên kết lại
thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều người Việt Nam cho vay lãi trở nên phát tài nhưng họ dùng tiền
của để mua ruộng đất chứ không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay công nghệ. Do đó mà
thương nghiệp không mạnh được, một phần lớn cũng bởi tâm lý của người dân.
[35]
Việc buôn bán ở các chợ quy mô lớn lại bị kiểm soát bởi thương nhân Hoa kiều, dù những người này chỉ là
thiểu số. Một người Pháp là ông Dutreuil de Rhins đã viết năm 1876 rằng "nhân số Hoa kiều tuy ít nhưng đã
chiếm được các thương nghiệp lớn lao".
[35]

Một mặt Hoa kiều mua thổ sản như gạo, lúa, bắp, đường, hạt
tiêu...để bán và nhập cảng trà, thuốc Bắc, vải, đồ đồng, giấy....
Trong vùng quê, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Ở
đó, ngoài những cửa hàng tạp hóa quy mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán
thổ sản và nông sản của minh và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ chợ
này sang chợ khác.
Học giả Trần Trọng Kim cho rằng "Người thiên hạ đi buôn nước này, bán nước nọ, xuất cảng, nhập cảng,
kinh doanh những công cuộc to lớn kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu, chỉ quanh
quẩn ở trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, thành ra bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài
mất. Thỉnh thoảng có một ít người có mươi lăm chiếc thuyền mành chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia, nhưng vốn
độ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự phú". Việt Nam Sử Lược Phần V : Cận Kim Thời-Đại PV-
Chương 6 Chế độ và tình thế nước Việt Nam đến cuối đời Tự Đức] Ở Kẻ Chợ trong thế kỷ XIX các thương
khu (phường) đã thay đổi bản chất của chúng. Giữa Thế kỷ XIX thì nó đã thoát ly khỏi trạng thái chợ phiên
có kỳ hạn và đã có thương gia cùng thợ thuyền cư trú thường xuyên. Thị trấn Thanh Hoá được bắt đầu xây
dựng đầu thời Gia Long và tới năm 1885 đã là 1 trung tâm thương mại. Ở kinh đô Huế, thời Gia Long cư dân
ở chen chúc thường hay có hoả hoạn nên năm 1837, triều đình đã cho chỉnh trang lại đồng thời lập chợ Gia
Hội có tất cả 399 gian, dài suốt hơn 319 trượng, tất cả đều có cột bằng gạch, xây bằng vôi
[36]

Những trung tâm thương mại từ cuối thế kỷ XVIII cũng vẫn tiếp tục hoạt động trong thế kỷ XIX. Hội An
theo thuyền trưởng Rey "tương tự 1 Bazar lớn của Ấn Độ" với khoảng 60.000 dân mà 1/3 là Hoa kiều. Hàng
năm có những thuyền buồm Trung Hoa lường đến 600 tấn tới buôn bán.
[37]
Ở Huế, Michel Đức Chaigneau cho biết "người Tàu và người Việt buôn bán rất lớn. Thuyền buôn Trung
Quốc chở đến vải vóc, đồ sứ, trà, thuốc Bắc, đồ chơi...và chở về thổ sản như cau khô, tơ sống, gỗ, sơn, sừng
tê và ngà voi."
Ngoài các tổ chức buôn bán đại quy mô ra, Hoa kiều trong các đô thị lớn còn kinh doanh sòng bạc, đánh đề
hay đút lót cho các quan để được đúc tiền, trưng thầu thuế đò, thuế chợ hay độc quyền rượu. Có những Hoa
thương có thế lực còn chiếm độc quyền cung cấp hàng cho triều đình.
[38]

Dù vậy, guồng máy chính phủ cản
trở nhiều sự trao đổi hàng hoá bởi sự nhiêu khê của các thủ tục hành chính ở các cửa ải và sở thuế.
Những cải cách tiền tệ cho thấy là thương nghiệp phát triển hơn so với thế kỷ trước. Cho tới hết thời Nam-
Bắc triều thì chỉ tệ duy nhất được đúc là tiền đồng, cứ 500 đồng thành 1 quan. Giá trị thứ tiền này rất kém, sử
dụng khó khăn chỉ hợp với 1 xã hội mà hoạt động kinh tế không quá thôn xã và sự mậu dịch không quan
trọng. Vua Gia Long và Minh Mạng đã cho đúc những nén vàng, nén bạc cho thấy kinh tế thương mại đã có
bước tiến lên trước. Tuy nhiên, chúng ít được đầu tư và được dân chúng đem cất trữ bởi tâm lý dân chúng
còn mang nặng tính nông nghiệp.
[39]
[sửa] Ngoại thương
Cho tới thời Thiệu Trị, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với phương Tây khá cẩn trọng nhưng thương
mại với họ vẫn được khuyến khích. Sau năm 1818, các thương gia phương Tây khỏi phải trả thuế nhập cảng
quá cao, chỉ vài loại hàng mới phải chịu thuế xuất cảng còn phần lớn được miễn. Hoạt động thương mại của
Việt Nam với các nước láng giềng không thể phát triển tự do khi các quan chức đánh thuế nặng lên thương
mại, còn thủ tục thì rất phiền phức. Ngoài ra, triều đình còn cấm đoán một số mặt hàng, muốn bán phải có
giấy phép riêng. Guồng máy hành chính của nhà Nguyễn cản trở rất nhiều các hoạt động của thương nhân
trong thế kỷ XIX mà cũng không có một tầng lớp trung lưu làm giàu bằng thương mại để thúc đẩy triều đình
mở rộng giao dịch quốc tế
[40]
. Về các thành thị công thương thì Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà do nhiều nguyên
nhân trở nên suy tàn và không thể phục hồi như xưa; còn Thăng Long, Bến Nghé, Đà Nẵng vẫn tiếp tục cuộc
sống công thương như bình thường; Gia Định vẫn phát triển đều đặn. Xuất hiện thêm vài hiệu buôn người
Hoa, một số phường thủ công cũng ổn định mặt hàng nhưng không thay đổi nhiều.
[41]
Triều đình đã tổ chức nhiều chuyến đi công cán đến các nước trong khu vực để thực hiện giao dịch buôn bán.
Ngay từ năm 1824, Minh Mạng đã sai người đi công cán ở Hạ Châu (Singapore) và Giang Lưu Ba
(Indonesia). Từ năm 1825, vua Minh Mạng phái người sang Hạ Châu mua vải và đồ thủy tinh. Và sau đó,
mỗi năm đều có quan viên được phái đi tới các trung tâm mậu dịch của người Âu ở khắp Đông Nam Á. Từ
1831-1832 trở đi, các chuyến công cán càng lúc càng nhiều, điểm đến cũng khá đa dạng: Hạ Châu, Lữ Tống
(Luzon - Philippines), đảo Borneo, Quảng Đông, Giang Lưu Ba,... Trong khoảng 1835-1840 đã có 21 chiếc

được cử đi.
[35]
Hàng bán ra chủ yếu là gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng mua về là len dạ và vũ khí, đạn
dược. Các hoạt động này gần như là độc quyền của triều đình dù tư nhân không bị cấm. Nguyên do ở chỗ
thuyền buôn tư nhân không được mang vũ khí nên không chống được hải tặc Trung Hoa đang hoành hành
trên biển từ vịnh Thái Lan cho tới đông bán đảo Mã Lai.
[35]
Dù vậy, nhiều thương nhân cũng lợi dụng các
chuyến buôn bán này để buôn lậu gạo và thổ sản sang Hạ Châu hay Quảng Châu.
Hàng năm, thuyền buôn Trung Hoa thường đi lại giữa Việt Nam và Singapore. Thương nhân người Hoa
thường lén chở gạo đi và đem thuốc phiện về. Trong những năm 1820-1830, giao dịch với Singapore rất hạn
chế. Năm 1824, giá trị mậu dịch chỉ cỡ 93.781 USD, năm 1826-1827 là 124.698 USD.
[35]
Nguyên nhân do
hàng hóa của Việt Nam phù hợp với thị trường Trung Hoa hơn. Nhờ Hoa kiều mà mậu dịch quốc tế khá hoạt
động. Khi người Pháp sắp chiếm hết Nam Kỳ, các bản lược kê tài chính cho thấy quan thuế hàng năm tương
đương 3.000.000 france vàng trên tổng ngân sách 40.000.000 mà các quan viên đã giữ lại gấp đôi số tiền thuế
kia, như vậy số tiền thu được vượt quá số tiền chuyển về triều đình rất nhiều.
[35]
Thời vua Thiệu Trị, tháng 3/1845, chiến hạm Constitution của Hoa Kỳ cập bến Đà Nẵng yêu cầu nhà cầm
quyền thả 1 nhà truyền giáo người Pháp và để gây áp lực đã bắt các quan làm con tin. Năm 1847, 2 chiến
hạm Pháp tới Đà Nẵng đòi chính phủ cho phép Công giáo hoạt động tự do và phóng thích các nhà truyền giáo
Pháp. Do hiểu lầm mà người Pháp bắn chìm các chiến thuyền Việt Nam trong cảng. Từ sau những sự kiện
đó, quan hệ buôn bán với phương Tây bị tổn hại. Năm 1850, nhà vua không còn phái thuyền đi buôn ở Hạ
Châu nữa và phải tới năm 1875, vua Tự Đức mới cho các quan thảo luận có nên phái thuyền đi thông thương
không. Chính phủ cũng tìm cách cản trở dân thường buôn bán với người Tây nên cuối cùng, thương gia ngoại
quốc chủ yếu là Hoa kiều, Xiêm và Mã Lai, trong đó người Hoa chiếm tỷ lệ lớn nhất.
[sửa] Thủ công nghiệp
Giống các triều đại trước, thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chiếm một vị trí rất quan trọng: nó chế tạo
tất cả những đồ dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền,...

[42]
Chính vì
vậy, nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các
vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long.
[42]
Nhà
Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ công. Ví dụ như ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ
công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc
súng, làm trục xe, luyện đồng,... Ti Thuyền chịu trách nhiệm về các loài thuyền công và thuyền chiến, gồm
235 sở trên toàn quốc
[42]
. Ngoài ra còn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.
[43]
Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công Nhà nước là do triều đình trưng dụng thợ khéo trong các ngành
như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa...tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Vì vậy người thợ
luôn tìm cách trốn tránh dù chính phủ áp dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề để ngăn chặn. Ví dụ, thợ
khéo ít dám trổ tài vì tài nghệ không có lợi mà là tai họa. Họ chỉ dám làm những thứ nhỏ để bán cho dễ,
những người nào chế tạo đồ tốt cũng phải mạo danh là hàng ngoại quốc để vua quan đừng để ý. Đầu Thế kỷ
XIX có người chế được men sứ tốt hơn của Trung Quốc nhưng phải bỏ trốn vì sợ bị trưng dụng làm cho triều
đình. Một số khác phải giả làm đồ Trung Quốc để không bị các quan mua rẻ hay lấy không.
[44]
Trong nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan người Mỹ John White đã nhận xét:" Người Việt Nam quả là những
người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác." Ngoài các
thuyền gỗ, người thợ thủ công VN còn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng
[45]
. Ngoài ra họ đã sáng chế được
nhiều máy móc tiên tiến và có chất lượng vào thời đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng,... và cả máy
hơi nước.
[45]
.

Nhà Nguyễn cũng tập trung tham gia quản lý khai mỏ. Đến nửa đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ,
và năm 1833 có 3.122 nhân công trong các mỏ Nhà nước
[45][46]
. Tuy nhiên, phương thức khai mỏ thời bấy giờ
vẫn kém phát triển so với thế giới.
[sửa] Nông nghiệp
[sửa] Vấn đề ruộng đất
Quy tắc điền thổ ở Việt Nam: trên nguyên tắc, điền thổ (đất ruộng) trong nước đều là của nhà vua kể từ thời
nhà Đinh, Tiền Lê. Người nông dân nhận ruộng cày cấy và nộp tô thuế cho triều đình. Tuy vậy, trên thực tế
những ruộng đất do người dân cày lâu ngày được coi như của riêng, có thể mua bán. Tư điền (ruộng tư) là đất
riêng của tư nhân, do tư nhân trồng trọt và nộp thuế. Đất này có thể mua bán, cầm cố, có thể thừa kế. Nếu
triều đình muốn trưng dụng phải trả tiền bồi thường. Công điền (ruộng công) là đất của công, do chính phủ
giao cho xã, thôn sử dụng và cấm bán, trừ 1 vài trường hợp có thể cầm cố trong hạn 3 năm, hết hạn phải lấy
lại. Ruộng này cứ 3 năm phân chia lại 1 lần cho dân đế mỗi người đều có một số ruộng tương tự nhau một
cách công bằng, cách này gọi là phép quân điền.
Ngay khi mới lên ngôi, vua Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm
cố loại công điền công thổ này để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân. Đạo dụ năm Gia Long thứ 2
(1803) có ghi rõ:"Theo lệ cũ thì công điền công thổ cho dân quân cấp, đem bán riêng là có tội, do đó nhân
dân đều được lợi cả. Từ đời Tây Sơn bỏ hết luật cũ, dân gian nhiều người đổi ruộng công làm ruộng tư,
cũng có kẻ tạ sự việc công mà cầm bán ruộng đất công...Phàm xã dân có công điền công thổ đều không
được mua bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền..."
[47]
Trải qua nội chiến, nhân dân điêu tệ rất nhiều. Hết chiến hoạ lại gặp mất mùa liên tiếp. Triều đình thường
phải giảm thuế, miễn thuế và chẩn cấp. Trong đình thần có ý kiến tịch thu ruộng đất bị chiếm trong thời loạn
để phân cấp cho dân nghèo nhưng vua Gia Long cho rằng phép này khó thực hiện nên ông chỉ tịch thu những
ruộng đất của quan lại triều Tây Sơn và ruộng trang trại riêng của Tây Sơn làm quan điền. Thời Minh Mạng
định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, công tượng (thợ làm quan xưởng) cùng các hạng
dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều được hưởng 1 phần khẩu phân nhưng quan lại, cường hào cũng
dành được những phần tốt hơn. Người già, người tàn tật thì được nửa phần. Cô nhi, quả phụ được 1/3.
[48]

[sửa] Việc khai hoang và phục hóa
Trong nửa đầu thế kỷ XIX sử sách đã ghi lại rất nhiều cuộc nổi dậy của nông dân bắt nguồn từ sự suy sụp về
kinh tế nhưng tại miền Nam thì nhà Nguyễn vẫn tiếp tục một số công việc từ thời các chúa Nguyễn để lại như
việc khẩn hoang, mở rộng, phát triển nông nghiệp. Ở Nam Kỳ, người dân đã tự do đến khẩn hoang với tư
cách cá nhân hoặc tập thể dưới sự giúp đỡ của triều đình.
[49]
Sử sách cũng ghi lại tên tuổi nhiều người đã có
công trong việc đào kênh, vỡ đất như Thoại Ngọc Hầu.
Triều đình nhà Nguyễn dành cho việc khai hoang, phục hóa rất nhiều sự quan tâm, họ đã cho tiến hành nhiều
chính sách khai khẩn hoang khác nhau và đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Diện tích ruộng đất thực trưng
tăng lên nhiều: năm 1847 đã là 4.273.013 mẫu
[50]
.
Hai vị quan tổ chức khẩn hoang nổi tiếng nhất là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương; trong đó Nguyễn
Công Trứ nổi lên vì là tác giả của ba chính sách khẩn hoang lớn: đồn điền, doanh điền và khai khẩn ruộng
hoang
[51]
. Cụ thể như sau:
Đồn điền
Chính sách này chủ yếu dựa vào việc mộ dân nghèo, đi cùng với tội phạm để thực hiện việc khai khẩn đất
hoang. Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ được quản lý theo cung cách đồn điền không giống như
thôn ấp bình thường; sau một khoảng thời gian từ sáu đến mười năm để cuộc sống ổn định thì sẽ chuyển sang
hình thức bình thường. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định
[51]
. Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh
lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853-1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả 6
tỉnh
[52]
.
Doanh điền

Chính sách này là một chính sách di dân để lập ấp mới. Chính sách này bắt đầu thực hiện từ năm 1828 dưới
thời vua Minh Mạng theo đề nghị của Tham tán quân vụ Bắc thành Nguyễn Công Trứ vào năm 1828. Cách
thức được quy định cụ thể như sau: nhà nước sẽ bỏ vốn ban đầu và cử ra một quan chức sẽ dứng ra chiêu mộ
và chỉ đạo dân chúng đưa đi khai hoang theo hai trường hợp
[53]
• Số dân mộ được là 50 người đủ một lý, người đứng ra mộ sẽ được ban chức lý trưởng.
• Số dân mộ được là 30 người đủ một ấp, người đứng ra tuyển một sẽ được ban chức ấp trưởng.
Thời gian sáu tháng ban đầu, triều đình sẽ cấp cho dân chúng đi khai hoang đầy đủ lương thực và phương
tiện sản xuất. Từ tháng thứ bảy thì phải tự lo. Triều đình sẽ miễn thuế cho các ấp và lý mới này 3 năm.
[53]

Tổng Giao Thủy thuộc Nam Định cũng được thành lập theo hình thức này
[53]
. Về sau, các quan ở Gia Định
gồm Trương Minh Giảng, Cao Hữu Dực, Trần Hoàn, Phạm Hữu Chỉnh và Nguyễn Tri Phương cũng bắt
chước thực thi chính sách này trên vùng Gia Định đồng thời với chính sách đồn điền trên một quy mô rất lớn
và thu được nhiều thành công và hiệu quả
[54]
, diện tích ruộng đất đã tăng lên rất nhiều.
Chính sách đồng điền và doanh điền được Triều đình kèm theo một loạt luật lệ thưởng phạt phân minh để
khai thác triệt để đất đã vỡ hoang và ngăn tình trạng bỏ đất nhưng cũng không dứt hẳn được hiện tượng
ruộng hoang
[55]
.
Ngoài ra, triều đình Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợp phục hóa. Việc đinh điền
cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất ở Nam Việt thời vua Minh Mạng được đo đạt lại,
tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 xuất và 4.063.892 mẫu ruộng đất.
[56]
Về chính sách khai hoang, theo quan điểm cũ của các tác giả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì:"Chính sách
khai hoang của họ Nguyễn trong giai đoạn sau này là nhằm làm giàu cho giai cấp địa chủ và củng cố cơ sở

xã hội của chính quyền. Do khẩn hoang và cướp đoạt, tại vùng đất phía Nam đã hình thành một tầng lớp đại

×