Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

ĐỀ TÀI THẠC SĨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.77 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ
thông
Giáo dục- Đào tạo luôn được xem là nhân tố quan trọng, quyết định để
phát huy tiềm năng tư duy sáng tạo của con người, đó là động lực quan trọng
cho sự phát triển của xã hội.
Thế kỉ XXI được xem là kỉ nguyên công nghệ thông tin, để không bị tụt
hậu trong chặng đường thế kỉ này, chúng ta phải năng động, sáng tạo hơn.
Do vậy, giáo dục cần có sự đổi mới để đào tạo ra những con người có thể
đáp ứng được nhu cầu của thời đại mới.
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII và báo cáo chính trị tại Đại hội IX
của Đảng đã chỉ rõ: “Phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp Giáo dục- Đào
tạo… Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng
khắp trong toàn dân”[]. Đó chính là giúp người học tự nghiên cứu, tự điều
chỉnh, chiếm lĩnh tri thức bằng các hoạt động của chính bản thân mình.
Người học sẽ trở thành trung tâm, chủ thể, được định hướng để tự mình tìm
ra kiến thức, chân lí. Còn thầy giáo sẽ là người “đạo diễn”, tổ chức, định
hướng cho học sinh khám phá ra “điều mình chưa biết”. Làm được như vậy
tức là chúng ta đã chuyển từ đào tạo sang tự đào tạo, tạo được tâm thế chủ
động cho người học, phát huy được tiềm năng tư duy sáng tạo của mỗi cá
nhân người học.
1.2. Xuất phát từ việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa
Trong tình hình hiện nay, khi mà khoa học kỹ thuật đang phát triển
như vũ bão, khối lượng tri thức ngày càng tăng, làm xuất hiện mâu thuẫn
giữa khối lượng tri thức cần dạy và cần biết cho học sinh là rất lớn. Trong
khi đó thời lượng các tiết ở nhà trường là có hạn. Dạy cho học sinh biết cách
tự học là trang bị cho các em cách thức để giải quyết mâu thuẫn đó.
Một trong những phương tiện để tổ chức hoạt động tự học, phát huy
được tính tích cực của học sinh là sách giáo khoa. Hiện nay sách giáo khoa
được biên soạn theo hướng đổi mới; nội dung kiến thức được triển khai ở


nhiều “kênh” thông tin khác nhau như: Kênh hình, kênh chữ, sơ đồ, bảng
biểu…. Việc khai thác thông tin qua các kênh đòi hỏi người học cần phải có
kĩ năng, kĩ xảo. Do đó đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học hợp lí.
Hướng dẫn học sinh tự học là phương thức dạy học phù hợp với quan
điểm đổi mới giáo dục hiện nay, trong đó học sinh tự lĩnh hội tri thức dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, khơi dậy được tiềm năng tư duy sáng tạo, tính
tích cực chủ động của từng cá nhân học sinh. Từ đó hình thành ở người học
khả năng tư duy độc lập, có hệ thống trong việc lĩnh hội tri thức cũng như
hình thành và phát triển ở các em khả năng hoạt động độc lập, tự chủ trong
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
1.3. Xuất phát từ đặc điểm nội dung phần di truyền học
Di truyền học có vị trí và ý nghĩa quan trọng trong chương trình Sinh
học phổ thông. Di truyền học nghiên cứu về các hiện tượng di truyền, biến dị
và tiến hoá, mối quan hệ của các hiện tượng di truyền đó với môi trường
không chỉ ở cấp độ quần thể, quần xã mà giới thiệu cơ sở phân tử, tế bào và
cơ thể của các hiện tượng đó trên quan điểm xem thế giới sống là hệ thống
có tổ chức cao theo cấp bậc lệ thuộc từ đơn giản đến phức tạp như một thể
thống nhất biện chứng. Từ đó giúp học sinh giải thích được các hiện tượng
trong tự nhiên có liên quan đến di truyền, biến dị, giải các bài tập di truyền.
Trên cơ sở này, giáo dục và củng cố cho học sinh thế giới quan khoa học:
Quan điểm duy vật biện chứng và phương pháp biện chứng.
Trong chương trình Sinh học phổ thông, di truyền học được phân bố ở
đầu năm học 12. Khi đó học sinh đã bước vào giai đoạn trưởng thành về tâm
sinh lí, có năng lực tư duy, năng lực tự học cao. Vốn kiến thức về tự nhiên
và xã hội khá phong phú. Vì vậy, khi giảng dạy, giáo viên có thể nâng cao
vai trò chủ thể của học sinh bằng cách hướng dẫn và tổ chức cho học sinh tự
học.
Từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Bước đầu nghiên cứu tự
học và hướng dẫn tự học phần di truyền học (Sinh học 12)” .

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Hình thành biện pháp hướng dẫn tự học, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học phần di truyền học (Sinh học 12).
3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Xác định cơ sở lí luận của hoạt động tự học và hướng dẫn tự học
- Đề xuất các biện pháp hướng dẫn học sinh tự học phần di truyền học
(Sinh học 12)
- Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá tính khả thi và tính hiệu quả
của các phương án đề xuất
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Hướng dẫn học sinh tự học phần di truyền
học (Sinh học 12)
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học Sinh học 12
5. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học di truyền học 12 sẽ góp
phần nâng cao tính tích cực, tự lực của học sinh đồng thời nâng cao chất
lượng dạy học
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Sử dụng phối hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá,
khái quát hoá… trong nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên
cứu bao gồm:
+ Các tài liệu về đường lối của Đảng và nhà nước trong công tác Giáo
dục, các văn bản về cải cách Giáo dục của Bộ Giáo dục- Đào tạo
+ Các công trình nghiên cứu khoa học giáo dục có liên quan
+ Sách giáo khoa Sinh học 12, sách giáo viên, thiết kế bài giảng Sinh
học 12.
6.2. Phương pháp thống kê toán học
Kết quả nghiên cứu được xử lí bằng thống kê toán học nhằm tăng độ
chính xác cũng như sức thuyết phục của kết luận.

6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm có đối chứng song song
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ TỰ HỌC
VÀ HƯỚNG DẪN TỰ HỌC
1.1. Một số vấn đề về tự học và hướng dẫn tự học
1.1.1 Khái niệm về tự học và hướng dẫn tự học
a. Hoạt động tự học
Học là một hoạt động đặc trưng của con người, trong đó người học
đóng vai trò là chủ thể và tri thức khoa học là đối tượng cần chiếm lĩnh. Do
đó, bản chất hoạt động học là sự chiếm lĩnh tri thức khoa học của người học.
Điều này xuất phát từ bản chất lao động học tập, người học tự cải biến mình
để trưởng thành về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Tuy vậy, trong hoạt dộng học
cũng có hai trạng thái đó là: Học thụ động và học chủ động (học tích cực).
Hoạt động tự học (self learning) là quá trình tự giác, tích cực, tự chiếm
lĩnh tri thức khoa học bằng hành động của chính mình hướng tới những mục
đích nhất định. Như vậy, để hoạt động học có hiệu quả thì cần thiết phải
chuyển hoạt động học từ trạng thái học bị động sang học chủ động.
Hoạt động tự học có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức, mức độ
khác nhau: Tự học có thể được tiến hành ngoài quy mô trường học, khi
không có sự hướng dẫn cuả giáo viên, cũng có thể được tiến hành dưới sự
hướng dẫn, định hướng của giáo viên. Tự học có thể được tổ chức ở trên lớp
hoặc ở nhà. Tự học trong khâu nghiên cứu tài liệu mới hoặc tự học với mục
đích ôn tập, củng cố kiến thức.
Tự học không có hướng dẫn: Đây là hình thức tự học sơ khai nhất. Khi
nhà trường chưa xuất hiện, con người đã biết tự học, tự mình chiếm lĩnh tri
thức nhân loại. hình thức tự học này xuất phát từ nhu cầu, hứng thú, ý chí nỗ
lực phấn đấu, không ngừng học hỏi, vươn lên để tự chiếm lĩnh tri thức đang
ngày càng đa dạng và phong phú. Trong hình thức tự học không hướng dẫn,
người học hoàn toàn được tự do về mục tiêu cũng như quy trình… do đó

tính sáng tạo của chủ thể được bộc lộ tối đa. Song, do không có sự định
hướng, dẫn dắt của giáo viên, không có mục tiêu rõ ràng, cụ thể nên người
học “thích gì”, “học lấy”, không đáp ứng được mục tiêu của giáo dục. Mặt
khác, do không được hướng dẫn về quy trình nên người học khó hình thành
kỹ năng, kỹ xảo tự học và chất lượng tự học chưa cao.
Trong hình thức dạy học tập trung, giáo viên trực tiếp tổ chức, hướng
dẫn qúa trình nhận thức của người học, còn người học phải đóng vai trò chủ
thể nhận thức, tích cực huy động mọi phẩm chất tư duy cá nhân của mình để
tiến hành các hoạt động học tập cụ thể nhằm chiếm lĩnh tri thức, hình thành
kĩ năng, thái độ. Giáo viên thường xuyên giúp đỡ, uốn nắn, bổ sung cho quá
trình tự học của học sinh thông qua các hình thức kiểm tra. Giáo viên và học
sinh tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên theo kế hoạch dạy học chặt chẽ.
Ngoài giờ lên lớp, có giáo viên trực tiếp giảng dạy, quá trình học tập
của học sinh còn được tiến hành khi không có giáo viên, người học phải chủ
động, tự sắp xếp kế hoạch phù hợp với các điều kiện mình có, huy động trí
tuệ, kỹ năng của bản thân để học tập theo yêu cầu và hướng dẫn của giáo
viên để học bài mới, ôn tập củng cố và mở rộng kiến thức, hoàn thành nhiệm
vụ học tập. nói cách khác, giáo viên đã điều khiển gián tiếp quá trình tự học
của học sinh thông qua nhiệm vụ học tập được giao về nhà sau mỗi bài
giảng.
Như vậy, khái niệm tự học là rất rộng, nó có thể diễn ra với người học
khi có giáo viên trực tiếp giảng dạy hoặc khi có sự điều khiển gián tiếp của
giáo viên, thậm chí khi không có giáo viên hướng dẫn song dù tổ chức dưới
hình thức nào, nó cũng thể hiện tính sáng tạo, độc lập trong suy nghĩ của
người học. Có thể biểu diễn bằng sơ đồ các hình thức tự học như sau:
Hình 1.1. Sơ dồ các hình thức tự học
Tự học
Tự học không có
hướng dẫn
Tự học có

hướng dẫn
Tự học ở
trên lớp
Tự học
ở nhà
Trong khâu
nghiên cứu
tài liệu mới
Trong khâu ôn
tập, củng cố
kiến thức
Trong khâu
nghiên cứu
tài liệu mới
Trong khâu ôn
tập, củng cố
kiến thức
Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu hoạt động
tự học và hướng dẫn tự học ở trên lớp. Như vậy, khái niệm tự học trong đề
tài này được hiểu là hoạt động tự học của học sinh để chiếm lĩnh tri thức
khoa học đã được qui định thành kiến thức trong chương trình thông qua
sách giáo khoa, tài liệu tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
b. Hướng dẫn tự học
Trong hoạt động dạy học, dạy chính là sự tổ chức, điều khiển, tối ưu
quá trình chiếm lĩnh tri thức khoa học để thông qua đó hình thành và phát
triển nhân cách cho người học. Hoạt động dạy có hai chức năng liên hệ mật
thiết, chặt chẽ với nhau đó là: “Truyền đạt thông tin dạy học và điều khiển
hoạt động dạy học” []. Mối tương quan của hai chức năng này thường thay
đổi theo lịch sử phát triển các phương pháp dạy học và việc lựa chọn các
phương pháp dạy học.

Trong hướng dẫn tự học chức năng của giáo viên là chức năng chỉ đạo,
ít mang tính “quyền uy” hay “mện lệnh” như hình thức dạy học cũ lấy giáo
viên làm trung tâm.
Từ quan điểm dạy học trên đây, có thể hiểu khái niệm hướng dẫn tự học
là sự hỗ trợ của giáo viên trong việc định hướng, tổ chức và chỉ đạo nhằm
giúp học sinh tối ưu hoá quá trình tự lực chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kỹ
năng, kỹ xảo thông qua đó hình thành và phát triển nhân cách người học.
Nội dung việc đinh hướng bao gồm: Định hướng mục tiêu, nội dung,
phương pháp học tập để học sinh tự phát hiện, lựa chọn. Nội dung công việc
tổ chức, dẫn dắt của giáo viên bao gồm: Xác định mục tiêu, xây dựng các
phiếu học tập với các câu hỏi, bài toán nhận thức, chuẩn bị tài liệu tự học, tổ
chức thảo luận theo tập thể lớp, nhóm. Khi đó giáo viên đóng vai trò là trọng
tài, là cố vấn… để học sinh tự tổ chức hoạt động nhận thức nhằm giải quyết
các nhiệm vụ học tập.
c. Hình thức tổ chức dạy học “Tự học có hướng dẫn”
Hình thức tổ chức dạy học là hình thái tồn tại của quá trình dạy học
trong đó cốt lõi là cách dạy (của thầy) và cách học (của trò).
Tự học có hướng dẫn là một hình thức tổ chức dạy học mà trong đó
thày đóng vai trò người định hướng, dẫn dắt và giúp đỡ để học sinh phát huy
nội lực, tự mình chiếm lĩnh tri thức. Như vậy, tự học và hướng dẫn tự học
được xem xét không phải ở góc độ phương pháp hay biện pháp hỗ trợ dạy
học mang tính đơn lẻ, mà là phương thức có sự thống nhất giữa hoạt động tổ
chức, chỉ đạo của giáo viên với hoạt động tự tổ chức, tự điều chỉnh của học
sinh, tạo thành một chỉnh thể nhằm đạt được mục đích dạy học, trong đó học
sinh đạt hiệu quả tự học cao nhất.
Những phân tích trên đây có thể biểu diễn bằng sơ đồ mối quan hệ giữa
các thành tố trong mô hình tự học có hướng dẫn như sau:
Hình 1.2. Sơ đồ mối quan hệ giữa các thành tố
trong mô hình tự học có hướng dẫn
Trong đó:

Trò: Chủ thể, trung tâm, tự mình tìm ra tri thức bằng hành động của
chính mình, tự làm ra sản phẩm ban đầu (tri thúc tự mình tìm ra) mang tính
Tri thức
Thầy Lớp
Trò
chất cá nhân ( quá trình cá nhân hoá); người học không còn là “khán giả” thụ
động ngồi xem thày “trình diễn” mà là những “diễn viên” tích cực của giáo
dục.
Lớp: Cộng đồng lớp học là môi trường xã hội trung gian giữa thầy và
trò, là nôi diễn ra sự trao đổi, giao tiếp, hợp tác giữa trò- trò, trò- thầy, làm
cho sản phẩm ban đầu từng cá nhân làm ra mang tính chất xã hội (quá trình
xã hội hoá).
Tri thức: Do người học tự tìm ra, tự chiếm lĩnh với sự hợp tác của các
bạn và sự hướng dẫn của thầy.
Thầy: Tác nhân, người hướng dẫn, tổ chức cho người học tự mình tìm
ra kiến thức thông qua một quá trình vừa cá nhân hoá, vừa xã hội hoá việc
học. Thầy là người đạo diễn”, kích thích hoạt động của người học, là người
trọng tài, cố vấn, kết luận làm cho sản phẩm ban đầu trở thành sản phẩm thật
sự khách quan, khoa học.
Như vậy, hình thức dạy học lấy học sinh làm trung tâm thực chất là một
quá trình:
- Kết hợp quá trình dạy học với quá trình tự học, quá trình giáo dục
với quá trình tự giáo dục;
- Kết hợp hữu cơ quá trình cá nhân hoá với quá trình xã hội hoá
việc học
- Cộng hưởng dạy học với tự học, tạo ra chất lượng và hiệu quả
giáo dục
1.1.2. Cơ sở lí luận của tự học và hướng dẫn tự học
a. Cơ sở triết học
Theo quan điểm triết học: Kết quả hành động người bị chi phối bởi

hai yếu tố, đó là nội lực và ngoại lực. Học tạp là hoạt động cao nhất của con
người, yếu tố ngoại lực trong học tập quan trọng, là sự tác động của giáo
viên, các điều kiện vật chất, tinh thần từ bên ngoài. Yếu tố nội lực là vốn tri
thức đã biết (cả kiến thức và kĩ năng), động cơ học tập, năng lực tự điều
chỉnh bản thân…
Trong hai yếu tố trên, yếu tố được khẳng định có vai trò quyết định đó
là nội lực. Do đó, hoạt động nhận thức tích cực của học sinh về bản chất là
quá trình nhận thức song không phải hoàn toàn “khép kín” mà qúa trình tự
học có sự “cộng hưởng” tối đa giữa ngoại lực và nội lực.
b. Cơ sở tâm lí lứa tuổi
Lứa tuổi trung học phổ thông bao gồm những em có độ tuổi 14- 18.
Đó là những học sinh đang theo học từ lớp 10 đến lớp 12. Ở các trường phổ
thông, lứa tuổi này hầu hết thanh niên học sinh đã phát triển hoàn thiện mọi
mặt, cả về thể chất và tâm lí, hoạt động học tập trở thành trách nhiệm rõ rệt.
Đặc điểm nổi bật về sự phát triển trí tuệ của thanh niên học sinh là:
Tính chủ định, tính chủ động, tính tích cực, tính tự giác được thể hiện ở tất
cả các quá trình nhận thức. Có thể nói năng lực tư duy và năng lực tưởng
tượng cũng như các năng lực khác ở thanh niên được hoàn thiện nhanh
chóng và có chất lượng cao.
Cùng với sự phát triển về tự ý thức thì tự giáo dục, tự tu dưỡng cũng
khá phát triển ở lứa tuổi trung học phổ thông. Đối với các em, sự tự giáo
dục, tự tu dưỡng là khát vọng, là nhu cầu khách quan để hoàn thiện mình,
chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc sống tự lập. Vì thế ở lứa tuổi này, tự
giáo dục bắt đầu chiếm ưu thế nổi bật trong hệ thống giáo dục. Học sinh từ
chỗ là đối tượng của giáo dục dần dần họ trở thành vừa là đối tượng giáo
dục, vừa là chủ thể giáo dục.
Bên cạnh những ưu điểm trên, học sinh trung học phổ thông vẫn còn
một số hạn chế như nhiều em kết luận vội vàng, chưa phát huy được năng
lực độc lập, suy nghĩ đối với cuộc sống còn thiếu kinh nghiệm thực tế.
c. Cơ sở giáo dục học

Quá trình dạy học bao gồm các thành tố cơ bản có liên quan mật thiết
với nhau: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức.
Mối quan hệ giữa các thành tố nói trên được đặt trong mối quan hệ tổng thể
với môi trường giáo dục của nhà trường và môi trường kinh tế- xã hội của
cộng đồng (hình 1.3).

Trong đó:
MT: Mục tiêu
ND: Nội dung
PP: Phương pháp
PT: Phương tiện
TC: Tổ chức
ĐG: Đánh giá
Hình 1.3. Mối quan hệ các thành tố cơ bản của quá trình dạy học
Trong các thành tố trên, mục tiêu và nội dung là cố định, dù tổ chức
theo hình thức nào thì cũng phải đạt được. Khác với hình thức đạy học cũ-
lấy giáo viên làm trung tâm, quá trình tổ chức dạy học trong tự học có hướng
dẫn đã khơi dạy được tiềm năng tư duy sáng tạo, tính độc lập ở mỗi học
sinh, tạo được tâm thế chủ động cho người học. Như vậy, để hoàn thành nội
dung chương trình và đạt được mục tiêu dạy học trong điều kiện tổ chức dạy
học mới (tự học có hướng dẫn), chỉ có thể tập trung vào việc nghiên cứu đổi
mới phương pháp dạy học và lựa chọn phương tiện dạy học và hình thức
đánh giá cho phù hợp với phương pháp dạy học mới đó.
MT
ND PP
PT
TC
ĐG
Tính tích cực học tập có vai trò quyết định tới kết quả tự học của học
sinh và nó được biểu hiện ở trạng thái khao khát học tập, chủ động vận

dụng, tập trung chú ý cao độ và kiên trì trong khi học, sẵn sàng tham gia
thảo luận, nêu các thắc mắc…Tính tích cực hoá hoạt động học tập nhằm làm
chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang chủ động. Nhìn chung tích
cực nhận thức phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, động cơ, hứng thú,
năng lực, ý chí, sức khoẻ, môi trường học tập… trong đó động cơ đóng vai
trò then chốt. Trong những yếu tố này, có những yếu tố có thể được hình
thành ngay, một số khác chỉ được hình thành dần dần dưới ảnh hưởng của
nhiều tác động. Vì vậy để phát huy tính tích cực trong tự học của học sinh
đòi hỏi phải có phương pháp hướng dẫn tự học phù hợp. Phương pháp dạy
học phát huy tính tích cực của người học trong quá trình daỵ học. Phương
pháp dạy học này dựa trên cơ sở tâm lí học cho rằng nhân cách của người
học được hình thành thông qua các hoạt động tư duy sáng tạo của chính
người học. Phương pháp dạy học tích cực được thể hiện qua một số đặc
trưng sau:
Dạy học bằng việc tổ chức các hoạt động của học sinh
Trọng tâm của dạy học là hình thành và rèn luyện phương pháp tự học
Tăng cường hợp tác cá nhân, phối hợp với học tập hợp tác nhóm, lớp
Học sinh tự đánh giá là cơ bản, giáo viên đánh giá để giúp đỡ, khuyến
khích
Như vậy, dạy học theo phương pháp phát huy tính tích cực của người
học về bản chất là dạy tự học. Nói cách khác, muốn dạy tự học có hiệu quả
thì phải sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. Giáo dục hiện đại và
thực tiễn dạy học đã khẳng định tính khoa học và hiệu quả của các phương
pháp dạy học tích cực, trong đó đáng chú ý là dạy học giải quyết vấn đề.
Bản chất của kiểu dạy học giải quyết vấn đề là giáo viên tạo ra các tình
huống có vấn đề, đặt vấn đề, sau đó tổ chức, hướng dẫn để học sinh tự lực
giải quyết vấn đề trên cơ sở tự suy nghĩ, tự tìm tòi sáng tạo dựa trên mối liên
hệ giữa cái đã cho, cái đã biết và cái cần tìm. Vấn đề ở đây là những nhiệm
vụ nhận thức (mục tiêu học tập) mà học sinh không thể giải quyết được bằng
vốn tri thức và kinh nghiệm sẵn có một cách dễ dàng, do đó đòi hỏi học sinh

tự nghiên cứu với sự nỗ lực suy nghĩ độc lập sáng tạo cùng với sự hỗ trợ trực
tiếp hoặc gián tiếp của giáo viên và kết quả là sau khi đã giải quyết được
tình huống thì học sinh có được tri thức mới, bồi dưỡng được năng lực tự
học.
Trong thực tế, không có phương pháp dạy học nào là hoàn chỉnh, vạn
năng, do đó trong quá trình hướng dẫn tụe học, tuỳ theo đặc trưng từng môn
học, phần học, hoàn cảnh cụ thể, giáo viên cần lựa chọn, phối hợp nhiều
phương pháp dạy học tích cực khác nhau nhằm nâng cao tối đa năng lực tự
học cho học sinh.
1.1.3. Động cơ học tập
Mọi hoạt động của con người đều mang tính mục đích. Hoạt động có
đạt tới mục đích hay không là do động cơ của hoạt động đó quyết định.
Suy cho cùng tất cả các động cơ đều có nguồn gốc từ bên ngoài, nó
được biến thành những hứng thú, tâm thế, niềm tin… của mỗi cá nhân. Động
cơ hoạt động của cá nhân chỉ được hình thành khi có các điều kiện bên ngoài
phù hợp với nhận thức, tình cảm của họ. Động cơ tự học của học sinh cũng
vậy, nó được hình thành bởi những yếu tố bên ngoài như: sự bùng nổ tri thức
nhân loại, yêu cầu của xã hội mới, vị thế xã hội, do tự ái với bạn bè, thoả
mãn nhu cầu hiểu biết, lòng khao khát tri thức…. mâu thuẫn giữa thời gian
trên lớp thì ít và kiến thức thì nhiều. Chính những mâu thuẫn trên đã làm nảy
sinh nhu cầu tự học để nâng cao trình độ, vốn hiểu biết của học sinh.
Khi động cơ đủ mạnh, người học sẽ căn cứ vào điều kiện của bản thân
để lựa chọn hình thức, nội dung và xây dựng kế hoạch tự học thích hợp cho
mình. Trong qúa trình tiến hành tự học, việc chiếm lĩnh tri thức sẽ nâng cao
tầm hiểu biết của người học, làm tăng khả năng thích ứng với cuộc sống do
đó làm nảy sinh tiếp ham muốn nâng cao hiểu biết, động cơ học tập được
củng cố và nâng lên ở mức cao hơn. Như vậy, động cơ tự học không xuất
hiện một cách ngẫu nhiên hay do người khác mang đến cho học sinh. Động
cơ tự học chỉ có thể nảy sinh một cách có ý thức trong từng cá nhân nhờ có
tác động phù hợp từ bên ngoài và chỉ có thể được nâng cao khi quá trình tự

học có hiệu qủa.
Muốn hoạt động tự học có hiệu quả thì trước hết động cơ tự học phải
được cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ rõ ràng. Tiếp đó bằng sự
thôi thúc của động cơ tự học cụ thể, học sinh tiến hành các hoạt động tự học
để thực hiện nhiệm vụ tự học cụ thể, học sinh đạt được các mục tiêu học tập
đơn lẻ, bộ phận và dần dần chiếm lĩnh được toàn bộ đối tượng tự học. Sau
khi người học tiến hành những hành động tự học một cách có hệ thống thì
tất yếu họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ học tập.
1.1.4. Kỹ năng tự học- công cụ quan trọng nhất của hoạt động tự học
Kỹ năng tự học là khả năng tự thu nhận thông tin phục vụ cho nhũng
mục đích học tập nhất định và vận dụng các thông tin đó để giải quyết một
nhiệm vụ mới. Như vậy, kỹ năng tự học có thể hiểu là gồm cả vốn thông tin
và tri thức sẵn có, phương pháp và các thao tác vận dụng chúng để học sinh
tự mình giải quyết các nhiệm vụ học tập, chiếm lĩnh tri thức mới. Các hành
động tự học bao gồm: xây dựng kế hoạch tự học, đọc, ghi chép, hệ thống
hoá, khái quát hoá các tài liệu học tập, giải quyết các bài toán nhận thức,
thực hành thí nghiệm, trao đổi thảo luận… Mỗi hành động trên đây đều đòi
hỏi phải có sự hiểu biết và mức độ thành thạo nhất định, nói cách khác nó
đòi hỏi có những tri thức và kĩ năng tương ứng.
Một yếu tố quan trọng khi thực hiện hành động tự học là học sinh được
tự do bộc lộ cách thức tư duy, không phải theo sự áp đặt của giáo viên, họ
không tiếp nhận các khái niệm dưới dạng có sẵn mà tự xây dựng cho mình
con đường chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình này, học sinh có thể gặp khó
khăn trở ngại, thậm chí lúc đầu có thể thất bại, song dần họ tìm ra được cách
học phù hợp với đặc điểm cá nhân và biết vận dụng một cách hợp lí, sáng
tạo những cách học đã biết vào từng trường hợp cụ thể chứ không sao chép
máy móc. Chính vì vậy người tự học muốn tổ chức thành công hoạt động tự
học của mình, điều quan trọng trước tiên là họ phải có được kĩ năng thực
hiện các hành động tự học để hoàn thành từng nhiệm vụ tự học cụ thể và
ngày một nâng cao. Kỹ năng tự học là điều kiện vật chất bên trong của người

học, để họ biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể, làm cho người học tự
tin hơn vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì tích cực
nhận thức trong hoạt động tự học của họ.
Vậy để tổ chức hoạt động tự học thành công, trước hết phải giúp học
sinh xây dựng động cơ tự học đúng đắn từ đó hình thành nhu cầu giải quyết
các nhiệm vụ tự học.
Những nhiệm vụ tự học là các bài toán nhận thức mà sau khi giải quyết
được nó thì cũng có nghĩa là người học đạt được mục tiêu học tập.
1.1.5. Vai trò điều khiển của giáo viên trong “tự học có hướng dẫn”
Trong hoạt động tự học luôn diễn ra sự tác động tương hỗ giữa các chủ
thể: thầy- trò; thầy- nhóm trò; trò- trò. Sự thống nhất của ba mối quan hệ
trên thực chất là sự thống nhất điều khiển và tự điều khiển trên cơ sở luôn
đảm bảo liên hệ hai chiều bền vững. Đó là yếu tố quyết định cho sự tồn tại
và vận hành quá trình dạy học. Mọi tác động từ giáo viên, bạn bè và các yếu
tố khác trong quá trình dạy học cuối cùng cũng phải hướng tới thúc đẩy sự
vận động, phát triển hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ, nhân cách của học
sinh. Sự vận động trong quá trình tự học của học sinh phải là sự vận động,
phát triển do đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong giữa một bên là nhu
cầu hiểu biết, khối lượng nhiệm vụ học tập ngày càng lớn để đáp ứng đòi hỏi
của bản thân, yêu cầu của cuộc sống với một bên là điều kiện hiện có về
năng lực tự học, vốn tri thức sẵn có… Mâu thuẫn đó liên tục xuất hiện, đòi
hỏi phải liên tục nỗ lực tự giải quyết làm cho tri thức, kĩ năng và toàn bộ
nhân cách luôn vận động, phát triển từ chỗ chưa biết đến biết, từ biết chưa
sâu sắc, toàn diện đến biết sâu sắc, toàn diện hơn.
Trong hình thức dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trò đóng vai trò là
chủ thể, trung tâm, tự mình chiếm lĩnh tri thức, chân lí bằng hành động của
chính mình. Còn thầy là tác nhân, hướng dẫn, tổ chức, dạo diễn cho trò tự
học. Giáo viên có thể điều khiển hoạt động tự học của học sinh trực tiếp trên
lớp hoặc gián tiếp thông qua các bài tập, bài toán, nhiệm vụ nhận thức khi ở
nhà. Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa vai trò của giáo viên và hoạt động

học của học sinh thông qua biểu đồ sau:

Hình 1.4. Mối quan hệ giữa vai trò của GV và hoạt động học của HS
100% 100%
Hoạt động
của GV
Hoạt động
của HS
Tiểu học THCS THPT
0 0
Chức năng, nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong hai hình thức dạy
học: dạy học lấy giáo viên làm trung tâm và dạy học lấy học sinh làm trung
được tóm tắt trong bảng sau:
Dạy học lấy giáo vên làm
trung tâm
Dạy học lấy học sinh làm trung
tâm
Chức
năng
của GV
- Truyền đạt: chiếm hầu hết
thời gian
- Điều khiển: rất ít
- Truyền đạt: Thực hiện gián tiếp
thông qua chức năng điều khiển
- Điều khiển: chhiếm phần lớn
thời gian trên lớp
Nhiệm
vụ trực
tiếp của

GV
- Cung cấp thông tin dạy học
sẵn có
- Luyện tập, kiểm tra
- Hướng dẫn cách tự học cho học
sinh
- Tổ chức thảo luận, tự học
Nhiệm
vụ gián
tiếp của
GV
- Giao câu hỏi, bài tập về nhà
để học sinh ôn tập, củng cố
kiến thức
- Giao câu hỏi, bài tập về nhà để
học sinh ôn tập, củng cố.
- Dùng phiếu học tập, tài liệu tự
học và các phương tiện khác để
tổ chức tự học cho học sinh
Nhiệm
vụ trực
tiếp của
HS
- Nghe giảng, ghi chép
- Tập vận dụng
- Thực hiện việc kiểm tra của
giáo viên
- Tự mình tìm ra kiến thức dưới
sự định hhướng cảu giáo viên
- Tham gia thảo luận

Nhiệm
vụ gián
tiếp của
HS
- Ôn lại bài đã học
- Làm bài tập vận dụng theo
yêu cầu của giáo viên
- Tự học theo kế hoạch và hướng
dẫn để lĩnh hội tri thức cảu bài
học
- Ôn tập, củng cố, vận dụng kiến
thức đã học

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×