Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.19 KB, 52 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong đời sống kinh tế hàng ngày, rủi ro luôn luôn tiềm ẩn, nó được coi là những
bất trắc, những biến cố không có lợi, nằm ngoài sự mong đợi của con người. Rủi ro nhiều
khi mang lại những hậu quả không lường. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng cũng luôn có
thể gặp nhiều loại rủi ro nhưng rủi ro điển hình nhất mà Ngân hàng phải luôn đối mặt là rủi
ro tín dụng- Rủi ro khách hàng không trả được nợ. Rủi ro này không chỉ gây tác động xấu
tới ngân hàng mà ở mức độ trầm trọng hơn ảnh hưởng đến toàn xã hội. Chính vì vậy, trong
giai đoạn hiện nay, nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đang
là mối quan tâm của các nhà quản trị ngân hàng và xã hội.
Qua quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Đà Nẵng nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề này, cùng với sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn, em đã
tìm hiểu và chọn đề tài: “Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng
Công thương Đà Nẵng” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về tín dụng và rủi ro tín dụng
Chương II: Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công
thương Đà Nẵng trong hai năm 2002-2003
Chương III: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân
hàng Công thương Đà Nẵng trong thời gian đến.
Với sự hạn chế về kiến thức, thời gian cũng như kinh nghiệm thực tế nên chuyên
đề không thể tránh khỏi những sai xót, hạn chế nhất định. Do vậy em rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của thầy cô, các anh chị và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo Ths. Nguyễn Đức
Hoà, các cô chú và anh chị phòng tín dụng ở Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đà Nẵng
đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em hoàn thành chuyên đề này.
Đà Nẵng, ngày 08/05/ 2004
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Văn Hoàng
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Ngân hàng Thương mại
Theo luật TCTD đã được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997, có hiệu lực từ năm


1998, ngân hàng là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
dịch vụ tài chính có liên quan. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng, với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng
các dịch vụ thanh toán.
Ngân hàng Thương mại là ngân hàng với các nghiệp vụ truyền thống là huy động vốn
và cho vay ngắn hạn là chủ yếu. Tuy nhiên do thị trường ngày càng phát triển, dần dần các
ngân hàng này đi vào kinh doanh đa năng, làm cả nghiệp vụ huy động vốn, cho vay trung
dài hạn và gần như thực hiện hầu hết các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng .
2. Chức năng của Ngân hàng Thương mại
Ngân hàng Thương mại không được trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh và lưu thông hàng hoá như các doanh nghiệp thông thường, nhưng nó góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội thông qua ba chức năng chính:
- Trung gian tài chính
- Trung gian thanh toán
- Tạo tiền dưới hình thức làm các dịch vụ tiền tệ, tín dụng chứng khoán cho khách
hàng.
3. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại
a) Các hoạt động bên tài sản nợ (huy động vốn)
Đây là hoạt động nhằm tạo nguồn vốn cho ngân hàng. Thực chất đây là hoạt động
nhận nợ, nhận vốn thanh toán bổ sung để tài trợ cho các hoạt động bên tài sản có. Hoạt
động này sẽ quyết định cho hoạt động mở rộng tín dụng và các tài sản đầu tư khác của
ngân hàng. Nó bao gồm nhiều hoạt động khác nhau:
- Hoạt động nhận tiền gửi
- Hoạt động vay ngắn hạn
- Hoạt động huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gởi.
- Hoạt động huy động vốn trên thị trường (nhằm hổ trợ bù đắp khả năng thanh toán
của ngân hàng, mở rộng các khoản mục tín dụng, tăng mức sinh lời cho hoạt động ngân
hàng...)
- Hoạt động vay từ Ngân hàng Trung ương chủ yếu là để bù đắp dự trữ bắt buộc và
lượng tiền mặt thiếu hụt.

- Hoạt động về vốn tự có và các quỹ.
b) Các hoạt động bên tài sản có (sử dụng vốn)
Đây là hoạt động sử dụng nguồn vốn của ngân hàng để cho vay hay đảm bảo cho
các khoản chi trả cho khách hàng bằng cách cấp tín dụng cho họ trong một khoản thời gian
nhất định, bao gồm:
- Hoạt động về ngân quỹ: là quá trình tạo lập các quỹ tiền tệ, hoạt động này chủ
yếu là đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả khi có nhu cầu về rút tiền mặt hay các khoản
vay bằng tiền của ngân hàng.
- Hoạt động cho vay: đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, hoạt động này đem
lại phần lớn lợi nhuận của ngân hàng, tuy nhiên hoạt động này cũng đem lại phần lớn rủi ro
cho ngân hàng.
- Hoạt động đầu tư chứng khoán
- Hoạt động liên quan đến tài sản cố định: hoạt động này mặt dù không sinh lợi cho
ngân hàng nhưng nó là cơ sở để hổ trợ các hoạt động khác hoạt động.
c) Các hoạt động khác:
- Hoạt động về thanh toán chi trả hộ cho khách hàng
- Hoạt động bảo lãnh
- Hoạt động kinh doanh ngoại hối
- Hoạt động kinh doanh chứng khoán
- Hoạt động tư vấn cho khách hàng
- Dịch vụ thanh toán quốc tế...
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG
1. Khái niệm
- Về hình thức: Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa những người đi vay và
cho vay, tín dụng là quan hệ vay mượn kinh tế.
- Về mặt nội dung: Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng
giá trị dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật từ người cho vay sang người đi vay với những
điều kiện thoả thuận: thời hạn hoàn trả lãi và gốc, điều kiện đảm bảo.
Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay.
Đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng. Người cho vay tin tưởng rằng

vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người đi vay cũng tin tưởng vào khả năng phát
huy hiệu quả của vốn vay. Đối với ngân hàng thì đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản
trị tín dụng. Trong thực tế, một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên
cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính
quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
2. Phân loại
Có nhiều cách phân loại tín dụng.
*Nếu căn cứ vào thời hạn thì người ta chia tín dụng làm hai loại :
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản cho vay mà thời hạn không quá 12 tháng nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn như bổ sung ngân quỹ, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến
hạn, bổ sung nhu cầu vốn lưu động hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
Đây là loại tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn trả vốn nhanh, tránh được
các rủi ro về lãi suất, lạm phát cũng như sự bất ổn định trong môi trường kinh tế vĩ mô. Vì
vậy, lãi suất thường là thấp hơn các loại tín dụng khác.
- Tín dụng trung và dài hạn: có thời hạn cho vay trên một năm đến vài chục năm. Nó
thường được sử dụng để phát triển quá trình tái sản xuất theo chiều rộng hoặc theo chiều
sâu, kết quả là tăng mức sản xuất và của cải xã hội. Vì thời hạn dài, hiệu quả đầu tư thường
là dự tính nên loại tín dụng này chứa đựng rủi ro cao.
* Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia quan hệ tín dụng
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được thực hiện
thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá - trong đó người cho vay là người bán chịu
hàng hoá vì đã chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng lượng giá trị hàng hoá bán chịu cho
người mua. Ngược lại, người mua thay vì phải trả tiền ngay, họ được sử dụng số tiền đó
một thời gian nhất định, phụ thuộc vào thời gian bán chịu.
Tuy nhiên, quan hệ tín dụng này cũng có những hạn chế. Vì tín dụng chỉ diễn ra giữa
những nhà sản xuất kinh doanh với nhau nên quy mô hẹp, bị giới hạn bởi khả năng dự trữ
giữa các nhà kinh doanh.
- Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các chủ thể kinh tế khác
trong xã hội- trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
- Tín dụng nhà nước: là quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các chủ thể kinh tế khác

trong xã hội. Nhà nước đi vay bằng cách phát hành các tín phiếu và kỳ phiếu tuỳ tính chất
thiếu hụt của ngân sách.
- Tín dụng doanh nghiệp: là tín dụng đáp ứng quan hệ tín dụng trực tiếp giữa các
doanh nghiệp và công chúng. Quan hệ này thể hiện dưới hai hình thức khác nhau:
+ Quan hệ tín dụng tiêu dùng - tín dụng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng - tổ
chức thương nghiệp lớn cho khách hàng của mình vay bằng cách cho phép họ sử dụng một
số lượng hàng hoá tiêu dùng nhất định mà không phải trả tiền ngay trong một thời gian
nhất định. Họ có thể phát hành thẻ tín dụng hoặc cho khách hàng hưởng một hạn mức tín
dụng để mua hàng.
+ Quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và công chúng với tư cách là người tiết kiệm.
Doanh nghiệp là người có nhu cầu đầu tư, huy động vốn trực tiếp bằng cách phát hành các
trái phiếu trên thị trường vốn. Quan hệ này có một vai trò quan trọng trong việc cung ứng
các khoản vốn trung và dài hạn cho nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất của doanh nghiệp và
nền kinh tế.
- Quan hệ tín dụng hợp tác: quan hệ tín dụng giữa một tổ chức với các thành viên của
chính nó và mang tính chất tương trợ về vốn.
3. Chức năng tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng là nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tín dụng có nhiều chức năng quan trọng:
- Tập trung và phân phối vốn cho nền kinh tế: Đó là sự phân phối lại các nguồn vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi từ người này sang người khác … thông qua hai quá trình huy động
vốn và cho vay theo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
- Chức năng sinh lợi: ngân hàng tạo ra lợi nhuận cho mình đồng thời giải quyết được
nhu cầu vốn cho khách hàng, làm cho đồng vốn có hiệu quả hơn trong nền kinh tế.
- Chức năng phản ánh tổng hợp và kiểm soát hoạt động của nền kinh tế: Thông qua
hoạt động huy động và cho vay mà tín dụng ngân hàng kiểm tra và kiểm soát được hoạt
động của các đơn vị tổ chức có liên quan. Qua việc quản lý tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi
thanh toán, ngân hàng thấy được tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của các
đơn vị cá nhân.Và ngân hàng sẽ kiểm soát mọi việc sử dụng vốn của các đơn vị cá nhân
trước, trong và sau khi cho vay. Mỗi doanh nghiệp, đơn vị cá nhân là một tế bào của nền

kinh tế như vậy tín dụng ngân hàng đã phần nào kiểm soát được mọi hoạt động của nền
kinh tế.
4. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
Hiện nay ở Việt Nam ta có các hình thức tín dụng sau:
- Tín dụng chiết khấu (Cho vay dưới hình thức chiết khấu): là hình thức cho vay ngắn
hạn với mục đích cho đầu tư và cho tiêu dùng. Ngày nay chỉ tài trợ cho vay ngắn hạn, thời
gian tối đa không quá 90 ngày. Với hình thức này khách hàng chuyển nhượng quyền sở
hữu thương phiếu (giấy tờ có giá) chưa đến hạn cho ngân hàng để nhận một khoản tiền nhỏ
hơn mệnh giá.
- Cho vay từng lần: Theo quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành
theo Quyết định số 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn
cần thiết và ký hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức: Theo Quyết định 1627, TCTD và khách hàng xác định và
thoả thuận một hạn mức tín dụng (mức tối đa) duy trì trong một khoảng thời gian xác định.
- Cho vay theo dự án: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. Là hình thức
cho vay trung dài hạn.
- Thuê tài chính (cho vay thuê mua): được thực hiện bởi công ty độc lập riêng của
ngân hàng vì theo nguyên tắc hiện hành ngân hàng không được trực tiếp cho vay thuê mua.
Đó là hình thức cho vay trung dài hạn đặc biệt, đối tượng là tài sản.
- Cho vay đồng tài trợ: là phương thức cho vay mà trong đó nhiều ngân hàng cùng
tham gia cho vay trong một hợp đồng tín dụng. Trong đó một ngân hàng đứng ra làm đầu
mối dàn xếp, phối hợp với những ngân hàng khác.
- Cho vay tiêu dùng: là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của
người tiêu dùng, bao gồm cá nhân và hộ gia đình.
- Cho vay dưới hình thức mua bán nợ: ngân hàng không được phép trực tiếp cho vay
dưới dạng này mà qua công ty riêng (AMC). Hiệu ứng chính của phương thức cho vay này
là để kích thích hoạt động thương mại phát triển. Trong quan hệ thương mại giữa người
mua và người bán có xuất hiện quan hệ nợ nần. Khi người bán dự đoán có khó khăn trong

việc đòi nợ, người bán ký hợp đồng với người mua và đồng thời thoả thuận ký kết hợp
đồng với công ty mua bán nợ. Khi người mua không trả nợ đúng hạn thì cả người bán và
ngân hàng đều có nhiệm vụ liên đới đối với việc đòi nợ.
- Cho vay bằng chữ ký: là một dạng ngân hàng không xuất vốn trực tiếp mà thông
qua chữ ký của mình, ngân hàng đã cung cấp uy tín của mình cho khách hàng để khách
hàng đi vay ở một tổ chức khác. m
III. RỦI RO TÍN DỤNG
1. Quan niệm về rủi ro
Rủi ro là những biến cố không bình thường, xảy ra ngoài mong đợi và để lại những
hậu quả xấu.
Rủi ro trong kinh doanh là những biến cố, những bất trắc xảy ra ngoài mong đợi làm
cho lợi nhuận và giá trị tài sản đầu tư bị giảm thấp.
Nếu ở góc độ đầu tư, rủi ro có hai loại: Rủi ro động và rủi ro tĩnh
+Rủi ro tĩnh xảy ra ở phạm vi hẹp, thường tạo ra sự huỷ hoại về mặt vật chất hoặc
biến mất quyền sở hữu và xuất hiện theo xu hướng chu kỳ. Ví dụ: tai nạn, ăn cắp.....
+ Rủi ro động xảy ra ở phạm vi rộng và tạo ra sự hao hụt trong giá trị của tài sản và
sản phẩm, có tính chất bất thường. Ví dụ: lạm phát, chính sách nhà nước ảnh hưởng.....
Mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý thực có của đơn vị. Không thể
coi rủi ro là hoạt động bất khả kháng, xem rủi ro là điều không thể tránh khỏi, để nó vận
động. Rủi ro có nguyên nhân khách quan, chủ quan nhưng dù là rủi ro nào đều có khả năng
phòng ngừa và hạn chế với những phương pháp có thể.
2. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại
a) Khái niệm:
Rủi ro ngân hàng là những biến cố, bất trắc xảy ra ngoài mong đợi làm lợi nhuận, giá
trị tài sản của ngân hàng bị giảm sút.
b) Các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
b1. Rủi ro cho vay : Là rủi ro mà ngân hàng khi cho vay không thu hồi được nợ gốc
và lãi đầy đủ, đúng hạn. Ví dụ nợ quá hạn là rủi ro cho vay do không thanh toán đúng hạn.
Rủi ro cho vay đang là vấn đề quan tâm của chính phủ và ngân hàng.
b2. Rủi ro trong đầu tư và đặc biệt là rủi ro trong đầu tư chứng khoán biểu hiện mua

chứng khoán mà giá trị lớn hơn giá trị tương lai của nó.
b3. Rủi ro nguồn vốn:
+ Rủi ro đọng vốn (Rủi ro "thừa vốn"): Huy động được nhưng cho vay và đầu tư
không hết làm lợi nhuận giảm
+ Rủi ro thiếu vốn khả dụng (rủi ro "thiếu vốn") xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng
được các nhu cầu thanh toán của khách hàng. Rủi ro này xuất phát từ chức năng chuyển
hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn của ngân hàng - thông thường các kỳ hạn sử
dụng vốn dài hơn kỳ hạn các nguồn vốn.
b4. Rủi ro mất khả năng thanh khoản biểu hiện trầm trọng nhất là rủi ro mất khả năng
chi trả tiền gửi, là hậu quả của mọi rủi ro.
b5. Rủi ro về lãi suất do sự biến động không cùng chiều giữa lãi suất huy động và lãi
suất cho vay làm thay đổi tiền lãi và thu nhập của ngân hàng .
b6. Rủi ro về tỉ giá: Tỉ giá luôn biến động. Việc ngân hàng nắm giữ chứng khoán, các
khoản vay nợ ngoại tệ hoặc tiền mặt ngoại tệ sẽ bị rủi ro khi tỉ giá thay đổi - giá trị tài sản
cũng như thu nhập của ngân hàng từ các ngoại tệ bị đe doạ.
b7. Rủi ro do lạm phát: ảnh hưởng rộng và ngân hàng là người chịu rủi ro nhiều hơn
vì đặc điểm tài sản của ngân hàng là tiền, vật tư hàng hoá của ngân hàng đều là tiền.
b8. Rủi ro thuần tuý: trộm cướp, hoả hoạn
c) Nguyên nhân gây ra rủi ro
- Thông tin không cân xứng dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức trên thị
trường tài chính
- Do bản thân tính chất của cơ chế thị trường - sự điều khiển của "bàn tay vô hình",
nếu cạnh tranh gay gắt thì chi phí lớn làm giảm lợi nhuận
- Do chính sách điều tiết của Nhà nước, Ngân hàng Trung ương
- Do những nguyên nhân bất khả kháng
- Do ảnh hưởng của những biến động lớn về kinh tế, chính trị trên thế giới
3. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro chủ yếu của ngân hàng. Khi nói đến rủi ro tín dụng, thông
thường người ta nghĩ ngay đến hai loại rủi ro: rủi ro không thu hồi được nợ và rủi ro do bị
ứ đọng vốn. Nhưng phổ biến hơn cả, chiếm tỉ lệ chủ yếu vẫn là rủi ro khách hàng không trả

được nợ.
Rủi ro không thu hồi được nợ là rủi ro của ngân hàng do không thu hồi nợ đúng hạn
hoặc không thu hồi được nợ đầy đủ sau khi cho khách hàng vay vốn. Hậu quả dẫn đến
ngân hàng mất khả năng thanh toán hoặc mất vốn, tốn nhiều chi phí để thu hồi vốn vay, uy
tín giảm. Biểu hiện của rủi ro này là những khoản vay có vấn đề.
Nguyên nhân:
* Nhóm nhân tố thuộc môi trường: chính trị, kinh tế, xã hội, tự nhiên. Ví dụ: môi
trường chính trị bất ổn, kinh doanh của các doanh nghiệp không ổn định, giảm sút nên
ngân hàng khó thu nợ.
* Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng:
+Do đạo đức khách hàng, do lừa đảo
+ Do khả năng tài chính của người đi vay suy yếu có thể là do sự thay đổi của môi
trường kinh doanh hoặc sai lầm trong phương án kinh doanh, tổ chức kinh doanh, lựa chọn
của lãnh đạo.
* Nhóm nhân tố thuộc về ngân hàng
- Đạo đức của nhân viên ngân hàng
- Trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm
- Chất lượng của công tác phân tích tín dụng
- Cách thức theo dõi nợ, thu nợ
- Phương tiện kỹ thuật, công nghệ, thông tin
* Chỉ tiêu đo lường rủi ro
Nợ quá hạn bình quân
- Tỉ lệ nợ quá hạn bq = x 100%
Tổng dư nợ bình quân
Tỉ lệ này cho biết trong một trăm đồng dư nợ có bao nhiêu đồng nợ quá hạn.
Thông thường nếu tỉ lệ này < 3% thì tốt
Nợ khó đòi bình quân
- Tỉ lệ nợ khó đòi bq = x 100%
Nợ quá hạn bình quân
Tỉ lệ này phản ảnh trong 100 đồng nợ quá hạn có bao nhiêu đồng nợ khó đòi. Nếu tỉ

lệ này càng cao thì khả năng thu hồi nợ quá hạn càng thấp và ngược lại.
4 . Hậu quả của rủi ro - Các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng
a) Hậu quả
Rủi ro trong kinh doanh tín dụng ảnh hưởng lớn đến ngân hàng. Khi một khoản tín
dụng lớn gặp phải rủi ro có thể làm cho lợi nhuận ngân hàng giảm xuống, có thể đi đến lỗ,
mất khả năng chi trả. Lúc đó lòng tin khách hàng vào ngân hàng giảm, ảnh hưởng lớn các
yếu tố của quá trình kinh doanh như rò rỉ chất xám, mối liên kết trong kinh doanh với các
ngân hàng khác bị thu hẹp....., đảo lộn thành quả hoạt động nhiều năm của một ngân hàng.
Nếu rủi ro ở mức độ cao ngân hàng có nguy cơ bị phá sản. Rủi ro tỉ lệ nghịch với hiệu quả
hoạt động của ngân hàng. Do đó rủi ro là vấn đề sống còn của ngân hàng.
Đối với nền kinh tế, hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính xã hội cao, vì vậy
khi một ngân hàng suy yếu dễ dàng tạo ra phản ứng dây chuyền đối với các ngân hàng và
các định chế tài chính khác, dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, kìm
hãm sự phát triển hay dẫn đến sự suy thoái kinh tế.
Tóm lại, nguy cơ và mức độ thiệt hại do rủi ro ngân hàng gây ra thật là to lớn.
Không những vậy rủi ro ngân hàng lại mang tính hệ thống. Do đó đảm bảo an toàn và
phòng ngừa rủi ro là vấn đề vô cùng trọng đại, không chỉ là công việc hàng đầu của mỗi
ngân hàng riêng lẻ mà là của toàn hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
b) Các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng
b1.Các biện pháp kiểm soát rủi ro, phòng ngừa
Trước khi cho vay, phải xem xét, phân tích kĩ lưỡng mới ra quyết định cho vay, như
vậy mới không có quyết định sai lầm.
Sau khi giải ngân phải giám sát kĩ, chặt chẽ các khoản nợ. Khi phát hiện các khoản
vay có dấu hiệu bị " đe doạ" không được hoàn trả, đối với ngân hàng điều tốt nhất là tìm
mọi biện pháp điều chỉnh, kiểm soát để bảo vệ lợi ích của mình.
- Biện pháp cố vấn: Ngân hàng đưa ra các giải pháp có tính chất tư vấn về nhiều chủ
đề như: bán hàng, sản xuất..... nếu ngân hàng thấy rằng cho dù có vấn đề về cơ bản khách
hàng vẫn đang hoạt động tốt.
- Biện pháp tăng thêm vốn: ngân hàng đề nghị khách hàng tăng thêm vốn bằng việc
bán thêm cổ phiếu

- Biện pháp sát nhập: ngân hàng có thể khuyến khích bên vay hợp nhất với các tổ
chức khác
- Biện pháp giảm bớt kế hoạch sản xuất kinh doanh nếu kế hoạch mở rộng đang được
trù tính, ngân hàng có thể yêu cầu loại bỏ chúng cho đến khi khách hàng cải thiện được
tình hình tài chính
- Biện pháp đẩy mạnh thu hồi các khoản thu chậm trả
- Biện pháp kiểm soát hàng tồn kho: bằng cách giảm giá bán hoặc tăng mức chiết
khấu, tăng doanh số bán. Việc này sẽ đặt khách hàng vào thế có thể trả nợ.
- Biện pháp gia tăng vật bảo đảm hoặc bảo lãnh
- Biện pháp kết cấu lại khoản nợ bằng cách kéo dài kỳ hạn từ đó rút bớt mức trả nợ
hàng tháng.
- Biện pháp gia tăng khối lượng khoản vay: khi ngân hàng tin tưởng chắc rằng khách
hàng có thể được đặt vào đường phục hồi.
b2. Các biện pháp tài trợ rủi ro
Sau khi rủi ro xảy ra, để bù đắp thiệt hại, giảm thấp thiệt hại, ngân hàng tài trợ bằng
nguồn quỹ dự phòng hoặc từ nguồn bảo hiểm tiền gửi. Như vậy trước đó, ngân hàng phải
trích lập quỹ dự phòng và tham gia thực hiện bảo hiểm tiền gửi.
Người ta ví kinh doanh và rủi ro như trên hai bàn cân trên một chiếc cân. Nếu kinh
doanh giỏi mà phòng ngừa rủi ro tồi thì cuối cùng kinh doanh cũng chẳng có hiệu quả.
Ngược lại, nếu quản lý rủi ro tốt nhưng kinh doanh tồi thì hiệu quả cũng tương tự. Ở các
nước phát triển, họ thiết lập một hệ thống pháp lý khá đầy đủ, mạng lưới thanh tra, kiểm
soát hùng hậu; thiết lập hàng loạt quỹ: bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm tín dụng, phòng ngừa
rủi ro và các loại hình bảo hiểm khác để giúp phòng ngừa rủi ro hoạt động ngân hàng.
Đồng thời, bản thân mỗi ngân hàng họ đều xác định, phải tự mình phòng chống rủi ro là
chính.
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NHCT ĐÀ
NẴNG:
1. Quá trình thành lập NHCTVN chi nhánh TP Đà Nẵng:
Quá trình thành lập:
NHCTVN chi nhánh TP Đà Nẵng được tách ra từ chi nhánh NHCT tỉnh Quảng

Nam Đà Nẵng, chính thức hoạt động từ 01/01/1997 5 theo Quyết định số 14/ NHCT- QĐ
ngày 17/12/1996 của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, trên cơ sở chia tách địa giới hành
chính của Nhà nước thành hai đơn vị là tỉnh Quảng Nam và TP Đà Nẵng. Chi nhánh
NHCT Đà Nẵng là đơn vị thành viên của NHCT Việt Nam. Tiền thân của NHCT Đà Nẵng
sau 1975 là NHNN TP Đà Nẵng. Từ tháng 07/1988 đến nay, sau khi hệ thống NHVN
chuyển từ một cấp quản lý sang hai cấp (Hệ thống NHNN và Hệ thống NHTM) thì đổi
thành NHCT tỉnh QNĐN (nay là NHCT Đà Nẵng).
Quá trình hoạt động kinh doanh cho đến nay đã phát triển lớn mạnh về nhiều mặt,
số lượng khách hàng giao dịch ngày càng tăng, doanh số huy động vốn, cho vay ngày càng
lớn, chất lượng hoạt động kinh doanh ngày càng được nâng lên và đã mở ra nhiều hình
thức huy động, cho vay phong phú, đa dạng các dịch vụ ngân hàng để đáp ứng phục vụ
ngày càng tốt hơn cho quá trình phát triển kinh tế và hoạt động kinh doanh. Từ những
thành quả nổi bật đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng ba.
Hiện nay cùng với sự phát triển chung, chi nhánh NHCT Đà Nẵng từng bước đổi
mới, xây dựng phong cách giao dịch của người cán bộ NHCT, đổi mới hiện đại hoá công
nghệ ngân hàng chuẩn bị các điều kiện để hội nhập.
2. Về cơ cấu tổ chức:
Tổ chức bộ máy quản lý tốt sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh của Chi nhánh. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Chi nhánh được thể hiện
qua sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA CHI NHÁNH NHCT ĐÀ
NẴNG


3. Nhiệm vụ của Ban Giám đốc và các phòng ban:
- Ban Giám đốc Chi nhánh do NHCT Việt Nam quyết định bổ nhiệm theo Quy chế
bổ nhiệm và bổ nhiệm lại của Nhà nước.
* Giám đốc Chi nhánh chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc NHCT Việt Nam,
điều hành chung toàn bộ hoạt động kinh doanh của Chi nhánh từ Hội sở chính đến các chi
nhánh trực thuộc Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn. Trực tiếp chỉ đạo các phòng chức năng Cân

đối tổng hợp, Tổ chức cán bộ, Kiểm tra nội bộ, Phòng giao dịch Hải Châu, Phòng thông tin
điện toán.
* Các Phó giám đốc: Thay mặt giám đốc, chỉ đạo điều hành hoạt động về mặt kinh
doanh (Phòng Tín dụng), các phòng chuyên đề Tiền tệ Kho quỹ, Quản lý tiền gửi dân cư,
Hành chính, Kế toán tài chính. Chịu trách nhiệm cá nhân trước giám đốc và Pháp luật về
những công việc do mình giải quyết, chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của Chi nhánh
khi được Giám đốc uỷ quyền.
- Các phòng chức năng:
1> Phòng kinh doanh đối ngoại: Thực hiện chức năng kinh doanh trên các lĩnh vực
Ngoại hối như mở L/C, cho vay, thu đổi ngoại tệ, chuyển tiền nhanh và các dịch vụ khác...
2> Phòng quản lý tiền gửi dân cư: Thực hiện nghiệp vụ huy động vốn trong dân cư
như Tiết kiệm, Trái phiếu, các dịch vụ khác...
3> Phòng Tín dụng: Thực hiện chức năng kinh doanh như cho vay cá thể, các tổ
chức kinh tế Quốc doanh, ngoài Quốc doanh.
4> Phòng cân đối tổng hợp: Tổng hợp số liệu báo cáo thống kê, cân đối vốn kinh
doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh, tiếp thị, khai thác thị trường, phát triển các dịch
vụ ngân hàng.
5> Phòng kế toán tài chính: Thực hiện hạch toán kế toán theo chế độ quy định và
các dịch vụ khác...
6> Phòng tổ chức cán bộ: Thực hiện các chính sách chế độ và các quyền lợi cho
người lao động, tham mưu cho ban Giám đốc về quy hoạch, đề bạt bổ nhiệm, đào tạo bồi
dưỡng, điều động cán bộ, tổ chức bộ máy mạng lưới của Chi nhánh.
7> Phòng Tiền tệ Kho quỹ: Thực hiện các nghiệp vụ về kho quỹ ngân hàng, thu chi
tiền cho khách hàng.
8> Phòng kiểm tra nội bộ: Thực hiện chức năng kiểm tra kiểm soát các hoạt động
của nội bộ NHCT.
9> Phòng thông tin Điện toán: Cập nhật lưu trữ số liệu của chi nhánh, triển khai các
chương trình điện tử quản lý trên mạng của hệ thống và các chương trình ứng dụng có liên
quan đến khách hàng.
10> Phòng hành chính: Thực hiện chức năng hổ trợ hoạt động kinh doanh của Chi

nhánh, mua sắm dụng cụ, trang thiết bị, sắp xếp, tổ chức hội họp, hội nghị, tiếp khách,
quan hệ đối nội, đối ngoại, quản lý, bảo vệ tài sản của ngân hàng...
11> Phòng giao dich Hải Châu: Là đơn vị phụ thuộc, thực hiện chức năng kinh
doanh của ngân hàng như cho vay, thu tiền gửi, và các dịch vụ khác... trong phạm vi uỷ
quyền của Giám đốc Chi nhánh.
12> Các chi nhánh trực thuộc: Thực hiện chức năng kinh doanh của một ngân
hàng, hạch toán phụ thuộc.
II. MẠNG LƯỚI HOẠT ĐỘNG: gồm có:
- Hội sở chính tại 172 Nguyễn Văn Linh Quận Thanh Khê Đà Nẵng
- Hai Chi nhánh trực thuộc là NHCT Liên Chiểu tại Quận Liên Chiểu Đà Nẵng,
NHCT Ngũ Hành Sơn đóng tại Quận Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng.
- Một phòng giao dịch là Phòng giao dịch Hải Châu tại 36 Trần Quốc Toản Đà
Nẵng.
Ngoài ra còn có Các Tổ công tác làm nghiệp vụ cho vay huy động vốn, tiết kiệm,
chuyển tiền nằm rải rác trên địa bàn TP.
III. TÌNH HÌNH NHÂN SỰ:
- Số lượng nhân viên : 300
+ Trình độ chuyên môn:
. Sau đại học : 07
. Đại học : 200
. Cao đẳng, cao cấp NH : 03
. Trung học : 50
IV. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TÍN
DỤNG CỦA CHI NHÁNH TRONG HAI NĂM (2002-2003)
Trong những năm qua cùng với sự đổi mới của hệ thống NHCT Việt Nam, chi nhánh
NHCT Đà Nẵng đã có một quá trình phấn đấu và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
1. Tình hình nguồn vốn, huy động vốn.
a) Tình hình nguồn vốn.
Như chúng ta đã biết, trong bất cứ lĩnh vực kinh doanh nào của bất kỳ một doanh
nghiệp nào, nguồn vốn luôn là yếu tố quyết định quy mô hoạt động, doanh thu và hiệu quả

sử dụng vốn. Đối với ngân hàng cũng vậy, nguồn vốn là yếu tố quyết định đến quy mô
hoạt động của ngân hàng, quyết định đầu ra của mọi lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Tùy thuộc
vào từng thời điểm cụ thể, từng ngân hàng mà nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn có khác nhau.
Nguồn vốn, cơ cấu nguồn vốn của Chi nhánh NHCT Đà Nẵng được thể hiện qua
bảng sau :
Bảng 1 : BẢNG CƠ CẤU NGUỒN VỐN
Đvt: triệu đồng
Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
ST TT% ST TT% ST TL%
1. Vốn huy động
2. Thanh toán vốn
3. Tài sản nợ khác
994.377
497.039
190.059
59,14
29,56
11,30
1.273.011
452.305
260.506
64,11
22,77
13,12
278.634
-44.734
70.447
28,02
-9,00
37,07

Tổng 1.681.475 100 1.985.822 100 304.347 18,10
Qua bảng trên, ta thấy nguồn vốn của ngân hàng đã có sự biến động lớn về cả số
tuyệt đối lẫn số tương đối. Nếu năm 2002, nguồn vốn của ngân hàng là 1.681.475 triệu
đồng, thì đến cuối năm 2003 nguồn vốn đã đạt 1.985.822 triệu đồng. Về tuyệt đối, nguồn
vốn ngân hàng đã tăng lên một lượng là 304.347 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng
18,10% so với năm 2002. Điều này đã chứng tỏ quy mô hoạt động của ngân hàng ngày
càng được mở rộng, dấu hiệu của sự phát triển lớn mạnh hơn trong tương lai .
Nguồn vốn của ngân hàng được hình thành từ 3 nguồn, đó là vốn huy động, thanh
toán vốn và tài sản nợ khác. Với 994.377 triệu đồng năm 2002, chiếm 59,14% trong tổng
nguồn vốn, vốn huy động là nguồn chiếm tỷ trọng cao nhất tổng nguồn vốn hoạt động của
Chi nhánh - đây là nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của mỗi ngân hàng. Năm 2003,
Nguồn này tăng lên đến 1.273.011 triệu đồng chiếm 64,11% trong tổng nguồn. Với tỉ trọng
cao và ngày càng tăng như vậy chứng tỏ ngân hàng ngày càng trở nên độc lập hơn, tự chủ
hơn, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn vốn từ Trung Ương. Vốn huy động qua hai năm về
tuyệt đối đã tăng một giá trị là 278.634 triệu đồng tức tăng 28,02% so với năm 2002. Đây
là một điều kiện để mở rộng cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của các đơn vị, cá nhân mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, từ đó tăng lợi nhuận cho
ngân hàng.
Tài sản nợ khác là nguồn chiếm tỷ trọng thấp nhất nhưng lại có tốc độ tăng cao nhất:
Năm 2002 tài sản nợ khác đạt 190.059 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 11,30% tổng nguồn;
Năm 2003 nguồn này đạt 260.506 triệu đồng chiếm tỷ trọng 13,12% so với tổng nguồn.
Như vậy, so với năm 2002 nguồn này đã tăng với tốc độ 37,07%.
Năm 2002, thanh toán vốn có giá trị 497.039 triệu đồng chiếm 29,56% tổng nguồn;
đến cuối năm 2003, thanh toán vốn còn lại 452.305 triệu đồng tương ứng 22,77% so với
tổng nguồn. Như vậy, thanh toán vốn đã giảm 44.734 triệu đồng tức đã giảm 9,00%. Thanh
toán vốn bao gồm hai bộ phận: thanh toán với TCTD khác và tài khoản điều chuyển vốn.
Tóm lại, nguồn vốn ngân hàng ngày càng tăng là một dấu hiệu đáng mừng, thể hiện
được sự lớn mạnh của ngân hàng cả về thế và lực. Do đó cần tiếp tục phát huy hơn nữa.
b) Tình hình huy động vốn.
Việc thu hút vốn đầu vào đối với các ngân hàng là rất quan trọng. Các ngân hàng đã

tích cực phát huy những nguồn tiền gửi có lãi suất thấp để giảm nhẹ chi phí trả lãi một
cách hợp lý để giữ và thu hút được khách hàng. Trong năm qua, nguồn vốn huy động tăng
và chiếm 64,11% trên tổng nguồn, đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô đầu tư tín dụng. Để
thấy rõ nguồn vốn huy động trong năm qua, chúng ta xem xét nguồn vốn này qua bảng sau:
Bảng 2 : TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN
Đvt: Triệu đồng
Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
ST TT% ST TT% ST TL%
1. Tiền gửi doanh nghiệp 485.790 48,85 592.664 46,56 106.874 22,00
2. Tiền gửi dân cư 481.615 48,43 649.949 51,06 168.334 34,95
- Tiền gửi tiết kiệm 463.178 46,58 631.696 49,62 168.518 36,38
- Phát hành công cụ nợ 18.437 1,85 18.253 1,44 -184 -0,10
3.Tiền gửi của các TCTD 18.313 1,84 21.921 1,72 3.608 19,70
4. Vay TCTD 8.659 0,88 8.477 0,66 -182 -2,1
Tổng 994.377 100 1.273.011 100 278.634 28,02
Qua hai năm, doanh số huy động vốn tăng cao từ 994.377 triệu đồng lên 1.273.011
triệu đồng, tương ứng với mức tăng 278.634 triệu đồng, tức tăng 28,02%. Sự gia tăng này
có sự đóng góp đáng kể của những bộ phận sau:
Tiền gởi của các doanh nghiệp chủ yếu là tiền gởi không kỳ hạn dùng để thanh toán
giữa các doanh nghiệp với nhau thông qua ngân hàng. Thông qua đó ngân hàng thực hiện
việc kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp, đảm bảo an toàn vốn cho vay. Trong năm
2002 tiền gởi doanh nghiệp là 485.790 triệu đồng, chiếm 48,85% tổng nguồn. Năm 2003
nguồn này đạt 592.664 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 46,56%. Như vậy, so với 2002 thì nguồn
này tăng 106.874 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng là 22,00% góp phần "hạ giá thành"
sản phẩm tín dụng, tăng khả năng cạnh tranh về mặt lãi suất. Có được kết quả như vậy là
do ngân hàng đã xác định đây là nguồn vốn quan trọng với lãi suất huy động thấp nhất, do
đó ngân hàng ngày càng có những chính sách thu hút và giữ khách hàng- ưu tiên khuyến
khích khách hàng tham gia thanh toán qua ngân hàng, thực hiện chính sách ưu tiên thanh
toán tín dụng đối với các đơn vị có tiền gởi thường xuyên tại ngân hàng. Tuy nhiên cũng
cần thấy rằng, mặc dù trong năm vừa qua nguồn này đã có tốc độ tăng rất cao (22,00%)

nhưng tỷ trọng so với tổng nguồn huy động thì lại giảm 2,29%. Do vậy, trong thời gian tới
ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện công tác thanh toán không dùng tiền mặt, đưa các sản
phẩm thanh toán mới vào phục vụ.
Tiền gởi dân cư tăng cả về tổng số tiền gửi lẫn tỷ trọng so với tổng nguồn huy động.
Nếu năm 2002, tiền gởi dân cư đạt 481.615 triệu đồng chiếm 48,43% so với tổng nguồn
huy động thì đến năm 2003 đã lên đến 649.949 triệu đồng, chiếm 51,06% tổng nguồn huy
động, tăng 34,95% tương ứng với mức tăng 168.334 triệu đồng so với năm 2002. Việc tiền
gởi dân cư tăng là do tiền gởi tiết kiệm (chiếm trên 96,00% tiền gửi dân cư) tăng lên. Cụ
thể: Năm 2002 tiền gửi tiết kiệm là 463.178 triệu đồng, chiếm 46,58% tổng nguồn huy
động; Năm 2003 nguồn này đạt 631.696 triệu đồng chiếm 49,62% tổng nguồn huy động,
tăng 168.518 triệu đồng, tương ứng với tốc độ 36,38% so với năm 2002.
Chiếm tỉ trọng thấp nhất trong tổng nguồn vốn huy động là nguồn tiền gửi của các
TCTD và vay của các TCTD. Với nguồn tiền gửi của các TCTD thì tỷ trọng so với tổng
nguồn không tăng nhưng về lượng tuyệt đối thì lại tăng 3.608 triệu đồng. Còn đối với
nguồn vay của các TCTD xét cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối đều giảm. Đây là nguồn
không tốt bởi nó thể hiện sự phụ thuộc của ngân hàng vào các ngân hàng và TCTD khác.
Do đó, mặc dù mức giảm không cao nhưng nó cũng đã thể hiện được sự tự lực, sự độc lập
của ngân hàng.
Như vậy, bằng nhiều hình thức huy động vốn với kỳ hạn và lãi suất linh hoạt, ngân
hàng đã đưa nguồn vốn huy động các loại tăng trưởng. Nhờ chủ động trong công tác huy
động vốn, Chi nhánh NHCT thành phố Đà Nẵng đã đáp ứng một khối lượng lớn vốn cho
các thành phần kinh te, phục vụ cho nhu cầu tổ chức sản xuất kinh doanh, ngày càng khẳng
định vị thế của mình trên địa bàn thành phố.
2. Tình hình sử dụng nguồn vốn
Với tình hình nguồn vốn như thế, Chi nhánh NHCT Đà Nẵng đã sử dụng như sau:
Bảng 3 TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN
Đvt : triệu đồng
Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
ST TT% ST TT% ST TL%
1. Dự trữ và thanh toán

2. Cho vay
3. Các khoản đầu tư khác
4. Thanh toán vốn
5. Tài sản có khác
61.344
1.320.500
102.396
57.793
139.442
3,65
78,53
6,09
3,44
8,29
56.437
1.450.700
134.139
72.230
272.316
2,84
73,05
6,76
3,64
13,71
-4.907
130.200
31.743
14.437
132.874
-8,00

9,86
31,00
24,98
95,29
Tổng
1.681.475 100 1.985.822 100 304.347 18,10
Ngân hàng cần phải luôn có đủ tiền mặt để thanh toán cho người gửi tiền rút ra bất cứ
lúc nào nên phải quản lý tiền mặt ở trạng thái lỏng. Thực hiện vấn đề này, năm 2002, dự
trữ và thanh toán đạt 61.344 triệu đồng chiếm 3,65% vốn được sử dụng, năm 2003 là
56.437 triệu đồng, giảm 8,00% tức là 4.907 triệu đồng so với năm 2002. Ngân quỹ tăng
đảm bảo khả năng thanh toán chi trả, đáp ứng kịp thời về tiền mặt cho khách hàng, an toàn
kho quỹ, góp phần cân đối thu chi tiền mặt trên địa bàn. Ngoài ra, ngân quỹ tăng phần nào
cũng khẳng định quy mô hoạt động của ngân hàng được mở rộng. Tuy nhiên, nếu ngân quỹ
tồn quá nhiều là không tốt, gây ứ đọng vốn dẫn đến kinh doanh không hiệu quả, có thể làm
lợi nhuận giảm. Về điểm này, Chi nhánh đã thực hiện tốt khi đã hạn chế thấp nhất tình
trạng ứ đọng vốn.
Về khoản mục cho vay
Cho vay là nghiệp vụ sinh lời nhất và cũng là nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng. Do
đó, ngân hàng đã thực hiện nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến quy trình cho vay, giao
dịch “một cửa” nhanh gọn, năng động, hiệu quả, đẩy mạnh chính sách tiếp thị, tuyên
truyền. Đẩy mạnh mở rộng và phát triển nhanh các loại hình cho vay theo phương châm
tăng trưởng dư nợ đi đôi với hiệu quả và an toàn lành mạnh tài chính. Với hướng hoạt
động như vậy, đến cuối năm 2003, ngân hàng đã đưa cho vay tăng 130.200 triệu đồng
tương ứng với tốc độ tăng 9,86%. Năm 2002, cho vay của NHCT Đà Nẵng là 1.320.500
triệu đồng chiếm tỷ trọng 78,53%. Cuối năm 2003, con số này tăng đến 1.450.700 triệu
đồng tuy nhiên tỷ trọng lại giảm xuống còn 73,05% tổng nguồn sử dụng. Điều này cho
thấy nguồn vốn huy động tăng nhưng đầu tư cho vay không tăng tương xứng với nó nên
trong thời gian tới, ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh hoạt động cho vay hơn nữa để nâng
cao hiệu quả vốn huy động.
Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt của các NHTM trên địa bàn thì đây là một kết

quả không tồi. Mặt khác, nhận thức được vấn đề này, ngân hàng cũng đã có những chính
sách định hướng phát triển cụ thể. Nếu trước đây, hầu hết các NHTM nói chung và Chi
nhánh nói riêng đều quan tâm nhiều đến các khách hàng là các DNNN thì trong tương lai
đối tượng được ưu tiên của Chi nhánh sẽ là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, bởi vì đây
là những đối tượng có tiềm năng rất lớn, cùng với những chính sách quan tâm của Nhà
nước sẽ là điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển. Hơn nữa, khi nền kinh
Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới thì quá trình tư nhân hoá sẽ diễn ra
càng nhanh, những lĩnh vực trước đây của Nhà nước bây giờ sẽ do tư nhân quản lý. Lúc
đó, nhu cầu vốn của khu vực này là rất lớn, và sẽ là cơ hội cho Chi nhánh. Ngoài ra, còn
đẩy mạnh cho vay các đối tượng có nguồn thu nhập ổn định như cán bộ công nhân viên
chức (tăng mức dư nợ tối đa từ 10 triệu lên 20 triệu) vì đây là những đối tượng có rủi ro rất
thấp.
Cùng với sự tăng lên của tổng nguồn, tài sản có khác tăng lên với tốc độ 95,29% từ
139.442 triệu đồng (năm 2002) lên 272.316 triệu đồng (năm 2003), đồng thời tỉ trọng cũng
tăng từ 8,29% năm 2002 lên 13,71% năm 2003. Tài sản có khác bao gồm tài sản cố định,
lãi cộng dồn dự thu, các khoản phải thu, đầu tư vào các thiết bị cho thuê tài chính...
Các khoản đầu tư khác như đầu tư vào tín phiếu NHNN, đầu tư vào chứng khoán
TCTD khác, tiền gửi tại các TCTD trong nước, cho vay các TCTD... cũng tăng từ 6,09%
lên 6,76%, đạt tốc độ 31%.
3. Phân tích kết quả kinh doanh
Kết quả kinh doanh là chênh lệch giữa chi phí đã bỏ ra và kết quả thu về sau một
chu kỳ kinh doanh nhất định thường là một năm. Chi phí chủ yếu là số tiền lãi phải trả cho
hoạt động huy động vốn từ các thành phần kinh tế, dân cư. Kết quả thu về chính là lãi thu
từ cho vay là chính. Kết quả kinh doanh tín dụng của Chi nhánh NHCT Đà Nẵng qua hai
năm thể hiện qua bảng sau:
Bảng 4 BẢNG KẾT QUẢ TÀI CHÍNH
Đvt: triệu đồng
Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch
ST TT% ST TT% ST TL%
1.Tổng thu nhập 75.825 100 82.913 100 7.088 9,35

- Thu lãi 69.605 91,80 75.688 91,29 6.083 8,74
+ Thu lãi cho vay 68.582 90,45 74.068 89,33 5.486 8,00
+ Thu lãi tiền gửi 1.023 1,35 1.620 1,96 597 58,36
- Thu dịch vụ ngân hàng 5.821 7,68 6.752 8,14 931 16,00
- Thu lãi ng.vụ KD khác 0 0 0 0 0 0
- Thu khác 399 0,52 473 0,57 74 18,55
2. Tổng chi phí 56.960 100 62.916 100 4.956 8,55
- Trả lãi 45.768 78,96 51.571 81,97 5.803 12,68
+ Trả lãi tiền gởi 45.507 78,51 51.240 81,44 5.733 12,60
+ Trả lãi tiền vay 261 0,45 331 0,53 71 27,20
- Chi dịch vụ ngân hàng 1.829 3,15 2.009 3,19 180 9,84
- Chi về TSCĐ, q.lý đ.tạo 3.937 6,80 4.500 7,15 563 14,30
- Chi nộp thuế, lệ phí 135 0,23 159 0,25 24 18,00
- Chi nghiệp vụ KD khác 1.540 2,66 1.722 2,74 182 11,82
- Chi khác 3.751 8,20 2.955 4,70 -1.796 37,80
3. Lợi nhuận 18.865 19.997 2.132 11,93
Nhìn vào bảng trên ta thấy, kết quả kinh doanh của ngân hàng đã đạt được những
thành tựu rất lớn, So với năm 2002, năm 2003 đa số các khoản đều tăng trưởng, trong đó
tốc độ tăng trưởng của tổng thu nhập cao hơn so với tốc đô tăng trưởng của tổng chi phí.
Cụ thể:
Tổng thu nhập năm 2003 là 82.913 triệu đồng tăng 7.088 triệu đồng tương ứng tốc
độ 9,35% so với năm 2002. Chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu nhập là thu lãi với
91,80 % tổng thu nhập năm 2002, và 91,29% tổng thu nhập năm 2003, so với năm 2002
nguồn này tăng 6.083 triệu đồng tương ứng với tốc độ 8,74%. Thu nhập tăng là một dấu
hiệu tốt của ngân hàng, đó là kết quả của việc tích cực mở rộng cho vay và triệt để thu nợ
của các cán bộ tín dụng.
Tổng chi phí năm 2003 là 62.916 triệu đồng tăng 4.956 triệu đồng tương ứng tốc độ
8,55% so với năm 2002. Việc tổng chi phí tăng phần nào đã thể hiện được quy mô hoạt
động của Chi nhánh đã được mở rộng. Cũng như thu nhập, chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng chi phí là chi phí trả lãi với 78,96 % tổng chi phí năm 2002, và 81,97% tổng chi phí

năm 2003, như vậy so với 2002, chi phí trả lãi đã tăng với tốc độ 12,68%.
Việc tổng chi phí tăng lên phần nào cho thấy quy mô hoạt động đã được mở rộng,
hơn nữa tốc độ tăng trưởng của thu nhập (9,35%) cao hơn so với tốc độ phát triển của chi
phí ( 8,55%) cho thấy hiệu hoạt động của ngân hàng đã được cải thiện.
Trong năm qua với tình hình tăng trưởng lành mạnh của nguồn thu nhập đã giúp cho
lợi nhuận của ngân hàng tăng trưởng theo. Cụ thể là năm 2002 lợi nhuận của ngân hàng
là17.865 triệu đồng thì năm 2003 là 19.997 triệu đồng, tăng 2.132 triệu đồng với tốc độ
11,93%. Lợi nhuận có thể nói là thước đo chính xác nhất cho hiệu quả hoạt động của một
đơn vị kinh doanh nói chung và kinh doanh ngân hàng nói riêng. Do vậy kết quả trên đây
là một thành tựu rất đáng được khích lệ trong điều kiện cạnh tranh ngày càng quyết liệt
giữa các ngân hàng, và thành tựu đó cần được duy trì và phát huy hơn nữa trong thời gian
tới.
4. Tình hình đảm bảo tiền vay:
Bảng 5: TÌNH HÌNH ĐẢM BẢO TIỀN VAY TẠI CHI NHÁNH
TRONG HAI NĂM 2002-2003:
Đvt: triệu đồng
Năm 2002 Năm 2003 2003/2002
Số tiền
Tỉ lệ
(%)
Số tiền
Tỉ lệ
(%)
Số tiền
Tỉ lệ
(%)
1.Dư nợ 1.231.189 100 1.385.600 100 154.411 12,54
- Đảm bảo bằng tài sản
- Đảm bảo không bằng
tài sản

243.283
987.906
19,76
80,24
291.253
1.094.347
21,02
78,98
47.970
106.441
19,72
10,77
2. Nợ quá hạn 19.774 100 11.901 100 -7.873 -39,82
- Đảm bảo bằng tài sản
- Đảm bảo không bằng
tài sản
3.658
16.116
18,50
81,50
2.799
9.102
23,52
76,48
-859
-7.014
-23,48
-43,52
3. Tỉ lệ nợ quá hạn 1,61 0,86 -0,75 -46,58
- Đảm bảo bằng tài sản

- Đảm bảo không bằng
tài sản
1,50
1,63
0,96
0,83
-0,54
-0,8
-36,00
-49,08
Hoạt động của ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro, do đó ngân hàng chỉ có thể hạn chế,
kiểm soát ở mức độ cho phép những rủi ro có thể xảy tra nhằm bảo vệ số tiền gửi của
khách hàng. Một trong những biện pháp bảo đảm an toàn cho ngân hàng đó là cho vay dựa
trên cơ sơ tài sản đảm bảo để giảm thiểu rủi ro.
Đảm bảo không bằng tài sản là hình thức đảm bảo dựa vào uy tín, năng lực sử dụng
vốn, năng lực tài chính của người vay vốn hay tính khả thi của dự án. Đối với hình thức
đảm bảo bằng tài sản thì tài sản đảm bảo tiền vay có thể là tài sản của khách hàng vay,
hoặc là tài sản hình thành từ vốn vay hoặc tài sản của bên bảo lãnh. Tuỳ từng đối tượng
khách hàng mà ngân hàng có thể sử dụng loại hình đảm bảo nào ( thế chấp, cầm cố, hay
bảo lãnh).
Qua bảng số liệu, ta thấy dư nợ của năm 2003 cao hơn so với năm 2002, trong đó dư
nợ của hình thức đảm bảo bằng tài sản có xu hướng tăng lên còn hình thức đảm bảo không
bằng tài sản có xu hướng giảm xuống, cụ thể như sau:
Dư nợ của hình thức đảm bảo bằng tài sản tăng từ 243.283 triệu đồng năm 2002 lên
291.253 triệu đồng năm 2003, đạt tốc độ tăng 19,72%. Trong khi đó, dư nợ của hình thức
không đảm bảo bằng tài sản giảm từ 80,24% dư nợ (năm 2002) xuống còn 78,98% dư nợ
(năm 2003). Như vậy có thể thấy ngân hàng rất chú trọng đến hình thức cho vay có đảm
bảo bằng tài sản. Với hình thức này, nó cho phép ngân hàng thiết lập cơ sở kinh tế và pháp
lý để ngân hàng có được một nguồn thu nợ hợp pháp thứ hai từ một tài sản cụ thể ngoài
nguồn thu nợ chính thức. Có thể coi đây là một trong những biện pháp hữu hiệu để giảm

thiểu rủi ro.
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy tỉ lệ NQH rất khả quan, nếu năm 2002 tỉ lệ này là
1,61% thì đến cuối năm 2003 chỉ còn 0,86%, với tốc độ giảm là 46,58%. Trong đó hình
thức đảm bảo bằng tài sản giảm với tốc độ 36,00% và hình thức đảm bảo không bằng tài
sản giảm với tốc độ 49,08%. Kết quả này có được là cả một sự nỗ lực của ngân hàng trong
việc thu hút khách hàng mới, giữ khách hàng cũ (khách hàng tốt), nâng cao chất lượng sản
phẩm: cải tiến quy trình cho vay, giao dịch một cửa nhanh gọn, năng động, hiệu quả...
Đồng thời tích cực trong việc thu hồi nợ cũ và hạn chế phát sinh nợ mới để làm sao dư nợ
tăng mà NQH phải giảm.
Nhìn chung, tình hình dư nợ của ngân hàng là khả quan, cho vay có đảm bảo bằng tài
sản không ngừng tăng, yếu tố rủi ro phần nào đã được hạn chế.
V. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHCT ĐÀ
NẴNG TRONG HAI NĂM 2002-2003:
1.Tình hình rủi ro chung
Trong những năm qua, ngân hàng được đánh giá là hoạt động có hiệu quả, NHCT
Đà Nẵng là một trong hai Ngân hàng Thương mại Quốc doanh trên địa bàn được xếp ngân
hàng loại một. Công tác tín dụng năm qua tại ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực.
Ngân hàng đã tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau cho vay - thực
hiện đúng cơ chế tín dụng. Từ đó, chất lượng tín dụng không ngừng được nâng lên, dư nợ
tăng trưởng lành mạnh, nợ quá hạn giảm. Tình hình cụ thể của ngân hàng, ta hãy xem xét
qua bảng sau:
Bảng 6 TÌNH HÌNH DƯ NỢ bq , NỢ QUÁ HẠN bqVÀ NỢ KHÓ ĐÒI bq CỦA TÍN
DỤNG NGẮN HẠN VÀ TRUNG DÀI HẠN
Chỉ tiêu 2002 2003 Chênh lệch
Số tiền Số tiền Số tiền Tỉ lệ%
1. Dư nợ bq Tr.đ 1.231.189 1.385.600 154.411 12,54
- Ngắn hạn 1.014.995 1.079.495
- Trung dài hạn 216.144 306.105
2. Nợ quá hạn bq Tr.đ 19.774 11.901 -7.873 -39,82
- Ngắn hạn 12.407 7.479

- Trung dài hạn 7.367 4.422
3. Nợ khó đòi bq Tr.đ 2.154 320 -1.834 -85,14
- Ngắn hạn 1.747 228
- Trung dài hạn 407 92
4. NQH bq/DN bq % 1,61 0,86 -0,75 -46,58
- Ngắn hạn 1,22 0,69
- Trung dài hạn 3,41 1,44
5. NKĐ bq/NQH bq % 10,89 2,69 -8,20 -75,30
- Ngắn hạn 14,08 3,05
- Trung dài hạn 5,52 2,08
Qua bảng trên, ta khẳng định một điều rằng rủi ro tín dụng luôn tồn tại, các khoản tín
dụng luôn tiềm ẩn rủi ro. Đó là hiện thực khách quan. Rủi ro tín dụng như trình bày ở
phần Lý luận là rủi ro khách hàng không trả được nợ đúng, đầy đủ khi đến hạn, được biểu
hiện qua nợ quá hạn bình quân (NQH bq) và nợ khó đòi bình quân (NKĐ bq)
Qua hai năm, NQH bq, NKĐbq mặc dù có tồn tại nhưng đã có xu hướng giảm mạnh.
Cụ thể năm 2002, NQH bq là 19.774 triệu đồng, năm 2003 là 11.901 triệu đồng. Như vậy
NQHbq đã giảm về mặt tuyệt đối 7.873 triệu đồng tương ứng với số tương đối là 39,82%,
trong đó có sự giảm đều của cả NQH bq ngắn hạn và trung dài hạn. NQH bq ngắn hạn năm
2002 là 12.407 triệu đồng chiếm 62,74% trên nợ NQH bq, NQH bq trung dài hạn có giá trị
7.367 triệu đồng, chiếm 37,26% trên NQH bq. Như vậy, NQH bq tập trung chủ yếu trong
lĩnh vực cho vay ngắn hạn, điều này cũng dễ hiểu vì lĩnh vực này có mức dư nợ lớn nhất là
1.014.995 triệu đồng (năm 2002). Thông thường, lĩnh vực nào có dư nợ cho vay lớn thì
rủi ro hàm chứa lớn.
Cuối năm 2003, NQH bq cả hai bộ phận này đều giảm xuống còn 7.479 triệu đồng
NQH bq ngắn hạn, tương ứng với mức giảm 4.928 triệu đồng, tức là 39,72% và 4.422 triệu
đồng NQH bq trung và dài hạn, tương ứng với mức giảm 2.945 triệu đồng, tức giảm
39,98% so với năm 2002 – chất lượng tín dụng có khả quan hơn. Đây là điều đáng mừng
của ngân hàng .
NQH bq được chia làm ba loại: NQH bq dưới 6 tháng, NQH bq từ 6-12 tháng và
NQH bq trên 12 tháng trong đó NQH bq trên 12 tháng được coi là NKĐ bq. Năm 2002,

NKĐ bq có giá trị 2.154 triệu đồng gồm 1.747 triệu đồng NKĐ bq ngắn hạn và 407 triệu
đồng NKĐ bq trung dài hạn, đến cuối năm 2003, NKĐ bq chỉ còn 320 triệu đồng, trong đó
228 triệu đồng NKĐ bq ngắn hạn và 92 triệu đồng NKĐ bq trung dài hạn. Như vậy, so với
2002, NKĐ bq đã giảm một lượng 1.834 triệu đồng, tương ứng với tốc độ giảm 85,14%.
Rõ ràng đây là một thành quả rất lớn của Chi nhánh, một lượng lớn NKĐ bq đã được thu
và hạn chế đến mức thấp nhất NKĐ bq phát sinh trong năm 2003 .
NQH bq giảm mạnh trong khi dư nợ lại tăng, chính sự biến động ngược chiều này
làm cho tỉ lệ NQH bq giảm xuống một cách nhanh chóng. Năm 2002, tỉ lệ này là 1.61%;
năm 2003 chỉ còn 0,86% giảm 0,75% với tốc độ 46,58%. Hiện tại, cứ 100 đồng dư nợ bq
thì ngân hàng có 0,86 đồng NQH bq. So với các Ngân hàng Thương mại khác thì đây là
con số lý tưởng .
Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới
nói chung thường xuyên xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính tiền tệ, đã có tác
động nhất định đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước. Chi nhánh NHCT Đà
Nẵng với đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp, công ty TNHH, cổ phần nên
không tránh khỏi rủi ro. Nhưng hiện tại, tỉ lệ NQH bq của ngân hàng được đánh giá là
thấp. Điều này chứng tỏ sự thành công của ngân hàng khi thực hiện cho vay có chọn lọc,
theo quan điểm tăng trưởng dư nợ đi đôi với việc an toàn lành mạnh tài chính, công tác thu
hồi nợ được ngân hàng chú trọng, quan tâm nhiều, chất lượng tín dụng ngày càng được
nâng cao.
Việc loại trừ hoàn toàn những rủi ro này là không thực tế mà vấn đề đặt ra ở đây là
phải tiến hành nghiên cứu phân tích thực trạng và nguyên nhân để hạn chế tới mức thấp
nhất, cải thiện hơn nữa việc kinh doanh của mình. Đây là nghệ thuật thể hiện " tài cán"
trong kinh doanh của mỗi ngân hàng .
2. Rủi ro tín dụng trong ngắn hạn
Tín dụng là nghiệp vụ hàng đầu có ý nghĩa quan trọng, quyết định đối với sự tồn tại
và phát triển của một ngân hàng. Và tín dụng ngắn hạn là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu
của ngân hàng thương mại bởi khả năng thu hồi vốn nhanh, đảm bảo nguồn vốn và cho vay
mới. Đối với NHCTVN Chi nhánh Đà Nẵng cũng vậy, cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng
cao nhất trong cơ cấu cho vay và nó mang tính chất quyết định đến lợi nhuận của ngân

hàng trong hoạt động cho vay này.
a) Phân tích theo thành phần kinh tế:
Bảng 7: BẢNG PHÂN TÍCH NQH, NKĐ CỦA CHO VAY NGẮN HẠN
THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ
Đvt: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu DNbq
NQH
bq
NQHbq/
DNbq(%
)
NKĐ
bq
NKĐbq/
NQHbq
(%)
- KTNN
- KTNQD
915.132
99.863
8.530
3.877
0,92
3,88
1.123
624
13,17
16,10
Tổng

1.014.995 12.407 1,22 1.747 14,08
- KTNN
- KTNQD
885.075
194.420
5.914
1.565
0,67
0,81
171
57
2,89
3,64
Tổng 1.079.495 7.479 0,69 228 3,05
Chênh
-KTNN
-KTNQD
-30.057
94.557
-2.616
-2.312
-0,26
-3,07
-952
-567
-10,28
-12,46
Tốc độ
tăng giảm
(%)

- KTNN
- KTNQD
-3,28
94,69
-30,67
-59,63
-27,96
-79,12
-84,77
-90,87
-78,06
-77,39
Khách hàng của ngân hàng có thể chia làm hai thành phần kinh tế chính: kinh tế
Nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh (KTNN và KTNQD)- trong đó bao gồm công ty
trách nhiệm hữu hạn (Co TNHH), công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, tập thể và những
đối tượng khác. Năm 2002 thành phần KTNN có mức dư nợ bq ngắn hạn 915.132 triệu
đồng trong đó NQH bq là 8.530 triệu đồng, chiếm 68,75% trên tổng số NQH bq ngắn hạn,
tuy nhiên so với dư nợ bq của thành phần kinh tế này thì nó chỉ chiếm 0,93%, có nghĩa là
bình quân trong 100 đồng dư nợ ngắn hạn thì chỉ có 0,93 đồng NQH. Với tỉ lệ như vậy có
thể thấy rằng thành phần này có rủi ro rất thấp. Đối với thành phần KTNQD năm 2002, dư
nợ bq của thành phần kinh tế này là 99.863 triệu đồng trong đó NQH bq có giá trị 3.877
triệu đồng tương đương với tỉ trọng 31,25% NQH bq ngắn hạn, và chiếm 3,88% so với dư
nợ bq của thành phần này. Như vậy, nếu so sánh tỷ lệ NQHbq/dư nợ bq thì thành phần
KTNQD có tỷ lệ cao hơn nhiều so với KTNN (gấp 4,17 lần), điều đó đồng nghĩa với việc
rủi ro tín dụng ngắn hạn của bộ phận này cũng cao hơn.
Trong 12.407 triệu đồng NQH bq ngắn hạn năm 2002 có 1.747 triệu đồng NKĐ bq
trong đó KTNN là 1.123 triệu đồng, chiếm 64,28%, và KTNQD là 624 triệu đồng, chiếm
35,72 %.
Chất lượng tín dụng hay mức độ rủi ro tín dụng được đo lường, thể hiện ở tỉ lệ
NQHbq/DNbq, NKĐbq /NQHbq. Năm 2002 tỉ lệ NQHbq/DNbq (gọi tắt là tỉ lệ NQH bq)

là 1,22%, tỉ lệ NKĐbq/NQHbq (tỉ lệ NKĐbq) là 14,08%. Có thể nói rằng mức độ rủi ro tín
dụng của ngân hàng không cao vì thông thường thì tỉ lệ NQH bq <3% được coi như an
toàn. Còn NKĐ bq mặc dù chiếm tỷ trọng khá cao trong NQH bq nhưng ngược lại NQH
bq lại chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng dư nợ bq, do vậy nếu so với dư nợ bq thì NKĐ bq
như vậy là không đáng kể.
Hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, các công ty, doanh
nghiệp không ngừng ra đời và phát triển, vốn là nhu cầu không thể thiếu của những đối
tượng này. Đây là một thị trường đầy tiềm năng, là cơ hội chuyển hướng kinh doanh của
các ngân hàng. Xác định được xu hướng này, trong định hướng hoạt động của Chi nhánh
trong thời gian tới rất chú trọng đến thành phần KTNQD. Và bước đầu đã đạt được những
thành công khá khả quan khi dư nợ bq ngắn hạn của thành phần này không ngừng tăng,
năm 2003 đạt 194.420 triệu đồng, tăng 94,69% so với 2002.
Quy mô tín dụng bq ngắn hạn năm 2003 của ngân hàng đạt 1.079.495 triệu đồng,
tăng 6,36% so với 2002, tuy nhiên dư nợ bq của thành phần KTNN lại không tăng chứng
tỏ trong năm qua ngân hàng không mở rộng quan hệ thêm đối với đơn vị doanh nghiệp nhà
nước (DNNN). Điều này cũng dễ hiểu bởi trong định hướng hoạt động của mình Chi
nhánh cũng đã chủ trương ưu tiên đẩy mạnh cho vay đối với thành phần KTNQD vì đây là
những đối tượng đầy tiềm năng. Điều đáng mừng ở đây là tỷ lệ nợ NQH bq đã giảm với
tốc độ rất nhanh nhờ sự biến động ngược chiều giữa dư nợ bq và NQH bq. Cụ thể dư nợ
tăng với tốc độ 6,36% thì NQH bq đã giảm với tốc độ 39,72%. Trong đó có sự giảm đều
của các thành phần kinh tế mặc dù với tốc độ giảm khác nhau: KTNN giảm 2.616 triệu
đồng, tương ứng với tốc độ 30,67%; KTNQD giảm 2.312 triệu đồng tương ứng với tốc độ
59,63%. Từ đó tỉ lệ NQH bq giảm và chỉ còn 0,69%. Trong đó thành phần KTNN còn
0,67%, thành phần KTNQD còn 0,81%.
Đối với NKĐ bq cũng giảm một lượng đáng kể và hiện chỉ còn 228 triệu đồng năm
2003, giảm 1.519 triệu đồng, tương ứng với tốc độ 86,95%, trong đó chủ yếu là nhờ sự
giảm NQH bq của thành phần KTNN: Giảm từ 1.123 triệu đồng xuống còn 171 triệu đồng,
tức giảm một lượng là 952 triệu đồng tương ứng với tốc độ 84,77%, bên cạnh đó KTNQD
cũng giảm một lượng 567 triệu đồng tương ứng với tốc độ 90,87%.
Tỉ lệ NKĐbq/NQHbq cũng giảm và chỉ còn 3,05% (giảm với tốc độ 78,34%) trong

đó tỉ lệ NKĐ bq của thành phần KTNN giảm với tốc độ 78,06%, KTNQD là 77,39%.
Để đạt được kết quả như trên phải kể đến sự quan tâm tới công tác kiểm tra nội bộ
hoạt động tín dụng của ngân hàng, thanh tra chuyên trách kiểm tra theo định kỳ. Hàng
ngày, qua cân đối vốn kinh doanh, nếu trên bảng cân đối phát sinh NQH rơi vào cán bộ tín
dụng (CBTD) nào cho vay thì CBTD đó giải trình và đôn đốc người vay thu xếp để trả nợ
vay ngân hàng. Do CBTD bám sát khách nợ, sự kiểm tra đôn đốc kịp thời của ban lãnh
đạo, nên nếu có trường hợp nào phát sinh NQH thì chỉ sau một thời gian ngắn người vay
sẽ trả hết nợ NQH cho ngân hàng. Như vậy, với nỗ lực phấn đấu giảm thấp rủi ro ngân
hàng đã đưa NQH bq, NKĐ bq ngày càng giảm thấp, huy vọng rằng thành quả này sẽ được
tiếp tục phát huy hơn nữa.
b) Phân tích theo ngành nghề
Hiện nay, cơ cấu cho vay theo ngành nghề của ngân hàng bao gồm hai ngành cơ bản:
thương mại dịch vụ (TMDV) và công nghiệp. Cụ thể được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 8 : BẢNG PHÂN TÍCH NQH, NKĐ CỦA CHO VAY NGẮN HẠN
THEO NGÀNH
Đvt : triệu
đồng
Năm Chỉ tiêu DN bq
NQH
bq
NKĐ
bq
Tỉ lệ
NQHbq
%
Tỉ lệ
NKĐbq
%
1. Công nghiệp
2. Thương mại-dịch vụ

3. Xây dựng
102.819
880.001
32.175
761
11.218
428
35
1.685
27
0,74
1,28
1,33
4,60
15,02
6,31
Tổng 1.014.995 12.407 1.747 1,22 14,08
1. Công nghiệp
2. Thương mại-dịch vụ
3. Xây dựng
94.456
938.405
46.634
444
6.799
236
9
219
0
0,47

0,72
0,51
2,03
3,22
0
Tổng 1.079.495 7.479 228 0,69 3,05
Chênh
lệch
1. Công nghiệp
2.Thương mại- dịch vụ
3.Xây dựng
-8.363
58.404
14.459
-317
-4.419
-192
-26
-1.466
-27
-0,27
-0,56
-0,82
-2,57
-11,80
-6,31
Tốc độ
tăng%
1. Công nghiệp
2. Thương mại-dịch vụ

3.Xây dựng
-8,13
6,64
44,94
-41,66
-39,39
-44,86
-74,26
-87,00
-100
-36,49
-43,75
-61,65
-55,87
-78,56
-100
Qua bảng trên ta thấy ngành thương mại dịch vụ (TM-DV) có dư nợ bq chiếm tỉ
trọng chủ yếu trong tổng dư nợ bq ngắn hạn, năm 2002 đạt 880.001 triệu đồng chiếm
86,70% còn ngành công nghiệp đạt mức 102.819 triệu đồng tương ứng 10,13%. NQH bq
ngắn hạn năm 2002 là 12.407 triệu đồng trong đó NQH bq của TM-DV đã có 11.218 triệu
đồng chiếm 90,42% trong khi công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 9,58% NQH bq ngắn
hạn. Mặc dù vậy, tỉ lệ NQH bq các ngành cũng không chênh lệch nhau nhiều lắm. Cụ thể:
tỉ lệ NQH bq của ngành TM-DV là 1,28%, ngành công nghiệp 0,74%, còn của xây dựng là
1,33%.
Sở dĩ NQH bq của ngành TM-DV cao như vậy là do trong kinh doanh mua bán hiện
nay người ta rất ít áp dụng hình thức thanh toán ngay (giao hàng xong là nhận tiền), mà
người ta thường sử dụng hình thức thanh toán sau, thanh toán gối đầu (tức là tiền hàng của
đợt giao hàng thứ nhất chỉ được thanh toán khi bán xong và nhận đợt giao hàng thứ hai).
Do đó đối với các doanh nghiệp có khả năng tài chính yếu thì rất dễ dẫn đến tình trạng
NQH. Với những khách hàng này không thể xếp họ vào thành phần những khách hàng xấu

×