Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỚI KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.72 KB, 12 trang )

Trang 1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG ĐÀO TẠO SĐH – KHCN & QHĐN
________________






MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VỚI KHOA HỌC TỰ NHIÊN


CHUYÊN NGHÀNH: KHOA HỌC MÁY TÍNH
MÃ SỐ: 60 48 01


GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH: TS.Bùi Văn Mưa
HỌC VIÊN : Đỗ Thiện Vũ _ CH1301072
KHOÁ HỌC: CH08-2013




TP.HỒ CHÍ MINH, tháng 07 năm 2014

Trang 2



LỜI CẢM ƠN



ới lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý Thầy Cô ở Khoa Khoa
Học Máy Tính – Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin đã cùng với
tri thức và tâm huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu
cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường. Và đặc biệt,
trong học kỳ này, Khoa đã tổ chức cho chúng em được tiếp cận với môn học mà
theo em là rất hữu ích đối với học viên ngành Khoa Học Máy Tính cũng như các
ngành Khoa Học Kỹ Thuật khác. Đó là môn học “ Triết Học”. Em xin chân thành
cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã tận tâm hướng dẫn chúng em qua từng buổi học trên
lớp cũng như những buổi nói chuyện, thảo luận về lĩnh vực triết học trong lịch sử,
kinh tế, xã hộ, khoa học… Các tư tưởng triết học của những bậc vĩ nhân như
Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử…. Nếu không có những lời hướng dẫn, dạy bảo của
thầy thì em nghĩ bài thu hoạch này của em rất khó có thể hoàn thiện được. Một lần
nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy.
Sau cùng, em xin kính chúc quý Thầy Cô trong Khoa Khoa Học Máy Tính
và Thầy TS. Bùi Văn Mưa thật dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ
mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Trân trọng.

TP. HCM, ngày 1 tháng 7 năm 2014
Học viên thực hiện

Đỗ Thiện Vũ


V

Trang 3


GIỚI THIỆU


Bài thu hoạch này, trình bày về mối liên hệ mật thiết giữa hai lĩnh vực tri
thức là triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên. Triết học duy vật biện
chứng tìm thấy ở khoa học tự nhiên những cơ sở khoa học vững chắc để khái quát
nên những nguyên lý, quy luật chung nhất của mình, còn khoa học tự nhiên lại tìm
thấy trong triết học duy vật biện chứng thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn,
sắc bén để đi sâu nghiên cứu giới tự nhiên. Việc nghiên cứu và nắm vững mối
quan hệ này, có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn. Làm nền tảng cho cơ sở lý luận và nghiên cứu trong ngành Khoa Học-Máy
Tính mà em đang theo đuổi. Nguồn tài liệu tri thức chính của bài thu hoạch, chủ
yếu là tham khảo tài liệu Lịch Sử Đại Cương Triết Học, bài báo khoa học và các
bài viết trên trang wepsite liên quan đến hai lĩnh vực tri thức triết học duy vật biện
chứng và khoa học tự nhiên.
Bố cục chính của bài thu hoạch gồm hai phần.
Phần 1 : giới thiệu nội dung chính về triết học duy vât biện chứng, một công
cụ tư duy lý luận tất yếu của khoa học tự nhiên.
Phần 2 : Phân tích mối quan hệ giữa lĩnh vực tri thức triết học duy vật biện
chứng và lĩnh vực tri thức khoa học tự nhiên thông qua lịch sử phát triển của triết
học biện chứng, những thành tựu khoa học đã đạt được, sự cần thiết của tư duy lý
luận đối với khoa học để thấy được sự tất yếu của triết học duy vật biện chứng
đối với khoa học tự nhiên. Cũng từ những thành tựu khoa học này củng cố và
chứng minh lại nhận thức chung nhất, đúng đắn nhất mang tính khoa học của triết
học duy vật biện chứng. Từ đó thấy được thấy được mối quan hệ chặt chẽ, tác động
lẫn nhau và thúc đẩy nhau phát triển giữa hai lĩnh vực tri thức này.




Trang 4


1. Triết học duy vật biện chứng

Triết học duy vật biện chứng là là một bộ phận của học thuyết triết học do
Karl Marx đề xướng. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy
vật kết hợp với phép biện chứng. Marx đã kế thừa tư tưởng về phương pháp biện
chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel, lý luận về chủ nghĩa duy vật của
Ludwig Andreas von Feuerbach và phát triển nên triết học duy vật biện chứng này.
Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản
chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật
chất có trước ý thức và quyết định ý thức.
Phương pháp biện chứng bao gồm hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
thể hiện qua sáu cặp phạm trù được sử dụng là cái chung và cái riêng, bản chất và
hiện tượng, nội dung và hình thức, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết
quả, khả năng và hiện thực. Nguyên lý về sự phát triển bao gồm ba qui luật là: quy
luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định. Với quy luật mâu thuẫn
chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển, quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức
của sự phát triển, quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Triết học duy vật biện chứng của Marx sử dụng triệt để những thành tựu
khoa học tự nhiên đương thời, được xây dựng trên cơ sở lý giải một cách khoa học
về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức tồn tại trong
thế giới khách quan. Đóng góp vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học
cụ thể, là thế giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận
cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt được, cũng như
vạch ra phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể. Sự

hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ
thể.

Trang 5

2. Mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự
nhiên

Vào thời cổ đại, khoa học tự nhiên mới bắt đầu hình thành, triết học tự nhiên
(một hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại) đã trình bày được một bức
tranh tổng quát về thế giới, đã có nhiều tư tưởng và dự báo thiên tài định hướng cho
khoa học phát triển. Do trình độ nhận thức còn đang ở điểm xuất phát, tri thức khoa
học còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai, nên triết học hầu như là dạng thức lý luận
duy nhất, bao trùm, giải quyết tất cả các vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư duy, mà
lúc ấy thực ra cũng chỉ là những phác thảo sơ lược, chưa thấy cụ thể, chưa hoàn
thiện. Tính bao trùm ấy của tri thức triết học khiến nó được xem như “môn khoa
học đặc biệt đứng trên tất cả các môn khoa học khác”.
Đến thời trung cổ ở phương Tây, triết học kinh viện là công cụ biện hộ cho
tôn giáo, cản trở sự phát triển của khoa học.
Vào thời Phục hưng và nhất là thời cận đại, chủ nghĩa duy vật đã phát triển
gắn liền với khoa học tự nhiên, đã góp phần tích cực vào sự phát triển của khoa học
tự nhiên, chống lại sự thống trị của giáo hội. Tuy nhiên vào thời kỳ này, quan điểm
triết học là “khoa học của các khoa học” và phương pháp tư duy siêu hình vẫn giữ
vai trò thống trị. Sự phát triển của khoa học vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX
đã làm cho quan điểm triết học là “khoa học của các khoa học” và phương pháp tư
duy siêu hình không còn phù hợp nữa. Từ đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn gắn liền với
các thành tựu của khoa học hiện đại, là sự khái quát các thành tựu khoa học mang
lại. Đồng thời, nó lại đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển của khoa học hiện đại.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan và phương pháp luận thật sự khoa

học cho các khoa học cụ thể đánh giá đúng các thành tựu đã đạt được, cũng như xác
định đúng phương hướng và phương pháp trong nghiên cứu. Đặc biệt, trong giai
đoạn hiện nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang đạt được nhiều thành tựu
to lớn làm thay đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống xã hội, tình hình thế giới đang có
nhiều biến đổi phức tạp, thì nắm vững thế giới quan và phương pháp luận duy vật
Trang 6

biện chứng càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng
không thể thay thế được các khoa học khác. Theo yêu cầu phát triển của mình, đòi
hỏi phải có sự liên minh chặt chẽ giữa triết học với các khoa học khác.
Lịch sử phát triển của triết học cũng như của khoa học tự nhiên đã cho thấy,
không phải bất kỳ trào lưu triết học nào cũng giữ vai trò là thế giới quan và phương
pháp luận đúng đắn đối với khoa học tự nhiên, thúc đẩy khoa học tự nhiên phát
triển, và ngược lại, không phải các thành tựu của khoa học tự nhiên là cơ sở khoa
học để chứng minh cho những luận điểm của mọi trào lưu triết học. Xuất phát từ
hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người ngày một cao hơn, những hiểu biết
về những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội ngày một phát triển, các nguyên
lý, các lý thuyết về thiên văn học, toán học, vật lý, hoá học,… dần dần được tích
luỹ với những phát triển của khoa học triết học nói chung và khoa học cụ thể nói
riêng.
“Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì thông thể
không có tư duy lý luận chỉ có phép biện chứng mới có thể giúp cho khoa học tự
nhiên vượt khỏi những khó khăn về lý luận ”. Ph.Ăngghen đã viết như vậy về vai
trò của tư duy lý luận. Ở bất cứ thời đại nào, dân tộc nào cũng như con người nào,
tư duy lý luận cũng chỉ là năng lực bẩm sinh, "đặc tính bẩm sinh". Muốn để cho
"đặc tính bẩm sinh" ấy chuyển thành tư duy lý luận thực sự, cần phải hình thành
trên cơ sở kinh nghiệm, phải có giả thuyết và sử dụng giả thuyết trong quá trình
hình thành tư duy lý luận, phương pháp biện chứng duy vật như là điều kiện không
thể thiếu để hình thành tư duy lý luận, tư duy lý luận phải được gắn liền với sự
phát triển của khoa học, tư duy lý luận phải có dựa là thực tiễn xã hội, muốn có tư

duy lý luận, phải có sự nghiên cứu nghiêm túc toàn bộ lịch sử triết học . Theo
Ph.Ăngghen, tư duy biện chứng là hình thức cao nhất của tư duy lý luận. Do đó
một cách tất yếu là trong quá trình hình thành quan điểm duy vật về lịch sử, thì
song song và cùng với nó là cần phải sử dụng phương pháp nào để có thể hình
thành được tư duy biện chứng duy vật. Phương pháp biện chứng của Hegel hay
phương pháp siêu hình của các nhà khoa học tự nhiên thế kỷ XVII-XVIII ?. Một
Trang 7

sự thật hiển nhiên là trong lịch sử triết học trước Marx, phương pháp biện chứng
và phương pháp siêu hình đối lập nhau, phương pháp biện chứng thường gắn liền
với chủ nghĩa duy tâm, còn chủ nghĩa duy vật lại thường gắn liền với phương pháp
siêu hình. Để xây dựng tư duy biện chứng mới về nguyên tắc (tư duy biện chứng
duy vật), vấn đề có tính chất phương pháp luận tiên quyết đối với Ph.Ăngghen là
lựa chọn phương pháp nào hay xây dựng phương pháp nghiên cứu mới?. Phương
pháp siêu hình của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII đã có một giá trị đích
thực nhất định, đã giữ một vai trò không nhỏ khi mà khoa học thực nghiệm mới
thực sự bắt đầu phát triển. Đó là thời kỳ mà khoa học tự nhiên đi sâu vào phân tích,
chia nhỏ giới tự nhiên ra thành những bộ phận riêng biệt cố định để nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu đó đã đưa đến những thành tựu vĩ đại trong việc phát
triển khoa học. Song, khi việc nghiên cứu tiến từ giai đoạn sưu tập sang giai đoạn
chỉnh lý, sang giai đoạn nghiên cứu về các quá trình, về sự phát sinh, phát triển
của sự vật, thì phương pháp đó không còn đáp ứng được yêu cầu của nhận thức
khoa học hiện đại nữa. Chính vì thế, như Ph.Ăngghen đã nhận xét, phương pháp
siêu hình đó đã bị I.Cantor và Hegel đánh đổ hoàn toàn. Còn phương pháp biện
chứng (điển hình là phương pháp biện chứng của Hegel) đã đóng một vai trò cực
kỳ to lớn trong sự giải thích và nhận thức thế giới khi chỉ ra sự vận động, biến đổi
và phát triển của sự vật, của tự nhiên và của xã hội mà hiện thần là nhà nước Phổ
với tư cách là hình thái xã hội cao nhất. Song, sự vận động, biến đổi và phát triển
ấy, suy cho cùng, bắt nguồn từ sự tha hoá, sự tự vận động và phát triển của "ý niệm
tuyệt đối", của "lý tính thế giới”. Do vậy, phương pháp biện chứng duy tâm đó đối

lập hoàn toàn với quan niệm duy vật về lịch sử mà Marx đã phát hiện ra. Theo
Ph.Ăngghen, phương pháp biện chứng duy tâm đó rốt cuộc cũng không thể sử
dụng được.
Như vậy, đối với Ph.Ăngghen, không tồn tại khả năng lựa chọn phương
pháp mà chỉ còn khả năng sáng tạo ra phương pháp mới. Bởi lẽ, quan điểm duy
vật về đã đặt ra một đòi hỏi khách quan: cần có phương pháp mới về chất để có
thể bao chứa được cả hai yếu tố "hợp lý" và "căn bản" - duy vật và biện chứng.
Trang 8

Vậy để đi đến phương pháp mới về chất đó, cần xuất phát từ đâu? Theo
Ph.Ăngghen, điểm xuất phát đầu tiên đó là đem lại câu trả lời đúng đắn, có cơ sở
khoa học cho bản chất của ý thức và của trí tuệ. Vì chính ở đó biểu hiện tập trung
nhất, rõ nét nhất, điền hình nhất cả hai đặc tính cơ bản của quan điểm thế giới quan
(duy vật hay duy tâm) cũng như của phương pháp giải quyết (biện chứng hay siêu
hình). Chính nhờ phương pháp biện chứng duy vật mà tư duy lý luận được hình
thành một cách tự giác, dễ dàng và được rút ngắn hơn nhiều. "Người ta có thể đạt
đến quan điểm biện chứng đó do những sự kiện thực tế đang tích luỹ lại của khoa
học tự nhiên bắt buộc, nhưng người ta có thể đạt tới nó một cách dễ dàng hơn nếu
đưa nhận thức về những quy luật của tư duy biện chứng vào việc tìm hiểu tính chất
biện chứng của nhưng sự kiện ấy".
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một loạt phát minh khoa học làm cho các
quan điểm duy vật siêu hình rơi vào khủng hoảng. Nhiều phát minh trong vật lý
học thời kỳ này đã làm đảo lộn quan niệm cũ về vật chất, đó là:
Rơnghen (Đức) phát hiện ra tia X (1895); A.H.Beccơren (1852-1908), nhà
vật lý học Pháp và M.Quyri (1867-1934), phát minh ra hiện tượng phóng xạ trong
chất uranium (1896); S.J.Tômxơn phát hiện ra điện tử (1897); nhà bác học Đức
Kaufman phát hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử…Các phát minh khoa học
này gây ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. Một số các nhà vật
lý học giải thích một cách duy tâm các hiện tượng vật lý và cho rằng vật chất tiêu
tan. Trong hoàn cảnh đó, các nhà triết học duy tâm chủ quan lợi dụng cơ hội này

để khẳng định bản chất “phi vật chất” của thế giới, khẳng định vai trò của các lực
lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo ra thế giới, cơ sở tồn tại của chủ nghĩa
duy vật không còn nữa. Tình hình đó đòi hỏi V.I.Lênin phải đấu tranh bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa duy vật. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán”, V.I.Lênin đưa ra định nghĩa vật chất kinh điển:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
Trang 9

lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”(V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb
Tiến bộ, Matxcơva,1976, t.18, tr.151)
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
Một là, với việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính
khách quan, V.I.Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc
phục được sự hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung
cấp căn cứ nhận thức khoa học cho sự phát triển của triết học và các khoa học khác
và là cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử. Hai là, với việc
khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con người trong cảm
giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh” V.I Lênin khẳng
định vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai đồng thời thừa nhận khả năng
của con người có thể nhận thức được thực tại khách quan.
Ngày nay, đứng trước sự phát triển không ngừng của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, thì những khái niệm, những phạm trù, những tư tưởng, những
phương pháp nghiên cứu mới không ngừng ra đời. Mặt khác, cuộc cách mạng ấy
cũng đang đặt ra hàng loạt vấn đề về phong thái tư duy khoa khọc, về những bước
phát triển mới của nhận thức, của khoa học trong tương lai. Và đứng trước những
đổi thay lớn lao của cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là khoa học tự nhiên
hiện đại, thì nhà khoa học không còn có thể chỉ dừng lại ở những vấn đề chuyên
môn hẹp của mình, họ không chỉ vấp phải những vấn đề phương pháp luận mà cả

những vấn đề triết học do chính lĩnh vực của mình đặt ra và buộc họ phải suy nghĩa
để giải quyết.
Từ những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại trong thế kỷ XX như:
Thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein (1905) và thuyết tương đối rộng (1916);
thuyết lượng tử của Planck (1900); lý thuyết kết cấu nguyên tử lượng tử hoá của
Niels Bohr (1913); lý thuyết cơ học lượng tử của Heisenberg (1925), lý thuyết
thông tin, lý thuyết điều khiển (những năm 40 của thế kỷ XX); lý thuyết cô lập, lý
thuyết phân hình, lý thuyết hỗn độn, (những năm 70, 80 của thế kỷ XX), v.v… Đã
Trang 10

tạo nên những cuộc tranh luận ngày càng gay gắt về sự nhận thức của con người
đối với thế giới. Chính điều này đã buộc các nhà khoa học tự nhiên phải tìm đến
với một thế giới quan triết học đúng đắn để từ đó lý giải những vấn đề cụ thể trong
lý thuyết khoa học của mình. Như Albert Einstein đã viết: “Các kết quả nghiên cứu
khoa học thường gây nên những sự thay đổi trong các quan điểm triết học đối với
những vấn đề vượt ra ngoài phạm vi của những lĩnh vực rất hạn chế của bản thân
khoa học”. Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học
tự nhiên chẳng những giúp cho các nhà triết học hiểu biết thêm những tri thức về
khoa học tự nhiên mà còn làm cho họ thấy rõ được cơ sở khoa học chính xác,
khách quan để triết học dựa vào đó khái quát thành những nguyên lý, những quy
luật và những phạm trù triết học. Đồng thời, nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học
với khoa học tự nhiên đã giúp cho các nhà khoa học tự nhiên nhận thức và vận
dụng một cách đúng đắn, sáng tạo thế giới quan duy vật biện chứng và phương
pháp luận khoa học vào quá trình nghiên cứu khoa học tự nhiên, làm cho họ luôn
luôn ý thức được rằng, chỉ có cho mình một phương pháp biện chứng duy vật thì
họ mới có thể tiến xa hơn, đi sâu hơn vào các lĩnh vực mà họ đang và sẽ nghiên
cứu.
Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, sau khi nêu bật đóng góp của R.
Mayer (1814-1878), với định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng; Matthias
Schleiden (1804-1881) và Theodor Schwann (1838-1839) với việc phát hiện ra tế

bào hữu cơ; Charles Darwin (1809-1882) với thuyết tiến hoá đối với sự phát triển
của khoa học, Ph. Ăngghen nhấn mạnh ý nghĩa có tính bước ngoặt của ba phát
minh đối với sự ra đời của hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa
duy vật biện chứng, thay cho hình thức cũ đã tỏ ra lỗi thời. Bên cạnh các khám
phá thời đại ấy trong khoa học tự nhiên, được cổ vũ bởi sự phát triển mạnh mẽ,
nhanh chóng của kinh tế, kỹ thuật, mỗi ngành đều để lại dấu ấn của mình lên các
trang vàng của lịch sử, nhất là từ nửa sau thế kỷ XIX. Trong vật lý học, R.
Kirchhoff (1824-1887) xác lập phương pháp phân tích quang phổ, Emanuel
Clausius (1822-1888) phổ biến thuyết cơ học về nhiệt và đưa khái niệm entropy
Trang 11

vào môn vật lý, Michael Faraday (1791 - 1867) đưa ra thuyết trường điện từ, sau
đó J. Maxwell (18311879) xây dựng thuyết điện từ và ánh sáng. Trong hoá học,
D. Mendeleev (1834-1907) tìm ra quy luật tuần hoàn của các nguyên tố hoá học,
Alecxandro Mikhailovich Butlerop (1828-1886) xây dựng học thuyết cấu trúc hoá
học các tổ hợp hữu cơ. Trong sinh vật học, E. Haeckel (1834-1919) hoàn thiện
thuyết phát triển và tiến hoá, Luis Pasteur (1822-1895) đạt được những thành quả
bước đầu ở lĩnh vực vi sinh.
Với những thành tựu của khoa học tự nhiên, đã chứng minh và củng cố
được tính chất biện chứng của các quá trình diễn ra trong tự nhiên. Chính sự phát
triển của khoa học tự nhiên, những thành tựu mới nhất của nó đã khiến cho phương
pháp tư duy siêu hình cần phải được thay thế. Theo Ph. Ăngghen, sự phát triển của
khoa học tự nhiên, những thành tựu mới nhất của nó từ thế kỷ XVI trở đi cho thấy
tính tất yếu của tư duy biện chứng, và chứng tỏ rằng, trong tự nhiên không có
những phạm trù và những quan hệ bất biến. Cũng chính từ việc khẳng định về tính
tất yếu của tư duy biện chứng như đã nêu trên nó giúp chúng ta đi tới khẳng định:
phép biện chứng chính là cơ sở phương pháp luận đối với khoa học tự nhiên, giúp
các nhà khoa học khắc phục những hạn chế trong khi tiếp cận với các vấn đề lý
luận chung. Điều này đã được Ph.Ăngghen luận giải: “Phép biện chứng là một
hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại, bởi vì chỉ có

nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương pháp giải thích
những quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích những mối liên hệ
phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực
nghiên cứu khác”.





Trang 12

KẾT LUẬN

Mối liên hệ giữa triết học nói chung, triết học duy vật biện chứng nói riêng
với khoa học tự nhiên là một tất yếu có tính quy luật và ngày càng phát triển. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng luôn đặt cho mình nhiệm vụ phải khái quát những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên để làm sâu sắc thêm, phong phú thêm những
nguyên lý, những quy luật của mình. Và mỗi bước ngoặt của khoa học tự nhiên,
trước sự đổ vỡ của những nguyên lý cũ và sự ra đời của những phát minh mới thì
khoa học tự nhiên lại tìm thấy trong triết học duy vật biện chứng thế giới quan,
phương pháp luận đúng đắn, sắc bén để đi sâu nghiên cứu giới tự nhiên.
Cũng qua mối quan hệ tất yếu giữa triết học duy vật biện chứng và khoa
học tự nhiên em có được nhận thức chung nhất, đúng đắn nhất về thế giới quan,
những cơ sở lý luận, tư duy lý luận, thực tiễn cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng trong việc nghiên cứu khoa học của mình trên con đường phát triển khoa
học chung của nhân loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. TS. Bùi Văn Mưa; [2014], Sile, Lịch Sử Đại Cương Triết Học.
[2]. Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại Học Đà Nẵng-số 5(40);

[2010], Mối Quan Hệ Giữa Triết Học Duy Vật Biện Chứng Với Khoa
Học Tự Nhiên.
[3]. Các bài trên các Website truy cập ngày 1/7/2014:
 Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin/P1.I
 Về Mối quan hệ giữa Triết học và
Khoa học tự nhiên
 />khoa-hoc-2517.html

×