Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA T.KUHN VỀ CUỘC CÁCH MẠNG TRONG KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.22 KB, 8 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHÒNG ĐT SĐH-KHCN&QHĐN






QUAN ĐIỂM CỦA T.KUHN VỀ CUỘC CÁCH
MẠNG TRONG KHOA HỌC




Học viên thực hiện: Vũ Thế Nhân – CH1301030
Giảng viên phụ trách: TS.Bùi Văn Mưa



TP.Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2014
1. Giới thiệu đề tài
Thomas Samuel Kuhn sinh ngày 18 tháng Bảy năm l922 ở Cicinnati thuộc
bang Ohio, Mỹ, con của Samuel L.Kuhn, một kỹ sư công nghiệp và Minett
Strook Kuhn. Kuhn nhận bằng cử nhân vật lý tại Đại học Havard năm l943.
Năm l940, ông nhận bằng thạc sỹ và năm l949 nhận bằng tiến sỹ cùng tại
ngôi trường này. Theo gợi ý của hiệu trưởng Đại học Havard lúc bấy giờ là
James Conant, ông nhận giảng dạy môn Lịch sử Khoa học tại trường từ năm
l948 đến năm 1956. Sau khi rời Havard, Kuhn chuyển về Đại học California ở
Berkeley nhận giảng dạy cho hai khoa Triết học và Lịch sử Khoa học. Năm
l961 ông được phong hàm Giáo sư Lịch sử Khoa học, tại đây ông đã viết và
cho xuất bản (l962) công trình quan trọng và gây nhiều ảnh hưởng nhất của


mình: Cấu trúc các cuộc Cách mạng Khoa học. Năm 1964 ông chuyển sang
giảng tại Đại học Princeton với chức danh Giáo sư Triết học và Lịch sử Khoa
học trên ghế danh dự của M.Taylor Pyne. Năm l979, ông chuyển về Học viện
Công nghệ Massachusetts và giảng dạy tại đó với chức danh Giáo sư Triết
học và được ngồi vào ghế giáo sư danh dự mang tên Laurence S.Rockefeller
từ năm l983 đến năm l961. Ông tạ thế ngày 17 tháng sáu năm 1996 ở
Cambridge do căn bệnh ung thư phế quản. Ông từng kết hôn với Kathryn
Muhs, sinh hạ được ba người con, sau đó tái giá với Jehane Barton (Jehane
R.Kuhn).
Thomas Samuel Kuhn được từ điển triết học của Đại học Stanford đánh giá là
“một trong phẩm Cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học là một trong số
các đầu sách được trích dẫn nhiều nhất trong mọi thời đại”. Nghiên cứu lịch
sử phát triển của các ngành khoa học mà theo cách hiểu của ông chủ yếu là
khoa học tự nhiên, Kuhn đưa ra các qui luật mà ngay chính ông cũng không
ngờ là đã tác động mạnh và thậm chí làm thay đổi toàn bộ ngành khoa học xã
hội trong nửa sau của thế kỷ 20. Triết học cách mạng trong khoa học của
Kuhn cũng tương tự như qui luật lượng biến thành chất trong triết học Mác.
Cùng với Feyerabend (mất tháng Hai, 1994) và Popper (mất tháng Chín,
l994) có thể nói Thomas Kuhn là một trong ba khuôn mặt lớn nhất của triết
học khoa học cuối thế kỷ XX. Cũng như nhiều triết gia khoa học khác của thế
kỷ XX, Kuhn xuất thân là một nhà khoa học.
2. Quan điểm T.Kuhn
Trong công trình của mình, Kuhn lập luận rằng khoa học không phát triển
theo một đường thẳng, hoặc nói cách khác là không phát triển tuyến tính,
bằng việc tích lũy đều đặn tri thức mới, mà phải trải qua những cuộc cách
mạng luôn tái diễn, tức là phải trải qua những bước chuyển Paradigm, trong
đó có sự thay đổi đột ngột về bản chất của công việc tìm tòi và phát kiến khoa
học ở một lĩnh vực riêng. Nhìn chung, có thể chia khoa học làm ba thời kỳ.
Trước hết là thời kỳ tiền khoa học, khi khoa học chưa có cho mình một
Paradigm trung tâm, tiếp đến là thời kỳ của “khoa học chuẩn định”, thời kỳ

mà các nhà khoa học bỏ nhiều công sức để mở rộng và củng cố “mẫu hình”
thông qua việc giải các “bài toán đố”. Trong thời kỳ này, một kết quả sai lệch
với Paradigm không được xem như một chứng cứ nhằm loại bỏ Paradigm, mà
luôn được xem là lỗi lầm của nhà nghiên cứu (trái với quan niệm về tiêu
chuẩn phản nghiệm của Karl Popper). Khi những “dị thường” (anomaly)
được tích tụ ngày càng nhiều, khoa học sẽ đi vào thời kỳ “khủng hoảng”
(crisis) và vào thời điểm này, một Paradigm mới gộp chung cả những kết quả
cũ lẫn những kết quả “dị thường” vào một cơ cấu duy nhất sẽ ra đời và được
chấp nhận. Đó chính là “cách mạng khoa học”. Kuhn còn lập luận rằng không
thể đem các Paradigm đang tranh đua so sánh với nhau được, có nghĩa là
không thể hiểu được một Paradigm thông qua bộ máy khái niệm và thuật ngữ
của một Paradigm đang cạnh tranh khác. Theo Kuhn, việc nghiên cứu lịch sử
khoa học không chỉ nhằm giải thích sự năng động của các khoa học dưới góc
độ nhận thức mà còn phải xét đến các nhân tố xã hội. Tuy không phải là
người đầu tiên đứng trên lập trường này, nhưng tác phẩm Cấu trúc các cuộc
cách mạng khoa học của Thomas Kuhn nhìn chung được mọi người nhất trí
đánh giá như một bước ngoặt lớn và ông được coi như người sáng lập đích
thực của cách tiếp cận mới. Kuhn cho rằng về cơ bản khoa học không phát
triển liên tục thông qua tích lũy mà nó mang tính đứt đoạn. Những điểm đứt
đoạn này được gọi là “các cuộc cách mạng khoa học” mà theo Kuhn chúng
giống như sự đảo lộn cách nhìn của các nhà khoa học (cái mà các nhà tâm lý
học tự giác gọi là sự chuyển đổi hình trạng (gestal switch). Vào một thời điểm
tương ứng với những tín niệm xã hội nào đó được lấy làm chỗ dựa cho một
thế giới quan, nhà khoa học có một cảm quan lý thuyết đặc biệt, một cách
nhìn thế giới riêng. Cái đó thay đổi một khi thế giới quan thay đổi. Những
nhân tố ảnh hưởng tới cách nhìn sự việc của các nhà khoa học có thể được
phân tích và mô hình hóa trên cơ sở tri thức luận: về căn bản, đó là những
khủng hoảng xuất phát từ sự thất bại liên tục của họ trong việc cung cấp
những công cụ lý thuyết và thực nghiệm cần thiết để giải các “bài toán đố”
khoa học. Tuy nhiên, bên cạnh thành công và những đóng góp có giá trị

không thể chối bỏ, cũng là lẽ thường tình khi những phê phán nhằm vào Kuhn
kể từ khi cuốn sách dưới đây ra đời đã luôn chỉ ra những thiên kiến và những
sai lầm trong quan niệm của ông. Những phê phán đối với cuốn sách chủ yếu
cho rằng dường như nó đã gán cho khoa học quá nhiều màu sắc chủ quan và
phi duy lý, quan niệm về khoa học theo chiều hướng tương đối luận. Các nhà
tư tưởng hậu hiện đại và hậu cấu trúc cho rằng Kuhn đã cố chứng minh cho
sự phụ thuộc thái quá của tri thức khoa học vào văn hóa và hoàn cảnh lịch sử
của cộng đồng khoa học, mà quên đi khía cạnh nhận thức và phương pháp.
Theo cách nhìn ấy, Kuhn được coi là tiền thân của những tư tưởng độc đoán
hơn của Paul Feyerabend. Công trình của Kuhn còn được coi như đã góp
phần xóa nhòa đường phân ranh giữa khoa học và phi khoa học. Những người
phê phán quan điểm này của Kuhn mạnh mẽ hơn cả là Karl Popper và Imre
Lakatos. Trong khi các nhà hậu thực chứng logic phê bình Kuhn “nhân văn
hóa” khoa học quá mức cần thiết thì các nhà tư tưởng hậu hiện đại trong đó
có Feyerabend lại cho rằng Kuhn còn quá rụt rè trong việc “nhân văn hóa”
này. Gần đây còn có nhiều ý kiến phê phán Kuhn theo chiều hướng khác, coi
cuốn sách của ông đã thiên vị thế giới khoa học Âu - Mỹ hơi nhiều, hay nói
cách khác là mang nặng tư tưởng Âu châu Định tâm (eurocentrism). Ông đã
không biết đến những đóng góp có giá trị cách mạng của khoa học khối Arab
trong lịch sử cũng như không hề nhắc đến những thành tựu vĩ đại của khoa
học Trung Hoa trong quá khứ.

3. Quá trình nghiên cứu của Kuhn
Công trình của Kuhn là kết quả của 15 năm nghiên cứu, bắt đầu từ vị trí một
sinh viên tốt nghiệp ngành vật lý lý thuyết, sang nghiên cứu lịch sử khoa học
để phục vụ giảng dạy, và rồi đi theo tiếng gọi của triết học khoa học. Khi bắt
đầu có những ý tưởng đầu tiên về tác phẩm, Kuhn còn là một nghiên cứu sinh
về vật lí lí thuyết sắp hoàn thành luận văn của mình. Ông được giao thử
nghiệm dạy khoa học vật lí cho người không chuyên đã lần đầu tiên đưa
Kuhn đến với lịch sử khoa học. Những năm tháng đó đã đem lại cho Kuhn

nhiều ngạc nhiên thú vị, rằng việc tiếp xúc với lí thuyết và thực hành
khoa học lỗi thời đã làm thay đổi để một số quan niệm cơ bản của ông về
bản chất của khoa học và các lí do cho thành công đặc biệt của nó. Đó là các
quan niệm mà Kuhn đã rút ra một phần từ bản thân quá trình đào tạo khoa
học và một phần từ một sự ham thích có từ lâu với triết học khoa học, hiểu
như bộ môn triết học nghiên cứu các giả định, các cơ sở, và các ý nghĩa về
mặt triết học của khoa học. Kuhn nhận ra, dù tính hữu dụng sư phạm của triết
học khoa học và vẻ hiển nhiên trừu tượng của chúng thì các quan niệm này
không hề hợp với công việc mà nghiên cứu lịch sử mà ông thấy. Vậy những,
những quan niệm ấy đã và vẫn là cơ bản cho nhiều thảo luận về khoa học. Từ
đó, Kuhn chuyển từ nghiên cứu vật lí học sang lịch sử khoa học và triết học
khoa học. Cơ hội đầu tiên của Kuhn để theo đuổi sâu vào trong các ý tưởng
liên quan đến triết học khoa học đó là khi Kuhn trở thành nghiên cứu sinh Trẻ
của Hội các Nghiên cứu sinh của Đại học Hardvard. Kuhn nói rằng nếu
“Không có giai đoạn rảnh rang này thì hẳn không dễ gì chuyển sang một lĩnh
vực nghiên cứu mới”. Một phần lớn thời gian trong các năm đó Kuhn đã
dành thời gian cho nghiên cứu lịch sử khoa học. Đặc biệt, trong giai đoạn này
Kuhn đã nghiên cứu các tác phẩm của Alexandre Koyré và đầu tiên làm quen
với các tác phẩm của Emile Meyerson, Hélène Metzger, và Anneliese
Maiser. Từ việc nghiên cứu những tác phẩm này, Kuhn nhận thấy rõ hơn việc
“người đã tư duy khoa học như thế nào ở một thời đại mà các chuẩn mực tư
duy khoa học khác xa với các chuẩn mực của ngày hôm nay”, những tác
phẩm được Kuhn nghiên cứu giai đoạn này, đã giữ một vai trò hết sức quan
trọng – như là chủ đạo trong việc hình thành quan niệm của Kuhn về lịch sử
các ý tưởng khoa học. Phần lớn thời gian trong các năm ấy, Kuhn dùng để
khám phá các lĩnh vực ít có quan hệ rõ ràng với lịch sử khoa học nhưng trong
đó nghiên cứu ngày nay phơi bày ra các vấn đề giống các vấn đề mà lịch sử
đã làm cho ông chú ý, như một chú thích bắt gặp tình cờ đã dẫn ông đến các
thí nghiệm mà Jean Piaget đã làm sáng tỏ cả các cuộc đời khác nhau của đứa
trẻ đang lớn và quá trình chuyển tiếp từ một [cuộc đời] sang [cuộc đời] kế

tiếp.
Một trong các đồng nghiệp giới thiệu với Kuhn đọc các bài báo về tâm lí học
tri giác, đặc biệt các nhà tâm lí học phái Gestalt, đồng nghiệp khác giới thiệu
cho tôi những suy ngẫm của B. L.Whorf về ảnh hưởng của ngôn ngữ lên thế
giới quan, và W.V.O.Quine mở ra cho Kuhn các câu đố triết học về sự phân
biệt giải tích - tổng hợp (analytic - synthetic). Đó là loại khám phá có tính
ngẫu nhiên mà Hội các Nghiên cứu sinh cho phép, và chỉ qua đó mà Kuhn đã
có thể bắt gặp cuốn chuyên khảo hầu như không được biết đến của Ludwik
Fleck, Entstehung und Entwicklung einer wissenschaftlichen Tatsache
(Basel, 1935), một tiểu luận thấy trước nhiều ý tưởng riêng của Kuhn. Cùng
với một nhận xét của một Nghiên cứu sinh Trẻ khác, Francis X.Sutton, công
trình của Fleck đã làm cho Kuhn thấy rõ là các ý tưởng đó có thể cần được
đặt trong xã hội học của cộng đồng khoa học. Trong năm cuối với tư cách
một Nghiên cứu sinh Trẻ, một lời mời giảng cho Viện Lowell ở Boston đã tạo
cơ hội đầu tiên cho Kuhn để thử quan niệm vẫn đang phát triển của ông về
khoa học. Trong năm tiếp theo ông bắt đầu dạy lịch sử khoa học, và gần một
thập niên các vấn đề giảng dạy trong một lĩnh vực Kuhn chưa bao giờ nghiên
cứu một cách có hệ thống đã không để cho ông có nhiều thời gian cho trình
bày tường minh các ý tưởng đầu tiên đã kéo ông vào lĩnh vực đó.
Tuy vậy, các ý tưởng đó đã tạo một nguồn của định hướng ngầm định và của
cấu trúc - vấn đề nào đó cho phần lớn việc giảng dạy bậc cao hơn của ông sau
này. Giai đoạn hoàn thiện cuối cùng trong sự phát triển của tác phẩm “Cấu
trúc các cuộc cách mạng khoa học bắt đầu với một lời mời làm việc cho năm
1958-1959 ở Trung tâm Nghiên cứu Cao cấp về các Khoa học Hành vi
(Center for Advanced Studies in the Behaviorial Sciences). Lại một lần nữa
Kuhn có khả năng chú tâm hoàn toàn vào các vấn đề mình quan tâm và đặc
biệt hơn khi sống một năm trong một cộng đồng chủ yếu gồm các nhà khoa
học xã hội, Kuhn đã đối mặt với các vấn đề không được dự kiến trước về
những khác biệt giữa các cộng đồng như vậy với cộng đồng các nhà khoa
học tự nhiên mà trong đó ông đã được đào tạo. Đặc biệt, Kuhn bị ấn tượng

bởi số lượng và mức độ của các bất đồng không úp mở giữa những nhà khoa
học xã hội về bản tính của các vấn đề và các phương pháp khoa học chính
đáng. Từ những nghiên cứu trong giai đoạn này Kuhn không còn tin rằng
những người hành nghề khoa học tự nhiên có những câu trả lời vững chắc
hơn hay vĩnh cửu hơn cho các câu hỏi mình quan tâm so với các đồng
nghiệp khoa học xã hội của họ. Cũng trong giai đoạn này nhận ra vai trò trong
nghiên cứu khoa học của cái từ đó ông gọi là các “paradigm”. Paradigm được
Kuhn xem như là các thành tựu khoa học đã được công nhận một cách phổ quát
mà trong một thời gian cung cấp các vấn đề mẫu và các lời giải cho một cộng
đồng của những người thực hành. Và bản thảo đầu tiên của công trình được hình
thành “Một khi miếng ghép này đã khớp với chỗ của nó trong trò chơi ghép hình
của tôi thì ngay lặp tức bản thao của tiểu luận dưới đây đã nhanh chóng hình
thành”

. Với kiến thức cơ bản từ ngành khoa học tự nhiên mà phải làm việc trong
môi trường của các nhà khoa học xã hội, Kuhn đã chú ý đặc biệt đến phạm trù
paradigm tức là khái niệm do chính ông đặt ra để mô tả kết cấu của một ngành
khoa học, thay đổi theo thời gian. Khi xuất hiện các phản ví dụ, tức là những
trường hợp ngoại lệ đánh đổ giá trị của lý thuyết, mà Kuhn gọi là anomalies, thì
ngành học đi vào trạng thái khủng hoảng – crisis, kéo theo sự thay thế của một
hệ thống paradigm khác tạo ra cuộc cách mạng. Toàn bộ tư duy được xây dựng
từ những ngạc nhiên của ông khi còn là một nhà vật lý lý thuyết, tìm đọc tác
phẩm về vật lý của Aristoteles với nhân sinh quan được trang bị từ vật lý học
Newton, và phát hiện thấy hoặc là tiền nhân không biết gì về vật lý, hoặc ngược
lại, bản thân mình không hiểu những gì Arystotle trình bày. Tính cách mạng
được Kuhn phân tích kỹ trong tác phẩm về con đường khoa học của Nicolaus
Copernicus. Và cứ như thế, chính bản thân Kuhn cũng tạo ra khủng hoảng mang
tính cách mạng cho các ngành khoa học xã hội và nhân văn, để hôm nay các lý
thuyết gia trong ngành này không thể nào không đọc và không nhắc tới Thomas
Samuel Kuhn trong công trình của mình. Khái niệm paradigm trở thành thuật

ngữ quen thuộc được nhiều ngành học nhắc tới. Lý thuyết của ông cũng có thể
coi là cầu nối cho hai hệ thống ngành học vốn được coi là hoàn toàn khác nhau.
Thậm chí trước đó Kuhn còn không coi các ngành xã hội và nhân văn là khoa
học. Sau Kuhn, các nhà khoa học xã hội phải hướng tới các chuẩn mực mới để
xây dựng ngành của mình thành một bộ môn khoa học. Qua tác phẩm của Kuhn,
chuyên gia từ các ngành tự nhiên cũng dễ dàng tìm thấy con đường để cân chỉnh
và bước chân vào các ngành xã hội và nhân văn một cách chuyên nghiệp.
4. Tài liệu tham khảo
- Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học. Tác giả: Thomas Kuhn. Dịch giả:
Chu Lan Đình. NXB: Tri thức
-


×