Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tiểu luận Mối quan hệ giữa triết học và tin học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.21 KB, 11 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi được giảng viên truyền thụ những kiến thức cơ bản của môn Triết
học thông qua 4 chuyên đề bao gồm: các đặc trưng của triết học phương Tây,
triết học phương Đông và triết học Mác; tìm hiểu triết học Mác - Lênin trong giai
đoạn hiện nay và vai trò thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác
-Lênin; nhận thức được vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học
đối với sự phát triển khoa học và đối với việc nhận thức, giảng dạy và nghiên cứu
các đối tượng thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ; phân tích những
vấn đề về vai trò của các khoa học đối với đời sống xã hội. Kết hợp với việc đang
là giảng viên giảng dạy môn Tin học nên học viên quyết định chọn đề tài về
“Mối liên hệ giữa triết học và tin học” làm đề tài tiểu luận báo cáo môn học.
Đề tài sẽ đi làm rõ những kiến thức cơ bản liên quan đến triết học và tin
học, từ đó có thể rút ra được những mối liên hệ giữa triết học và tin học.Cụ thể là
triết học có ảnh hưởng đến sự ra đời và phát triển của tin học hay không?Nếu có
ảnh hưởng thì ảnh hưởng như thế nào?Tin học ra đời có đi trái lại với những kiến
thức mà triết học đã nghiên cứu hay không?Tin học phát triển như vũ bão trong
thời đại ngày nay có làm thay đổi những quan niệm triết học hay không?v.v…Về
phần bố cục đề tài gồm 3 phần trọng tâm đó là phần một đưa ra những kiến thức
cơ bản về triết học; phần hai đưa ra những kiến thức nền tảng về tin học và cuối
cùng là rút ra mối liên hệ giữa triết học và tin học. Để thực hiện đề tài học viên
có tham khảo các tài liệu như: Triết học - Đại cương lịch sử triết học; Giáo trình
Triết học Mác - Lê nin; Vai trò phương pháp luận của triết học Mác - Lê nin đối
với sự phát triển của khoa học tự nhiên; Triết học và bức tranh vật lý học về thế
giới; Bài giảng của giảng viên và các tài liệu khác liên quan đến tin học trên các
trang mạng.
Bài tiểu luận đã được học viên cố gắng đúc kết ngắn gọn, xúc tích.Trong
quá trình thực hiện không tránh khỏi những sai sót về lỗi chính tả cũng như nhận
thức, rất mong thầy quan tâm và chỉnh sửa để giúp học viên phát triển đề tài.
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
PHÒNG ĐT SĐH - KHCN&QHĐN


_________________________________________________________
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
MỐI LIÊN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ TIN HỌC
Học viên thực hiện : Đặng Thị Mỹ Hạnh - CH1301012
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa
Cảm ơn thầy vì đã truyền thụ những bài học quý báu và giúp học viên có
cảm hứng để thực hiện bài tiểu luận.
Để có thể làm rõ được mối liên hệ giữa triết học và tin học, đầu tiên cần phải
làm rõ triết học là gì?Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây vào
khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên tại một số trung tâm văn
minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Đã có rất nhiều cách
định nghĩa khác nhau về triết học, như:theo quan niệm truyền thống thì triết học
là môn học giúp con người nâng cao và sử dụng lý trí một cách hiệu quả để hiểu
thấu bản chất của vạn vật và hành động đúng đắn trong thế giới. Còn theo quan
niệm Macxit thì triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về
thế giới, về bản thân con người và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới
đó. Khái quát lại thì có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất
của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.Triết
học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn và nó có nguồn gốc nhận thức
cũng như nguồn gốc xã hội. Đối tượng nghiên cứu của triết học qua quá trình
phát triển có sự thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử. Cụ thể, ở triết học tự nhiên
của Hy Lạp cổ đại, quan niệm rằng triết học là khoa học của mọi khoa học; Thời
kỳ trung cổ, nền triết học tự nhiên bị thay bằng nền triết học kinh viện; Vào thế
kỷ XV, XVI nhờ phát triển mạnh mẽ của khoa học đã tạo một cơ sở tri thức vững
chắc cho sự phục hưng triết học. Đến thế kỷ XIX triết học Mác ra đời đã xác định
đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung
nhất chi phối sự vận động và phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy con
người.Đặc điểm của Triết học Mác - Lênin là sử dụng phép biện chứng duy vật;

thống nhất lý luận (khoa học) với thực tiễn (cách mạng); thống nhất tính đảng với
tính khoa học và là một hệ thống mở.Phép biện chứng duy vật được xây dựng
trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy
luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực.Trong hệ thống đó nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát
2
nhất.Thông qua việc tìm hiểu hai nguyên lý này, ta có thể làm rõ được khái niệm
mối liên hệ. Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các
mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Theo quan điểm chủ nghĩa
duy vật biện chứng thì mối liên hệ có ba tính chất cơ bản đó là: tính khách quan,
tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.Vì sao phải nghiên cứu về mối liên hệ?
Thứ nhất, vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang
tính phổ biến nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người
phải tôn trọng quan điểm toàn diện, phải tránh cách xem xét phiến diện. Quan
điểm toàn diện đòi hỏi khi nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua
lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp.
Bên cạnh đó, quan điểm toàn diện đòi hỏi phải biết phân biệt từng mối liên hệ,
phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu,
mối liên hệ tất nhiên, và chú ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ
để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong các hoạt động. Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm
toàn diện, khi tác động vào sự vật, không những phải chú ý tới những mối liên hệ
nội tại mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác.
Thứ hai, vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác
nhau, không gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan
điểm lịch sử - cụ thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi khi nhận thức về sự vật

và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi
trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.Thực tế đã cho thấy
rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ
không còn là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.
Tiếp theo, ta cần phải tìm hiểu khái niệm về tin học? Đối tượng nghiên cứu
của tin học là gì?Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia thì: “Tin học là một ngành
3
khoa học chuyên nghiên cứu quá trình tự động hóa việc tổ chức, lưu trữ và xử lý
thông tin của một hệ thống máy tính cụ thể hoặc trừu tượng (ảo)”. Với cách hiểu
hiện nay, tin học bao hàm tất cả các nghiên cứu và kỹ thuật có liên quan đến việc
mô phỏng, biến đổi và tái tạo thông tin. Trong nghĩa thông dụng, tin học còn có
thể bao hàm cả những gì liên quan đến các thiết bị máy tính hay các ứng dụng tin
học văn phòng.Về định nghĩa thế nào là tin học, Edsger Dijkstra đã tóm tắt bằng
câu sau đây: “Quan hệ giữa tin học với máy tính không khác gì quan hệ giữa
thiên văn học với kính viễn vọng”.Từ "Tin học" đã được dịch từ informatique
trong tiếng Pháp. Từ informatics trong tiếng Anh cũng bắt nguồn từ từ tiếng Pháp
này, nhưng theo thời gian informatics đã mang nghĩa khác dần với nghĩa ban đầu
và hầu như chỉ còn được dùng phổ biến tại châu Âu. Ngày nay, thuật ngữ tiếng
Anh tương đương với informatique là computer science, nghĩa là "khoa học về
máy tính". Từ định nghĩa về Tin học đã nêu trên, dễ dàng ta có thể xác định được
đối tượng nghiên cứu của tin học chính là thông tin và các công cụ sử dụng để
tương tác thông tin.
Cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử loài người đã diễn ra tương đối
nhanh. Chỉ trong khoảng thời gian từ năm 1890 đến năm 1920, điện năng, điện
thoại, radio, ôtô, máy bay đã được phát minh và đưa vào phục vụ cuộc sống con
người. Tiếp theo đó là sự ra đời của hành loạt thành tựu khoa học và kĩ thuật
khác, trong đó có máy tính điện tử. Cùng với việc sáng tạo ra công cụ mới là máy
tính điện tử, con người cũng tập trung trí tuệ từng bước xây dựng ngành khoa học
tương ứng để đáp ứng những yêu cầu khai thác tài nguyên thông tin. Trong bối
cảnh đó, ngành Tin học được hình thành và phát triển thành một ngành khoa học

với các nội dung, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu riêng và ngày càng có nhiều
ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người. Ngành Tin
học có những đặc điểm tương tự như những ngành khoa học khác nhưng cũng có
một số đặc thù riêng.Một trong những đặc thù đó là quá trình nghiên cứu và phát
triển các ứng dụng không tách rời việc phát triển là sử dụng máy tính điện tử.Tên
gọi của chiếc máy tính điện tử đầu tiên trên thế giới là “ENIAC”. Nó được thai
nghén trong khói lửa của đại chiến thế giới lần thứ hai, ra đời tại trường đại
4
họcPennsylvanianước Mỹ vào năm 1945. Máy tính điện tử đầu tiên trên thế giới
ra đời vào lúc này là do nhu cầu đòi hỏi bức thiết phải có công cụ tính toán nhanh
của thời chiến, cũng là do khi này đã tìm thấy "công tắc điện tử cao tốc”thích hợp
đó là đèn điện tử. Vì vậy máy tính điện tử ra đời dựa trên lý thuyết dòng điện làm
cơ chế hoạt động.Trong đại chiến thế giới thứ hai, hai phe đều sử dụng máy bay
và hỏa pháo bắn ác liệt các mục tiêu kinh tế và quân sự của đối phương, để giành
lấy ưu thế trên thị trường. Mà sử dụng cao xạ pháo để bắn máy bay địch, nếu
không tính toán chính xác sẽ khó bắn trúng. Vì thế, các pháo thủ đều muốn có
một “biểu đồ bắn”sử dụng thuận tiện, sau khi đo được độ cao, cự ly, tốc độ của
máy bay địch, vừa tra bảng đã có thể nhanh chóng xác định được góc độ phải có
của nòng pháo, khiến viên đạn bắn ra trúng vào máy bay địch trên không. Nhưng
thiết lập một “biểu đồ bắn”cần phải tính ra mấy nghìn số liệu của đường đạn, tức
là phải tính ra cự ly và độ cao ở những thời điểm khác nhau của viên đạn trong
những điều kiện thời tiết khác nhau, với góc độ của nòng pháo khác nhau. Mỗi
một số liệu này đều phải làm hàng nghìn lần bốn phép tính, lượng công việc tính
toán quá lớn. Mười mấy người dùng máy tính cơ giới quay tay phải mất vài
tháng mới có thể tính ra một “biểu đồ bắn”của các loại pháo lớn đều cần phải
tính cho ra thì phải dùng khoảng thời gian rất lâu.Nhu cầu của chiến tranh đang
cấp thiết thúc giục chiếc máy tính tốc độ cao gấp ngàn lần vạn lần sức người ra
đời.Năm 1941, giáo sư trẻ tuổi trường đại học Pennsylvania - Mosli đề xuất sử
dụng bóng điện tử tiên tiến làm “công tắc điện tử”thực hiện công tác đóng mở
nhanh để nâng cao tốc độ tính toán của máy tính. Ý tưởng này được Godestain

nhà toán học của "Phòng thực nghiệm nghiên cứu đạn đạo”nước Mỹ tích cự ủng
hộ.Giáo sư Mosli phụ trách thiết kế Logic, Kỹ sư Eigth (người Phần Lan) phụ
trách thiết kế mạch điện, Godestain hiệp đồng.Chiếc máy tính điện tử đầu tiên
trên thế giới được gọi là “Máy tính tích phân điện tử số” (Tiếng Anh viết tắc là
ENIAC) và thực hiện nhiệm vụ chính là "Tính toán đạn đạo”.Mỗi giây nó hoàn
thành được 5.000 phép cộng hoặc 3.000 phép chia, so với máy tính cơ giới quay
tay hoặc chạy điện đều nhanh gấp hàng nghìn lần. “ENIAC”là máy tính thập
phân song hành, có thể cùng một lúc xử lý số liệu hệ phân.Nhưng nó không có
5
khả năng lưu trữ chương trình, chương trình phải đưa vào qua một tấm mạch
điện ngoại tiếp.Mỗi khi thay đổi loại đề mục lại phải thiết kế lại bảng mạch điện
ngoại tiếp mới.Chiếc máy tính này có trọng lượng 30 tấn, chiếm chỗ 150m
2
, lắp
18.800 bóng điện tử, tiêu hao công suất điện đến 150 KW, phải liên tục thổi gió
hạ nhiệt độ và phải dừng một lúc để làm nguội.
Như vậy, bắt nguồn từ nhu cầu của con người mà chiếc máy tính điện tử đầu
tiên đã ra đời và cũng là điểm mốc để đánh dấu sự hình thành, phát triển của
ngành khoa học mới - Tin học. Trong thời đại ngày nay, Tin học đóng vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội loài người. Chính vì vậy, việc tìm hiểu mối liên
hệ giữa Tin học và Triết học là điều cấp thiết và phải được làm sáng tỏ.
Nếu như khẳng định triết học không ảnh hưởng gì đến sự ra đời của tin học
theo chủ quan của tác giả thì không hoàn toàn chính xác. Triết học đã ảnh hưởng
đáng kể đến sự ra đời và phát triển của tin học. Vào thế kỷ XV, XVI nhờ phát
triển mạnh mẽ của khoa học đã tạo một cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục
hưng triết học. Đến thế kỷ XIX triết học Mác ra đời đã xác định đối tượng nghiên
cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập
trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất chi phối sự vận
động và phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Tin học ra đời do
nhu cầu giải quyết mâu thuẫn của con người, và để giải quyết được mâu thuẫn thì

phải có cái mới được sinh ra, cái mới ra đời chứng minh được rằng tư duy con
người không chỉ dừng lại ở việc nhìn nhận thế giới khách quan, mà còn có thể cải
tạo thế giới khách quan. Tin học không tự nhiên sinh ra mà tin học sinh ra trên
nền tảng lý thuyết của các ngành khoa học khác như Logic học, toán học, xác
suất thống kê, v.v…Như vậy, Tin học ra đời phù hợp với nguyên lý mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý phát triển của phép biện chứng duy vật. Vai trò của triết
học đối với tin học là định hướng cho tin học phát triển hơn nữa. Chiếc máy tính
điện tử ra đời mặc dù đã giải quyết khó khăn về mặt tính toán của con người thời
bấy giờ, song do quy luật phát triển nên chiếc máy tính điện tử phải được cải tiến
để phù hợp với thực tế khách quan tiếp theo đó.
6
Ngày nay, khi tin học phát triển thì con người rất dễ có cái nhìn không đúng
đắn về vai trò của tin học trong đời sống. Nhiều quan niệm của giới trẻ ngày nay
là xem tin học là công cụ hữu dụng; là giải pháp giải quyết mọi vấn đề nảy sinh
trong đời sống. Bất kỳ một câu hỏi nào không có lời giải đáp ngay lập tức giới trẻ
sẽ tìm đến “Mr Google”, một vấn đề mâu thuẫn gì trong cuộc sống đều được chia
sẻ trên Facebook…Việc tuyệt đối hóa vai trò của tin học trong cuộc sống là sự sai
lầm trong nhận thức. Là một giảng viên giảng dạy tin học tại trường Đại học
CSND, bản thân thường xuyên trau dồi những kiến thức về xã hội, truyền đạt
không chỉ những kiến thức tin học chuyên ngành mà còn định hướng cho sinh
viên việc sử dụng tin học trở thành công cụ hữu dụng cho công tác sau này.
Chẳng hạn như, khi làm công tác hỏi cung bị can, hay lấy lời khai, chúng ta
không chỉ sử dụng những phương tiện công nghệ thông tin mà còn phải biết xem
xét thái độ, phân tích lời khai của bị can có gì mâu thuẫn hay không. Về mặt
phương pháp giảng dạy tin học, cũng cần phải thay đổi phương pháp truyền
thống, không nên áp đặt đối với những sinh viên không có khả năng cũng như
không có niềm đam mê với tin học. Như triết học đã làm rõ vai trò giữa vật chất
và ý thức, vật chất là cái có trước, vật chất quyết định ý thức. Nên trước hết để
sinh viên cảm thấy hứng thú với môn tin học, thì giảng viên nên có chế độ
khuyến khích bằng điểm để sinh viên bước đầu có động lực học, dần dần giảng

viên sẽ lồng những kiến thức chuyên ngành công an vào trong những ứng dụng
tin học để sinh viên nhận ra việc tin học không phải là thừa khi muốn trở thành
một chiến sĩ công an.
Cách đây hơn 2500 năm, Pitago (tác giả định lý Pitago nổi tiếng), nhà triết học
và toán học Hy Lạp đã nhận định: Bản chất mọi sự vật là con số…, mọi sự vật
sinh ra phù hợp với các con số. Bây giờ chúng ta nói cuộc sống số, thời đại số, số
hóa các quá trình v.v… cũng có thể coi là một sự minh họa cho tư tưởng triết học
của Pitago.Triết học duy vật biện chứng thì coi sự thống nhất, đấu tranh giữa các
mặt đối lập là nguyên nhân cơ bản của mọi sự vận động tạo nên thế giới vật chất
muôn màu muôn vẻ. Điều đó cũng tương đồng với lý thuyết âm dương trong
Dịch học, tương đồng với sự biến hóa đóng ngắt của các mạch điện điều khiển -
7
tạo nên cả thế giới ảo sống động như thật, hoạt động theo các lệnh điều khiển
được viết bằng các tổ hợp số nhị phân (01).Như vậy, có thể nói, tin học có thể
phản ánh mọi diễn biến của thế giới thật vào thế giới ảo của nó.Bản chất của tin
học ánh xạ bản chất của thế giới.Đây là điều khiến cho tin học không chỉ là một
ngành khoa học như các ngành khoa học khác vốn chỉ tác động vào một loại đối
tượng nhất định của thế giới trong điều kiện nhất định.Khi hiểu bản chất tin học
như vậy, ta không ngạc nhiên khi thấy nó đang và sẽ làm biến đổi nhanh chóng
cả thế giới, tạo ra cả một thời đại mới, thời đại của xã hội thông tin toàn cầu. Tin
học tạo ra biến đổi không chỉ về kinh tế mà cả về xã hội, chính trị, đạo đức, luật
pháp, tức là không chỉ tạo ra sự thay đổi trong kết cấu hạ tầng mà cả sự thay đổi
trong kiến trúc thượng tầng xã hội nữa.Cũng do vậy mà ngày nay, sẽ không có
một lĩnh vực nào có thể phát triển mà có thể tách rời tin học kể cả triết học. Với
tin học, người ta thấy tiên đoán của Các Mác: Tri thức khoa học trở thành lực
lượng sản xuất vật chất trực tiếp, đang trở thành hiện thực sống động. Nhưng
cũng do đấu tranh và thống nhất giữa hai mặt đối lập không bao giờ ngừng, nên,
hiển nhiên kỷ nguyên thông tin cũng sẽ đem lại những thách thức đáng kể, và để
tránh sai lầm khi sống trong xã hội thông tin hóa thì chúng ta nên có nhận thức
và hành động đúng đắn đối với tin học.Và muốn làm được điều này thì không thể

xa rời triết học, mà phải xem triết học như là công cụ định hướng.
Giữa triết học và tin học có những điểm tương đồng sau đây: Triết học và tin
học ra đời đều xuất phát từ nhu cầu nhận thức của con người nhằm phát hiện quy
luật của thế giới khách quan, phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người.
Khởi đầu của nhận thức triết học cũng là khởi đầu của nhận thức của các khoa
học cụ thể trong đó có tin học.Tin học không tồn tại tách rời triết học, và triết học
tồn tại để khái quát các tri thức tin học. Triết học và tin học đều là sự biểu hiện
năng lực tư duy của con người khi nó đạt đến một trình độ nhất định - tư duy lý
luận (năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa ) tức là nắm bắt cái
bản chất, quy luật của đối tượng nhận thức.
Bên cạnh những tương đồng trên thì triết học và tin học cũng có những điểm
khác nhau cơ bản: Về đối tượng nghiên cứu: triết học nghiên cứu những quy luật,
8
những mối liên hệ phổ biến trong toàn thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Tin
học nghiên cứu thông tin và các công cụ sử dụng để tương tác thông tin.Về
phương pháp nghiên cứu: Phương pháp triết học là phương pháp phổ biến như
phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình, kết hợp với những phương
pháp nghiên cứu chung (như phương pháp thống nhất giữa lịch sử và logic,
phương pháp phân tích và tổng hợp…).Phươngpháp nghiên cứu của tin học cụ
thể là dựa trên các phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích tổng
hợp…
Như vậy, việc tìm hiểu mối liên hệ giữa triết học và tin học giúp việc nhận
thức và đánh giá vai trò của tin học trong cuộc sống được đúng đắn hơn. Từ đó,
thấy được rằng trong thời đại thông tin, con người nên biết kết hợp chặt chẽ tri
thức triết học, tri thức tin học và tri thức thực tiễn để làm tiền đề cần thiết đảm
bảo thành công trong hoạt động cụ thể của mình.
9
KẾT LUẬN
Bài tiểu luận đã khái quát được những vấn đề cơ bản liên quan đến triết học,
cụ thể là khái niệm triết học, đối tượng nghiên cứu, sơ lược về sự ra đời và phát

triển của triết học, phương pháp được dùng trong triết học Mác - Lênin, làm rõ
được phạm trù mối liên hệ. Những kiến thức nền tảng liên quan đến tin học, làm
rõ khái niệm tin học, đối tượng nghiên cứu của tin học, nêu khái quát lịch sử ra
đời của chiếc máy điện tử - công cụ đánh dấu sự phát triển của ngành tin học. Từ
đó, rút ra được mối liên hệ giữa triết học và tin học.Cũng như rút ra được bài học
cho bản thân trong quá trình giảng dạy tin học trong trường Đại học CSND.
Khẳng định rằng, trong kỷ nguyên thông tin thì không nên tách rời triết học với
tin học vì triết học là công cụ định hướng để tin học có thể ngày càng phát triển.
Bài tiểu luận tham khảo một số tài liệu sau đây:
1. Triết học - Đại cương lịch sử triết học, Tiểu ban Triết học, Trường ĐH Kinh
tế TPHCM, 2010.
2. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn
giáo trình quốc gia , NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, 2012.
3. Vai trò phương pháp luận của triết học Mác – Lênin đối với sự phát triển
của khoa học tự nhiên, Nguyễn Huy Thông (chủ biên), NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
4. Triết học và bức tranh vật lý học về thế giới, Bùi Văn Mưa, NXB ĐHQG
TPHCM, 2007.
5. Tạp chí Triết học, GS, TS. Lê Hữu Tầng.
6. Giáo trình triết học Mác - Lênin, GS, TS. Nguyễn Ngọc Long, GS,
TS.Nguyễn Hữu Vui, Bộ Giáo dục - Đào tạo.
7. />option=4&CSDL=6&ID=10207&IDlinhvuc=1936
10
8. />11

×