Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CHU LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.36 KB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI

HỌC

THÁI

NGUYÊN
TRƯỜNG

ĐẠI

HỌC



PHẠM
NGUYỄN

ĐỨC

HẠNH
THẾ

GIỚI

NGHỆ

THUẬT

TRONG


TIỂU

THUYẾT

CỦA

CHU

LAI
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ
Mã Số: B2005 - 03 - 65
Thái Nguyên, 2006
TÓM

TẮT

KẾT

QUẢ

NGHIÊN

CỨU

ĐỀ

TÀI

KHOA


HỌC


CÔNG

NGHỆ

CẤP

BỘ
Tên đề tài: Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai.
Mã số: B 2005 - 03 - 65
Chủ nhiệm đề tài:
TS.

Nguyễn

Đức

Hạnh
Tel: 0280 857 229 DĐ: 0945 333 407
Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
Thời gian thực hiện: 2005 - 2006
1.

Mục

tiêu:
+ Khảo sát, phân lích, đánh giá thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu
Lai.

+ Khẳng định thành tựu, hạn chế và đóng góp của tiểu thuyết Chu Lai vào qu
á
trình đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết.
2.

Nội

dung

chính:
Chương 1 : Một số đặc điểm nổi bật của thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết
của
Chu Lai.
Chương 2: Cảm hứng nghệ thuật và kiểu nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết
của
Chu Lai.
Chương 3: Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết củ
a
Chu Lai.
3.

Kết

quả

chính

đạt

được:

Là tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy và học tập bộ môn Lý luận V
ăn
học cho giáo viên và sinh viên trường Đại học Sư phạm thuộc Đại học Thái Nguyê
n.
1
SUMMARY
Project title: The world of art in Chu Lai's novels
Code number: B 2005 - 03 -65
Coordinator: Dr. Nguyen Duc Hanh tel: 0280 857 229.
Implementing Institution: Thai Nguyen college of Education.
Durahion: From 2005 to 2006.
1.

Objectiver:
+ Find out the world of Art in Chu Lai's novels.
+ Insirt the progresser and some dis advantager of Chu Lai's novel in changin
g
the novel's art program.
2.

The

main

contents:
Chapter 1 : Some great featurer of world art in Chu Lai's novel's
Chapter 2: The feelings of art and a kind of characters in Chu Lai's novel's.
Chapter 3: The nalure and time of world art in Chu Lai's.
3.


Results

obtained:
This is department of ethnology's reference to research study, and teac
hing
literature subjecl for teachers and students at Thai Nguyen college of Education.
2
THẾ

GIỚI

NGHỆ

THUẬT

TRONG

TIỂU

THUYẾT
CỦA

CHU

LAI
A-

PHẦN

MỞ


ĐẦU:
I

-



do

chọn

đề

tài:
1. Trong văn xuôi Việt Nam đương đại, tiểu thuyết của Chu Lai là một hiện
tượng văn học nổi bật từ thập kỉ 80 của thế kỉ XX đến nay. Hàng loạt tiểu thuyết củ
a
Chu Lai ra đời dồn dập trong thời gian qua đã được bạn đọc yêu mến tìm đọc, được
các nhà nghiên cứu - phê bình văn học quan tâm nghiên cứu và đánh giá cao. Hàng
trăm bài phê bình văn học và một số luận văn thạc sĩ tìm hiểu tiểu thuyết của Chu L
ai
đã xuất hiện. Nhưng một công trình nghiên cứu toàn diện thế giới nghệ thuật trong t
iểu
thuyết của Chu Lai vẫn còn vắng bóng. Đây là lí do để chúng tôi thực hiện đề tài nà
y.
2. Nghiên cứu, đánh giá tác phẩm của một tác giả đã có vị trí ổn định trên văn
đàn đã khó khăn, tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật, đánh giá tài năng và khẳn
g
định những dấu hiệu phong cách của một tác giả mà hàng trình sáng tạo còn đang v

ận
động, biến đổi chưa hoàn kết thì còn khó khăn hơn. Chính vì thế, chúng tôi muốn g
óp
phần nhận diện một gương mặt văn xuôi đang hình thành phóng cách, có những tác
phẩm nóng hổi tính thời sự của cuộc sống hôm nay.
3. Nghiên cứu hành hình sáng tác của Chu Lai, chúng ta thấy các tiểu thuyết c
ủa
ông có sự vận động, biến đổi về thi pháp thể loại. Có thể coi đây là một hiện tượng
văn
học có tính điển hình, chứng minh cho quá trình vận động, chuyển đổi của tiểu thuy
ết
Việt Nam hiện đại từ mô hình tiểu thuyết sử thi sang mô hình tiểu thuyết phi sử thi.
Từ
đó, Chúng ta có cơ sở khoa học và sự đánh giá chính xác hơn thành tựu cũng như c
ác
hạn chế mang tính lịch sử của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
II

-

Lịch

sử

vấn

đề:
Tiểu thuyết của Chu Lai từ khi xuất hiện đến nay luôn được các nhà nghiên c
ứu
phê bình văn học quan tâm đặc biệt. Với khá nhiều bài báo chuyên khảo và luận vă

n
thạc sĩ nghiên cứu về sáng tác của Chu Lai nói chung và về tiểu thuyết của ông nói
riêng, nhiều phương diện trong thi pháp tiểu thuyết của Chu Lai đã được tìm hiểu,
đánh giá ở những mức độ khác nhau. Tập hợp phân loại và đánh giá các công trình
nghiên cứu ấy, chúng tôi thấy nổi bật lên năm vấn đề lớn đã được tìm hiểu sau đây:
1. Sự mở rộng và đi sâu vào đề tài chiến, tranh và người lính.
Phần lớn các sáng tác của Chu Lai, dù ít hay nhiều, đều khai thác đề tài chiến
tranh và người lính với cái nhìn sâu sắc, đau đớn và nhân bản. Các nhà phê bình vă
n
học đều khẳng định thành công của Chu Lai ở mảng đề tài này. Bùi Việt Thắng nhậ
n
xét: “Tiểu thuyết của Chu Lai giới thiệu nhiều vấn đề đáng quan tâm trên đề tài chi
ến
tranh với ý nghĩa như một đề tài lịch sử” [l02]. Nguyễn Hoà lại từ một tác phẩm cụ
thể
3
của Chu Lai mà khẳng định những phát hiện mới của nhà văn: "Với khúc bi tráng
mới
cùng Chu Lai muốn thể hiện cách nhìn của anh về chiến tranh qua những tình huốn
g bi
kịch để chiêm nghiệm xem con người đã làm thế nào để vượt thoát ra khỏi những tì
nh
huống bi kịch ấy ... ” [48].
2. Thành tựu ở đề tài số phận người tính thời hậu chiến: Có khá nhiều bài viết
về
vấn đề này và đều khẳng định lòng trung thực, sự dũng cảm và khả năng “đào sâu”
tận
cùng hiện thực của nhà văn phát hiện những "mảnh đời" còn khuất lấp, từ đó rút ra
những triết lí nhân sinh sâu sắc. Đó là Bùi Việt Thắng [101], Nguyễn Hương Gian
g

[42] , Hồng Diệu [29] , Nguyễn Thanh Tú [115] , Theo nhà văn Ma Văn Kháng, tiể
u
thuyết của Chu Lai đã “đối mặt trực tiếp với những vấn đề bức bối của đời sống xã
hội
hôm nay” [l17].
3. Vấn đề đổi mới quan niệm về hiện thực và con người.
Ở vấn đề này, chúng tôi bắt gặp ý kiểm của nhà phê bình Lê Thành Nghị; "Ch
u
Lai đã không ngần ngại đưa ra ánh sáng những điều lâu nay còn bị dấu kín" [85].
Trong luận văn, thạc sĩ "Tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới", tác giả Nguyễn Văn
Chung đã khẳng định Chu Lai "Từ cái nhìn sâu sắc về hiện thực chiến tranh" đã đi
đến
"cái nhìn đa diện về hiện thực thời bình”, từ "thân phận con người trong chiến tranh
"
đến "thân phận con người trong cuộc sống đời thường"v.v...
4. Vấn đề đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của Chu Lai.
Đây là vấn đề được các nhà nghiên cứu phê bình đề cập đến nhiều nhất. Đó l
à ý
kiến của GS. Phan Cự Đệ: Tiểu thuyết của Chu Lai "không chỉ đa dạng trong các
phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội t
âm,
“dòng ý thức”, “nghệ thuật đồng hiện ... ” [38]. Các ý kiến của Nguyễn Hương
Giang.
[42], Đỗ Văn Khang [118], Hồng Diệu [29]... cũng khẳng định những thành
công
trong vấn đề đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của Chu Lại.
Tác giả Nguyễn Thanh Tú nhận xét về thời gian nghệ thuật trong Cuộc đời d
ài
lắm và ăn mày dĩ vãng [115], Lý Hoài Thu lại phân tích đánh giá về không gian ngh


thuật và thời gian nghệ thuật trong Cuộc đời dài lắm [l15], Nguyễn Tiến Hải lại nhậ
n
xét về xung đột truyện trong tác phẩm này [l15].
Nhìn một cách khái quát toàn bộ tiểu thuyết của Chu Lai trong thời kì đổi mớ
i,
Nguyễn Văn Chung lại chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong "nghệ thuật thể hiện tro
ng
tiểu thuyết Chu Lai ở các phương diện: - Cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật,
ngôn ngữ và giọng điệu [LV.Th.s- Tiểu thuyết Chu Lai thời kì đổi mới].
5. Một số tồn tại trong tiểu thuyết Chu lai:
Chúng tôi thấy xuất hiện không nhiều ý kiến về vấn đề này. Trong Hội thảo ti
ểu
thuyết ăn mày dĩ vãng, các tác giả Hồng Diệu, Lê Thành Nghị, Thiếu Mai, ...
đều nhận
xét: Văn nhiều lời, ngôn ngữ đôi chỗ chưa thật chọn lọc, một vài chi tiết nghệ thuật
4
còn "thô"...
Nhìn chung, với năm vấn đề lớn kể trên, một số đặc điểm quan trọng trong th
i
pháp tiểu thuyết Chu Lai đã được đề cập đến. Nhưng nhiều vấn đề mới chỉ được "c
ày
xới" với những nhận xét mang tính khái quát mà chưa được chứng minh thấu triệt v
à
tường minh một công trình mang cái nhìn tổng thể về thế giới nghệ thuật trong tiểu
thuyết Chu Lai vẫn còn vắng bóng. Và đây là “khoảng trống” để chúng tôi thực hiệ
n
đề tài của mình.
III

-


Đối

tượng



phạm

vi

nghiên

cứu
Toàn bộ tiểu thuyết của Chu Lai được xuất bản từ 1979 đến 2005.
Đề tài tập trung khảo sát, đánh giá một số phương diện cơ bản nhất của thế gi
ới
nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai như:
- Kiểu nhân vật trung tâm
- Cảm hứng nghệ thuật
- Không gian và thời gian nghệ thuật
IV

-

Phương

pháp

nghiên


cứu:
1. Phương pháp phân tích tác phẩm văn học
2. Phương pháp nghiên cứu theo thi pháp thể loại tiểu thuyết
3. Phương pháp lịch sử
4. Phương pháp thống kê, so sánh...
V

-

Cấu

trúc

của

đề

tài:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, cấu trúc củ
a đề
tài gồm 3 chương:
1- Chương 1 : Hành trình sáng tác tiểu thuyết và quan niệm nghệ thuật về hiệ
n
thực và con người trong tiểu thuyết của Chu Lai.
2- Chương 2: Cảm hứng nghệ thuật họ ứng và tương giao với kiểu nhân vật tr
ung
tâm trong tiểu thuyết của Chu lai.
3- Chương 3: Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu L
ai.

5
Ch ương 1
HÀNH

TRÌNH

SÁNG

TÁC

TIỂU

THUYẾT



QUAN

NIỆM

NGHỆ
THUẬT

VỀ

HIỆN

THỰC




CON

NGƯỜI

CỦA

CHU

LAI.
1.

Hành

trình

sáng

tác

tiểu

thuyết

của

Chu

Lai:
Một hành trình đi từ mô hình tiểu thuyết sử thi đến mô hình tiểu thuyết "phi s


thi". Điểm qua hành trình sáng tác tiểu thuyết của Chu Lai từ 1978 đến nay, qua hàn
g
loạt tác phẩm xuất thiện dồn dập trên văn đàn của ông, chúng tôi tạm phân chia hàn
h
trình sáng tác ấy làm hai chặng đường tương ứng với hai mô hình tiểu thuyết có tín
h
kế thừa - tiếp biến:
1.1. Chặng đường thứ nhất với mô hình tiểu thuyết sử thi (1978 - 1985). Ở ch
ặng
đường này, chúng ta có thể điểm đến một số tiểu thuyết.
- Nắng đồng bằng (1978)
- Đêm tháng hai ( 1982)
- Út teng (1983)
- Gió không thổi từ biển (1985)
Mô hình tiểu thuyết sử thi hình thành và phát triển rầm rộ ở Việt Nam từ 194
5
đến 1975. Cấu trúc thể loại và đặc trưng nghệ thuật của nó đã được chúng tôi trình
bầy
khá kĩ trong chuyên khảo Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 - 1975 nhìn tư góc độ t
hể
loại. Có thể tóm tắt một số đặc điểm thi pháp thể loại nổi bật của thể loại tiểu thuyế
t
này:
- Cảm hứng sử thi là cảm hứng chủ đạo
- Thế giới nhân vật được xây dựng theo nguyên tắc phân tuyến - đối lập một
cách
tuyệt đối.
- Kiểu nhân vật lí tưởng là người anh hùng cách mạng trong chiến đấu và sản
xuất...

- Kết cấu lịch sử - sự kiện là phổ biến...
- Giọng điệu ngưỡng mộ ngợi ca là giọng điệu chủ đạo...
Các tiểu thuyết của Chu Lai sáng tác thời kì này nhìn chung vẫn là sự vận độ
ng
theo "quan tính" của "dòng chảy" tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975. Nhưng
cũng trong các tiểu thuyết ấy đã manh nha những dấu hiệu của loại hình tiểu thuyết
phi
sử thi sẽ nở rộ sau khởi điểm "Đổi mới" 1987.
1.2. Chặng đường thứ hai với mô hình tiểu thuyết phi sử thi (1986 -
2005).
Những dấu hiệu của loại hình tiểu thuyết phi sử thi đã xuất hiện ở chặng đường sán
g
6
tác trước nay kết tinh lại trong một cấu trúc - thể loại ổn định. Hai chặng đường sán
g
tác tiểu thuyết của Chu Lai là những minh chứng có tính điển hình cho quá trì
nh
chuyển đổi hệ hình tư duy nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại từ 1945 đế
n
nay. Những sáng tác của Chu Lai thời kì này mang hơi thở nóng hổi của cuộc sống
đương đại. Số phận người lính thời kì "Hậu chiến" trở thành một chủ đề lớn xuyên
suốt. Hình tượng người lính sau chiến tranh vượt tên trên thử thách và bi kịch mang
vẻ
đẹp bi tráng, có sức lay động và ám ảnh mạnh mẽ đối với người đọc. Có thể kể tên
hàng loạt tiểu thuyết của Chu Lai mang đặc điểm và sức mạnh lay động ấy:
- Sông xa (1986)
- Bãi bờ hoang lạnh (1990)
- Vòng tròn bội bạc (1990)
- Ăn mày dĩ vàng (1992)
- Phố (1993)

- Ba lần và một lần (2000)
- Cuộc đời dài lắm (2002)
- Khúc bi tráng cuối cùng (2004)
- Người im lãng (2005)
Qua hành trình sáng tác của Chu Lai, chúng ta có những minh chứng để khẳn
g
định: - hai mô hình tiểu thuyết sử thi và sử thi khác biệt nhau nhưng không loại trừ
nhau. Trong mô hình tiểu thuyết sử thi vẫn có những
đặc điểm được mô hình tiểu thuyết phi sử thi kế thừa, tiếp biến và phát triển.
Chúng tôi sẽ chứng minh cho luận điểm này ở các chương - phần tiếp theo.
2.

Khái

niệm

thế

giới

nghệ

thuật



thế

giới


nghệ

thuật

trong

tiểu

thuyết.
2.1. Khái niệm thế giới nghệ thuật:
Trong Từ điển Thuật ngữ văn học nhóm tác giả biên soạn đã định nghĩa về T
hế
giới nghệ thuật: " Khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật ( một tác ph
ẩm,
một loại hình tác phẩm, sáng tác của một tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật
nhấn ngạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng, được tạo ra theo các ngu
yên
tắc tư tưởng và nghệ thuật (...) khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính
độc
đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật có cội nguồn trong thế giới quan v
ăn
hoá chung, văn hoá nghệ thuật và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ" [1 - 201, 202]
.
Từ định nghĩa trên chúng ta có thể hiểu: thế giới nghệ thuật là toàn
bộ các
phương diện nội dung và hình thức nằm trong chỉnh thể thẩm mĩ, được xây dựng bằ
ng
một hệ thống nguyên tắc tư tưởng - nghệ thuật vừa bị chi phối bởi cá tính sáng tạo
của
người nghệ sĩ, vừa bắt nguồn từ thế giới quan, đặc điểm văn hoá và cảm hứng thời

đại
7
của thời đại ấy.
2.2. Khái niệm thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết:
Đây là khái niệm chưa được cắt nghĩa rành mạch và trọn vẹn trong bất cứ mộ
t
công trình lý luận văn học nào. Theo suy nghĩ còn hạn hẹp của chúng tôi: - thế giới
nghệ thuật trong tiểu thuyết vừa mang những đặc điểm chung của thế giới nghệ thu
ật
trong sáng tác văn học vừa có những đặc điểm riêng gắn với đặc trưng thể loại của
nó .
Đặc điểm riêng ấy là "chất văn xuôi" vừa trữ tình bay bổng vừa thô nhám xù xì như
chính cuộc sống đời thường đa dạng quanh ta, là tính khách quan được nhà văn cố t
ình
lạo ra như một "ảo giác nghệ thuật" nhằm thuyết phục người đọc, là khả năng mở r
ộng
"biên độ" không gian - thời gian nghệ thuật mà không một thể loại văn học nào có t
hể
sánh kịp, là sự quan tâm đặc biệt đến số phận con người đa
đoan và phức tạp trong dòng chảy lịch sử - đặc biệt là số phận những con ngư
ời
nhỏ bé, những "con người nếm trải" đắng cay rồi trưởng thành nhờ cuộc đời dạy bả
o...
Từ những khái niệm và giới thuyết kể trên, chúng ta có thể khẳng định sau kh
i
theo dõi sự chuyển đổi nguyên tắc tư tưởng nghệ thuật xây dựng mô hình hiện thực

con người trong tiểu thuyết của Chu Lai: - Có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ hệ thống
nguyên tắc tư tưởng - nghệ thuật của loại hình tiểu thuyết sử thi (ở chặng đường sá
ng

tác thứ nhất) sang hệ thống nguyên tắc tư tưởng - nghệ thuật của loại hình tiểu thuy
ết
"phi sử thi" (ở chặng đường sáng tác thứ hai của Chu Lai).
3.

Sự

chuyển

đổi

quan

niệm

nghệ

thuật

về

hiện

thực



con

người


trong

tiểu
thuyết

của

Chu

Lai.
3.1. Sự chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực.
3.1.1. Thế giới phân tuyến - đối tập "Địch - Ta" trong tiểu thuyết sử thi chuyể
n
sang thế giới phân tuyến - đối lập giữa các nhóm người và trong mỗi con người tro
ng
tiểu thuyết phi sử thi.
3.1.1.1. Mô hình thế giới phân tuyến - đối lập trong tiểu thuyết sử thi của Chu
Lai:
Ở chặng đường sáng tác thứ nhất, các tiểu thuyết của Chu Lai, dù độ đậm nhạ
t có
khác nhau ít nhiều đều xây dựng mô hình thế giới theo nguyên tắc phân tuyến - đối
lập
"địch - ta" của loại hình tiểu thuyết sử thi.
Trong hàng loạt tiểu thuyết sử thi hiện đại Việt Nam xuất hiện trước 1975 nh
ư:
Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Vùng trời (Hữu Mai ), Của biển (Nguyê
n
Hồng), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Bão biển (Chu Văn), mô hình thế giới phân tuyế
n -

đối lập "địch ~ ta" đã được xác lập rõ ràng. Các tiểu thuyết Nắng đồng bằng, Út Te
ng,
Đêm tháng hai, Gió không thổi từ biển của Chu Lai cũng xây dựng mô hình thế giớ
i
nghệ thuật theo nguyên tắc ấy. Trong tiểu thuyết Nắng đồng bằng của Chu Lai, chú
ng
ta bắt gặp một bức tranh hiện thực với hai mảng Tối - Sáng đang giao tranh dữ dội.
8
Bên địch là những đồn bốt, ấp chiến lược ngột ngạt, tăm tối và thác loạn. Trong đó,
các nhân vật phản diện xuất hiện như: - quận trưởng Xầm đen đúa, cố vấn Mĩ, sĩ qu
an
và binh lính Nguỵ... Tất cả đều được xây dựng theo nguyên tắc "Biếm hoạ" để t
rở
thành những con người - quỷ xấu xa. Đây cũng chính là nguyên tắc nghệ thuật rất p
hổ
biến trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975, một nguyên tắc được sử dụng đ

xây dựng các hình tượng nhân vật phản diện. Các nhân vật thằng Xăm (Hòn Đất củ
a
Anh Đức) Ba Phổ (Gia đình má Bẩy của Phan Tứ) Ba răng vàng (Rừng U Minh của
Trần Hiến Minh)... là những minh chứng cho nguyên tắc nghệ thuật ấy. Tương phản
với mảng hiện thực đen tối kia là mảng hiện thực bi hùng đang ngày một rực sáng c
hủ
nghĩa anh hùng cách mạng và niềm tin chiến thắng. Đó là căn cứ của trung đội Đặc
công vùng ven Sài Gòn, là những cánh rừng Trường Sơn bất khuất: ở đó, những ng
ười
anh hùng mang vẻ đẹp lí tưởng xuất hiện: - Linh, Năm Thuý, Sáu Hoà, Út Cò Ngẳn
g...
Nhưng ngay trong mô hình thế giới nghệ thuật phân tuyến - đối lập đậm chất
sử

thi này đã xuất hiện những dấu hiệu của chất tiểu thuyết đích thực. Nhữmg dấu hiệ
u
mới hé lộ này sẽ trở thành phổ biến trong các sáng tác ở chặng đường sau của Chu
Lai:
Đó là sự khốc liệt của chiến tranh với những cái chết nhuốm màu bi thảm:
Cái chết của Tùng, Ma Ngọc Lang, hành động tự sát của Toàn, cảnh xử tử út
Hạnh... Đó là sự oan ức của Linh từ bệnh quan liêu và duy ý chí của một số cán bộ
lãnh đạo cấp trên... Tất cả những tín hiệu này mới thấp thoáng xuất hiện như khúc
nhạc dạo đầu đề báo hiệu những cao trào sẽ bùng nổ sau đó.
3.1.1.2. Mô hình thế giới phân tuyến - đối lập trong tiểu thuyết phi sử thi của
Chu
Lai.
Khảo sát các tiểu thuyết xuất hiện ở chặng đường sáng tác thứ hai của Chu La
i,
chúng tôi thấy nguyên tắc phân tuyến - đối lập vẫn được sử dụng nhưng không dừn
g
lại ở sự phân chia địch - ta một cách cơ giới và hình thức. Khái niệm Địch và Ta cũ
ng
không còn ổn định và bất biến như
trước. Sự phân tuyến - đối lập xuất hiện giữa các nhóm người (ở bên địch cũn
g
như bên ta) và trong mỗi con người.
Trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, bức tranh hiện thực chiến tran
h
thời quá khứ được đan xen, lồng ghép với bức tranh hiện thực thời "Hậu chiến" tro
ng
hiện đại. Trong cả hết bức tranh hiện thực ấy, ranh giới phân tuyến vừa rõ ràng vừa
mong manh:- rõ ràng khi đối lập ta với địch trong quá khứ, người tốt và kẻ xấu tro
ng
hiện tại, mong manh khi trong mỗi con người cái tốt và cái xấu không phải bao giờ

cũng phân chia ranh giới rõ ràng. Ngay với nhân vật chính diện Hai Hùng - một mẫ
u
người hùng lí tưởng thời chiến, bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp của anh, ta còn b
iết
anh từng có những lúc muốn tự thương để rờn xa cuộc chiến, đã từng ăn cắp sữa củ
a
thương binh...
Với nhân vật lí tưởng Ba Sương cũng thế. Người con gái kiên trung tuyệt vời
9
trong chiến tranh lại sa ngã trong thời bình. Nhân vật phản diện Địch đến với Ba
Sương thực ra là đến với phần “đen đúa” tăm tối trong con người cô. Nhưng chính
với
cái nhìn con người ở cả hai phương diện con người công dân và con người cá nhân
như thế, nhân vật người anh hùng lí tưởng không còn xa cách, đơn giản một chiều

gần gũi hơn, người hơn, và cũng thật hơn.
Với sự phân tuyến - đối lập mềm dẻo và nhân bản như thế, ta bắt gặp các nhâ
n
vật chính diện và phản diện không phải bao giờ cũng có bản chất trùng khít với "Va
i"
của nó: - Phó bí thư huyện uỷ Ba Tiến lại hèn nhát; tên đại uý Tường lại nhân ái dù
vốn nhu nhược nhưng có lúc lại dũng cảm lạ thường khi cứu Ba Sương...Và như vậ
y,
với duyên tắc phân tuyến - đối lập xây dựng hệ mô hình thế giới nghệ thuật ở hai
chặng đường sáng tác của Chu Lai, chúng ta thấy chất sử thi ngày mờ nhạt đi cùng
với
kinh nghiệm cộng đồng, chất tiểu thuyết ngày một đậm lên cùng với sự chiếm lĩnh
vị
trí chủ đạo của kinh nghiệm cá nhân. Quá trình chuyển đổi quan niệm nghệ thuật nà
y

của Chu Lai có sự gặp gỡ và tương đồng với nhiều nhà văn khác: -
Nguyễn Minh Châu từ dấu chân người tính đến Bức tranh; Nguyễn K
hải từ
Chiến sĩ đến Gặp gỡ cuốií năm, Lê Lựu từ Mở rừng đến Thời xa lắng.v.v...
3.1.2. Cái nhìn phản ánh - miêu tả với chiến tranh dần chuyển sang cái nhìn h
ồi
ức - phân tích về chiến tranh:
Trong các tiểu thuyết của Chu Lai xuất hiện ở chặng đường thứ nhất, chất sử
thi
vẫn đậm nét dù chất tiểu thuyết đã manh nha xuất hiện. Hiện thực chiến tranh trở th
ành
đối tượng miêu tả, việc thay đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực sẽ dẫn đến sự th
ay
đổi cái nhìn về chiến tranh.
Trong các tiểu thuyết của Chu Lai ở thời kì này, kinh nghiệm cộng đồng và cả
m
hứng thời đại mang tính anh hùng ca trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt quan niệm ngh

thuật của Chu Lai. Quan niệm nghệ thuật quy định nội dung và định hướng cái nhìn
phản ánh - miêu tả về chiến tranh: - một hiện thực chiến tranh được tái hiện theo trụ
c
sự kiện - mà ở đây là các trận đánh. Hệ thống sự kiện nổi lên hàng đầu còn số phận
những người lính chỉ ở vị trí thứ hai. Họ tham gia vào các sự kiện và qua đó bộc lộ
phẩm chất hoặc anh hùng hoặc hèn nhát của mình. Trong tiểu thuyết "Nắng đồng
bằng" của Chu Lai, cốt truyện được triển khai theo dòng sự kiện: - Hành quân (tr.7)
;
Vượt sông (tr.19); Về đồng bằng (tr.29 - 33); Vào ấp chiến lược (tr.33-35); Đi lấy
gạo
bị thương vong (tr.39 - 5l); Đánh ổ phục kích Mĩ (tr.57 - 58)...Với hệ thống sự kiện
ấy,

nhân vật chủ yếu bộc lộ tính cách bằng ngôn ngữ và hành động, độc thoại nội tâm
cũng đã xuất hiện nhưng còn thưa thớt, đặc biệt các lời độc thoại nội tâm chủ yếu là
lời
nửa trực tiếp, giọng điệu của người trần thuật và giọng điệu của nhân vật luôn song
trùng, thống nhất với nhau, tính cách nào thì ngôn ngữ hành động và suy nghĩ như t
hế
ấy, không hề có sự so le khập khiễng như trong các tiểu thuyết ở chặng đường sáng
tác
thứ hai của Chu Lai. Nhân vật Linh với những phẩm chất anh hùng của mình đã luô
n
10
nói, làm và nghĩ như một người anh hùng. Chiến tranh được miêu tả như "ta muốn"

"ta cần" phải miêu tả sao cho phục vụ tốt nhất cho yêu cầu lịch sử, cho thắng lợi cu
ối
cùng, chứ không phải như những gì vẫn diễn ra trong hiện thực. Bởi thế, qua cái nh
ìn
phản ánh - miêu tả, bộ mặt chiến tranh hiện ra với sắc thái bi hùng, trong đó cái Hù
ng
được tô đậm lên, cái Bi được giảm nhẹ đi. Sự khốc liệt và đau thương của chiến tra
nh
đã được miêu tả, nhưng chiến tranh và số phận con người chưa được khám phá với
chiều sâu nhân bản cần có và phải có.
Ở các tiểu thuyết sáng tác trong chặng đường thứ hai của Chu Lai, với các vấ
n đề
trên, chúng ta gặp một quy định ngược lại. Cái nhìn hồi ức - phân tích lại tô đậm cá
i Bi
và giảm nhẹ cái Hùng của hiện thực chiến tranh. Thực ra, cả hai cái nhìn có phần c
ực
đoan ở hai chặng đường sáng tác của Chu Lai đều có phần chưa thoả đáng: "Khi cự

c
đoan mọi chân lý sẽ trở thành phi lí!". Khi Chu Lai khái quát rằng chiến tranh là "m
ột
luật chơi tàn bạo" [2 - 55] và "Chiến tranh không phải cái gì khác ngoài chuyện ngà
y
nào cũng phải chôn nhau mà chưa đến lượt chôn mình" [7], thì đó là những khái qu
át
từ sự thật chiến tranh mà nhà văn đã trải nghiệm. Nhưng sự thật ấy có thể điển hình
hoặc chưa điển hình. Mỗi người lính đều cảm nhận chiến tranh theo cách của riêng
mình. Và không phải tất cả những gì ta nhìn thấy, trải qua đều mang trong nó bản c
hất
của sự thật. Nếu khái quát vội vàng có thể sa vào tình trạng “Thầy bói xem voi”. Nế
u
mỗi người lính cách mạng chỉ chiến đấu vì: "tồn tại trên bản năng tự vệ quật cường.
Mình không giết nó thì nó giết mình" [7] thì tại sao dân tộc Việt Nam lại chiến thắn
g
trong cuộc chiến đấu không cân sức với tên Gôliát của thế kỉ XX là Đế cuốc Mĩ?. T
uy
nhiên, đó không chỉ là hạn chế của riêng Chu Lai mà còn là hạn chế của nhiều tác g
iả
viết về chiến tranh sau thời điểm "Đổi mới" 1987 như Bảo Ninh với Nỗi buồn chiế
n
tranh, Xuân Đức với Bến đò xưa lặng lẽ, Trần Văn Tuấn với Rừng thiêng
nước
trong...
Khi cái nhìn hồi ức - phân tích về chiến tranh thay thế cho cái nhìn phản ánh -
miêu tả, số phận người lính nói riêng - số phận con người nói chung trở thành "tâm
điểm", dòng chảy lịch sử ở thời điểm chiến tranh trở thành cái "nền" để từ đó nhà v
ăn
khám phá nỗi đau và sức mạnh của con người Việt Nam trước những thử thách của

cả
thời chiến tranh và thời “hậu chiến”. Những "mảng" hiện thực có được từ kinh nghi
ệm
cá nhân của nhà văn ( có thể là điển hình hoặc không điển hình) không còn phải né
tránh mà được phơi bầy trần trụi trên mặt giấy. Trong cảnh xử tử tên gián điệp út H
ạnh
[1,304 - 307], cây gậy trên tay Linh vung lên sắp quật vỡ đầu nó thì vướng vào càn
h
cây nên phải dừng lại. Thực ra "cây gậy" kinh nghiệm cá nhân của nhà văn đã vướn
g
phải "cành cây" chuẩn mực nghệ thuật của loại hình tiểu thuyết sử thi: - người anh
hùng cách mạng không được phép được miêu tả với hành động "phản thẩm mĩ" (dù

thật trong chiến tranh) như thế. Nhưng trong tiểu thuyết ăn mày dĩ vãng, nhân vật H
ai
Hùng đã ra lệnh cho Tuấn đập chết sáu tên chiêu hồi, tình báo Nguỵ: "Một trong sá
u ụ
đất ấy, trên bề mặt vẫn còn vương lại mấy lọn tóc dài của đàn bà (...) - con Phượng
11
hoàng tóc dày quá - Đập mãi không chết..." [3 - l99]. Cái nhìn hồi ức phân tích tron
g
loại hình tiểu thuyết phi sử thi đã khái quát một bộ mặt chiến tranh nói riêng, bộ mặ
t
cuộc sống nói chung phong phú đa dạng hơn, "thật hơn" theo góc nhìn từ kinh nghi
ệm
cá nhân của nhà văn. Trong tiểu thuyết Cuộc đời dài lắm của Chu Lai, cuộc chiến
tranh Biên giới 1979 đã được tái hiện trong hồi ức, không phải là cảnh chiến trận đẫ
m
máu mà là một kỉ niệm thấm đẫm nhân tính: - Vũ Nguyên và Bằng đã cố tình "phạ
m

luật, khi thả A linh - một nữ tù binh. Ranh giới Địch - Ta đã mờ đi bởi tình người.
Các
tiểu thuyết sử thi Việt Nam trước 1975 và các tiểu thuyết của Chu Lai ở chặng đườ
ng
sáng tác thứ nhất sẽ không chấp nhận tình tiết đó.
3.2. Sự chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về con người của Chu Lai:
3.2.1. Từ cái nhìn sử thi với con người "đơn phiến" chuyển sang cái nhìn tiểu
thuyết với con người lưỡng diện - đa tạp.
Trong loại hình tiểu thuyết sử thi Việt Nam hiện đại 1945 - 1975. Nguyên tắc
phân tuyến đối lập đã "chia đôi" thế giới nhân vật thành "hai nửa" chính diện và ph
ản
diện. Đó là những con người "đơn phiến" mang phẩm chất đạo đức định sẵn và bất
biến. Cơ sở để phân tuyến là ý thức hệ chính trị, là lập trường giai cấp. Bởi vậy, nhâ
n
vật chính diện nhất định phải tối đẹp. Nhân vật phản diện dứt khoát phải xấu xa. Cá
c
tiểu thuyết của Chu Lai ở chặng đường sáng tác thứ nhất tuy không "rập k
huôn"
nguyên tắc phân tuyến - đối lập ấy, chất sử thi không còn thuần nhất mà đã bắt đầu
"pha trộn" chất tiểu thuyết, nhưng các nhân vật trong tiểu thuyết ở thời kì này của C
hu
Lai vẫn là những con người "đơn phiến". Đọc Nắng đồng bằng, ta gặp những nhân
vật
thật tốt đẹp: Sáu Hoá, Linh, Thuý, Thanh, Út Cò Ngẳng... Tuy đã được cá thể hoá ở
ngoại hình, quê quán, cá tính, số phận...nhưng họ giống nhau ở nhân cách, ở tinh th
ần
cách mạng... Đó là những nhân vật thuộc kiểu nhân vật loại hình có đời sống tâm h
ồn
như những "Viên ngọc không tì vết", một vài nhược điểm nhỏ của họ (Tính nóng nả
y

của Linh, tật hay uống rượu của Sáu Hoá...) càng khiến họ đáng yêu hơn, người hơ
n.
Ngược lại, các nhân vật phản diện xấu xa cả ngoại hình lẫn nhân cách cũng luôn có
một phẩm chất xã hội duy nhất tương ứng với chức năng xã hội và chức năng văn h
ọc
của chúng: - tên quận trưởng Xầm đen đúa và tàn bạo, bọn lính Mĩ thú vật, lũ lính
Nguỵ hèn nhát, bạc nhược. Duy nhất nhân vật Kiêu từ chính diện chuyển sang phản
diện. Nhưng Chu Lai đã đưa ra hàng loạt tín hiệu báo trước cho người đọc về sự ph
ản
bội tất yếu của nhân vật này: - sự hèn nhát đã thành "truyền thống" ở Kiêu (Bỏ nhiệ
m
vụ, tìm cách bảo mạng trong một trận đánh, né tránh trước những nhiệm vụ nguy
hiểm...); ngoại hình với môi trên rất mỏng, nói năng dẻo quẹo mắt hay liếc ngang...
Ngoại hình của nhân vật Kiêu đã "tố cáo" bản chất của hắn.
Nhưng ở hàng loạt tiểu thuyết sau này như Phố, ăn mày dĩ vãng, Ba lần và m
ột
lần...cái nhìn tiểu thuyết đã thay thế cái nhìn sử thi để vẽ lên một thế giới mà trong
đó
con người đa đoan, cuộc đời đa sự đầy ắp cả hợp lí và phi lí. Kiểu nhân vật con ngư
ời
lưỡng diện - đa tạp xuất hiện như một hệ quả tất yếu của cái nhìn tiểu thuyết. Nhân
vật
12
Vũ Nguyên trong "Cuộc đời dài lắm" là một nhân vật chính diện mang tính lí tưởng
.
Vậy mà khi Vũ Nguyên còn là một người lính, anh đã làm ngơ cho Bằng thả tự do
cho
nữ tù binh A Linh. Khi đã là một giám đốc, Vũ Nguyên tuy đã có vợ vẫn yêu say đắ
m
Hà Thương. Trong loại hình tiểu thuyết sử thi, một cán bộ lãnh đạo cao cấp như Vũ

Nguyên không thể vi phạm kỉ luật quân đội và có những “vi phạm” về đạo đức lối
sống như thế. Nhân vật Tám Cọp (Ăn mày dĩ vãng ) là một chỉ huy dũng cảm lập ba
o
chiến công. Nhưng người anh hùng này lại có "bệnh" hay "vồ" phụ nữ. Các nhân vậ
t
xuất hiện với phẩm chất đạo đức không phải bao giờ cũng trùng khít với chính nó: -
Hai Tính cứa đứt dây võng để hại Sáu Nguyện vì thù hằn (Ba lần và một lần); Huấ
n
giết chết Trung đội trưởng Thành để trả thù riêng (Vòng tròn bội bạc)... Những con
người lưỡng diện - đa tạp này hoặc tha hoá trước thử thách hoặc "nếm trải" thử thác
h
rồi trưởng thành nhờ cuộc đời dạy bảo. Chính vì thế, họ trở thành nhân vật đích thự
c
của tiểu thuyết chứ không phải là nhân vật của các “Sử thi mới”.
3.2.2. Từ những người anh hùng - hợp thời trở thành những người anh hùng -
lạc
thời.
Đây không phải là phát hiện mới của Chu Lai. Nhiều nhà văn lớp trước và cù
ng
thời với Chu Lai đã phản ánh hiện tượng mang tính quy luật này. Những người anh
hùng rực rỡ vinh quang trong chiến trận, khi trở về với những thương tật cả trên thâ
n
thể và tâm hồn đã không dễ hoà nhập vào cuộc sống đời thường. Một số người trở l
ên
lạc lõng bơ vơ, vật vã trong cả bi kịch vật chất và tinh thần. Bảo Ninh trong Thân p
hận
tình yêu đã viết thật xúc động và ám ảnh về hiện tượng đó. Nhân vật Kiên cô độc đi
giữa cuộc đời với những vết thương khủng khiếp trong tâm hồn. Những ác mộng đ
êm
đêm kéo anh trở về với Trường gọi hồi, đồi Xáo thịt... đầy xác chết và máu. Tỉnh dậ

y
trong đêm, Kiên thấy gối đầm đìa nước mắt. Chiến tranh đã đi qua nhưng hậu quả c
ủa
nó để lại thật nặng nề và tàn bạo trên từng mảnh đất, từng số phận con người. Và
những người lính trở về đời thường đã trở thành những anh hùng - lạc thời hay nói
chính xác hơn là hết thời. Họ không thể tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn và hạnh
phúc trong cuộc sống.
Hoà vào “dàn đồng ca” hát bài hát bi thảm thời hậu chiến, Chu Lai đóng góp
giọng hát riêng của mình, làm phong phú và sâu sắc hơn những tìm tòi, khám phá v

thân phận người lính sau chiến tranh. Đó là số phận của Sáu Nguyện trong Ba lần v
à
một lần, Lãm với cuộc sống trên hè phố trong Phố và đặc biệt là Hai Hùng trong Ă
n
mày dĩ vãng. Người đội trưởng đội đặc nhiệm lừng lẫy một thời, người anh hùng tr
ận
mạc từng khiến kẻ thù khiếp sợ và gọi anh bằng cái tên "ác ôn Việt cộng", giờ đây t
rở
thành một kẻ ăn mày đặc biệt : - ăn mày dĩ vãng. Bản chất trung thực và thẳng thắn
của một người lính đã khiến anh không thể hoà nhập với mặt trái của cơ c
hế thị
trường. Ngoài 40 tuổi mà nhàu nát, già nua như ông già ngoài 50 tuổi, không gia đì
nh,
không nghề nghiệp, không tiền bạc, người anh hùng lạc thời ấy đi tìm Ba Sương, cũ
ng
là đi tìm quá khứ đẹp đẽ bi hùng của chính mình. Nhưng Ba Sương đã chết về phươ
ng
13
diện tâm hồn, nhân cách chỉ còn lại Ba Sương hôm nay đã hoàn toàn đổi khác về ti
nh

thần. Sự đánh tráo . thân xác ngày trước đã cho Ba Sương được sống. Nhưng sự đá
nh
tráo nhân cách hôm nay đã khiến cho Ba Sương "chết" thêm một lần nữa trong khát
vọng kiếm tìm dĩ vãng của Hai Hùng. Làm sao người đọc có thể quên hình ảnh Hai
Hùng - một ông già đứng khóc lặng lẽ một mình trong bóng chiều? Bên cạnh Hai
Hùng còn có số phận cô độc của Ba Thành, số phận của Tuấn - người lính trung thự
c
về với đời thường, hết lòng cho sự nghiệp xây dựng CNXH nhưng bị gạt ra khỏi
"chính trường" chỉ vì tư tưởng cục bộ và thói kì thị Bắc - Nam...
Trong tiểu thuyết Phố của Chu Lai, nhân vật Nam làm ta chợt nhớ đến trung t
á
Đông trong Mùa lá rụng trong lườn của Ma Văn Kháng. Cả Nam và Đông, hai trun
g
tá quân đội từng là anh hùng thời chiến tranh vệ quốc Nhưng họ đều ngơ ngác tron
g
đời thường đa tạp, lạc lõng và "Vô tích sự” ngay trong gia đình mình. Sức mạnh củ
a
đồng tiền trong thời đại cơ chế thị trường đã phá tan hạnh phúc của họ. Hai người lí
nh
anh hùng ấy đã chiến thắng trước quân xâm lược nhưng lại chiến bại ngay trong ng
ôi
nhà của mình. Nước mắt và rượu dìm họ vào bi kịch không lối thoát. Bi kịch tinh th
ần
của họ cũng là bi kịch của viên tướng già lạc lõng, cô đơn trong Tướng về hưu của
Nguyễn Huy Thiệp, của Giang Minh Sài trong Thòi xa vắng của Lê Lựu...của các n

thanh niên xung phong để lại tuổi trẻ và nhan sắc trong chiến tranh, trở về đời thườ
ng
với thương tật và hai bàn tay trắng, họ vào chùa làm Sư trong một bút kí nổi tiếng c
ủa

Minh Chuyên...
Số phận của bao anh hùng - lạc thời như thế sẽ mãi là nỗi đau nhức nhối tron
g
lương tri con người. Tiếng súng chiến tranh đã tắt nhưng tiếng vọng khủng khiếp củ
a
nó còn làm chảy máu và nước mắt của bao người lính từ chiến tranh trở về với nhữ
ng
"vết thương" trong tâm hồn. Có thể nói, từ sau "đổi mới" 1987, Chu Lai và một số
nhà
văn khác đã tạo ra một dòng văn học đặc biệt: - dòng văn học "Vết thương chiến
tranh"!
3.2.3. Thất vọng và hi vọng - hai “gam mầu” tối - sáng trên bức chân dung ng
ười
lính thời hậu chiến.
Bên cạnh những người anh hùng - lạc thời, những người lính lạc lõng hay bầ
m
dập trong bi kịch thời hậu chiến, chúng ta vẫn gặp trong tiểu thuyết Chu Lai những
người lính vượt lên và chiến thắng thử thách của đời thường - những thử thách khô
ng
kém phần ác liệt so với thử thách của chiến tranh. Có thể coi đó là những "gam mầu
sáng" đầy hi vọng xuất hiện bên những “gam mầu” tối thấm đậm nỗi đau và thất vọ
ng.
Với những hình tượng nhân vật khoẻ khoắn ấy, người đọc có quyền hi vọng rằng: -
những người lính giữ vững phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ đã dũng cảm chiến đấu và
chiến thắng ở chiến trường sẽ chiến đấu và chiến thắng ở "mặt trận không tiếng sún
g"
này.
Đó là nhân vật Lãm trong tiểu thuyết Phố của Chu Lai, người lính ấy từ cuộc
14
sống nghèo khổ vất vưởng trên hè phố đã vươn lên bằng nghị lực và danh dự của m

ột
người chiến sĩ. Lãm đã làm giầu chân chính rồi cưu mang những đồng đội cơ nhỡ k

khăn của mình. Anh sẵn sàng lấy cái chết của bản thân mình để cứu cho cái đẹp, cái
thiện không bị huỷ hoại. Cũng được xây dựng theo mô típ "xả thân vì lí tưởng" như
thế, Vũ Nguyên trong Cuộc đời dài lắm đã phấn đấu trở thành một giám đốc tài nă
ng
và liêm khiết, đem lại cơm áo và hạnh phúc cho hàng ngàn người lao động. Trong
khoảng giao thời còn đầy hỗn tạp, trong thời điểm đất nước đói nghèo đang vật vã t
ìm
đường đi lên, những người anh hùng kiểu mới tài năng và dũng cảm như Vũ Nguyê
n
cần thiết và đáng quý biết chàng nào! Cởi bỏ áo lính nhưng các anh vẫn giữ nguyên
trái tim người lính anh hùng lao vào cuộc chiến đau mới. Ở đoạn kết tác phẩm, chú
ng
ta gặp một kết thúc bi tráng: Vũ Nguyên ra tù, trở về lâm trường cao su yêu quý của
mình và tắt thở với nụ cười mãn nguyện trên môi. Vũ Nguyên chết nhưng sự nghiệ
p và
lí tưởng của anh không chết. Bởi vậy, bi kịch cuộc đời Vũ Nguyên là một bi kịch lạ
c
quan cho phép chúng ta tin tưởng, hi vọng vào tương lai tươi sáng.
Như vậy, với quá trình chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về thế giới
và con
người, qua hai chặng đường sáng tác tiểu thuyết của Chu Lai, chúng ta bắt gặp hai t
hế
giới nghệ thuật thuộc hai loại hình tiểu thuyết vừa liệu biến vừa đan xen vào nhau.
Đó
là mô hình thế giới nghệ thuật đậm chất sử thi ở chặng đường sáng tác thứ nhất. Đó

mô hình thế giới nghệ thuật đậm chất tiểu thuyết ở chặng đường sáng tác thứ hai. S


tiếp biến và tương gian giữa hai mô hình thế giới nghệ thuật này có tính điển hình,

qua đó, chúng ta nhân ra quá trình vận động và chuyển đổi thi pháp thể loại của tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, sự phân chia kể trên cũng chỉ mang tính tươn
g
đối và dựa vào những dấu hiệu nghệ thuật chủ đạo nhất. Bởi trong thế giới nghệ thu
ật
đậm chất sử thi đã thấp thoáng những tín hiệu "phi sử thi" (Ví dụ: Nắng đồng bằng
).
Trong thế giới nghệ thuật đậm chất tiểu thuyết thì "hồi quang" của vẻ đẹp sử thi kh
ông
ít lần vẫn rực sáng (Ví dụ: Khúc bi tráng cuối cùng).
Những đặc điểm nổi bật trong thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Chu Lai sẽ được
chúng lôi cụ thể hoá, khảo sát và đánh giá qua một số phương diện nội dung và hìn
h

×