Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.14 KB, 10 trang )

PHòNG GIáO DụC- ĐàO TạO HUYệN ĐạI LộC
TRƯờNG TIểU HọC TRịNH THị LIềN
.
SáNG KIếN KINH NGHIệM
SáNG KIếN KINH NGHIệM
MộT Số BIệN PHáP GIúP
MộT Số BIệN PHáP GIúP
HọC SINH HọC TốT MÔN TậP LàM VĂN LớP
HọC SINH HọC TốT MÔN TậP LàM VĂN LớP


2
2
Đ
Đ


ề tài:
ề tài:















I/ TÊN Đề TI: MộT Số BIệN PHáP GIúP HọC SINH HọC TốT
MÔN TậP LàM VĂN LớP 2
II/ ĐặT VấN Đề:
- Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, nó giúp học
sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những ứng
1
xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dỡng những tình
cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
- Để làm đợc một bài tập làm văn, học sinh cần phải huy động các kiến thức
về tập đọc, từ và câu, về những kiến thức đã học, về môi trờng xung quanh,
về vốn hiểu biết, nói chung môn tập làm văn đòi hỏi là tổng hợp các kiến
thức mà học sinh đã học đợc ở các phân môn tiếng việt khác. Bởi vậy, tập
làm văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp.
- Tập làm văn còn mang tính hiện thực sáng tạo vì một bài tập làm văn thể
hiện sự suy nghĩ, t duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của mỗi học
sinh.
- Khi dạy một bài tập làm văn, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh thụ
động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh khá giỏi là hoạt động
hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn, diễn đạt
lủng củng, ý tởng nghèo nàn Nói đã khó, viết càng khó hơn. Do đó, sau một
thời gian giảng dạy, tôi suy nghĩ nên làm cách nào để giúp các em hứng thú
khi học môn này. Chính vì vậy nên tôi chọn đề tài: MộT Số BIệN
PHáP GIúP HọC SINH HọC TốT MÔN TậP LàM VĂN LớP 2
III/ CƠ Sở Lý LUậN :
- Phân môn TLV trong nhà trờng giúp HS hình thành năng lực và thói quen
viết đúng, văn hoá, tiếng Việt chuẩn mực. ở bậc tiểu học, phân môn tập làm
văn càng có vị trí quan trọng. Bởi vì, giai đoạn tiểu học là giai đoạn then
chốt trong quá trình hình thành kĩ năng viết văn cho HS. Phân môn này có

nhiệm vụ giúp HS nắm vững các qui tắc và hình thành kĩ năng viết hoàn
chỉnh một câu. Ngoài ra, phân môn tập làm văn còn rèn cho HS một kĩ năng
sống,biết giao tiếp với ngời lớn,dùng ngôn ngữ đối xử với bạn bè.
- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc, phục vụ cho học
tập giao tiếp cụ thể là giúp các em :
- Nắm đợc các nghi thức lời nói nh : chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin
lỗi, nhờ, cậy, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành, từ chối, chia vui,
chia buồn, Biết sử dụng chúng trong một số tình huống giao tiếp ở gia
đình, trong trờng học và nơi công cộng
- Nắm đợc một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày nh
khai bản tự thuật ngắn, viết những bức th để nhắn tin, chia vui hoặc chia
buồn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sách học sinh, tra mục lục
sách, đọc thời khoá biểu, đọc và lập thời gian biểu
- Kể một sự việc đơn giản, tả sơ lợc ngời, vật xung quanh theo gợi ý bằng
tranh, bằng câu hỏi.
- Nghe hiểu đợc ý kiến của bạn, có thể nêu ý kiến bổ sung nhận xét.
IV. CƠ Sở THựC TIễN :
2
Tình hình thực tế của lớp:
- Qua thực tế bài làm của học sinh tôi thấy chất lợng bài viết của học sinh
cha cao, một số em có chịu khó tìm tòi, suy nghĩ, chọn lọc để viết ra những
câu văn nhng cha có nhiều sáng tạo . Còn lại phần lớn bài làm của các em có
bố cục cha cân đối, mang tính liệt kê các chi tiết, bộ phận một cách đơn giản.
Trình tự cha hợp lí, chọn lọc chi tiết cha tiêu biểu, đặc sắc, thiếu từ ngữ , học
sinh thiếu sự tởng tợng, ít cảm xúc về đối tợng , cách diễn đạt cha mạch lạc.
Đa số học sinh còn lạm dụng quá nhiều vào bài văn mẫu, đặc biệt là học sinh
hiểu nhng lại không diễn đạt đợc . Nhiều học sinh khi làm bài văn cảm thấy
khó, thấy bí, thấy không biết viết gì, nói gì , một số em thờng ngại làm văn
hoặc chỉ làm cho xong mà không cần biết bài viết của mình đúng hay sai,
thiếu hay đủ.

- Học sinh còn luyện tập quá ít, các kĩ năng cha hình thành nhng vẫn cứ phải
sử dụng vào viết văn. Vì thế gây ra nhiều loại lỗi không đáng có
Qua khảo sát chất lợng đầu năm đối với môn tập làm văn, kết quả cụ thể nh
sau:
Lớp Sĩ số Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu
2A 34
SL TL SL TL SL TL SL TL
2 5,9% 5 14,7% 8 23,5% 19 55,9%
V. NộI DUNG NGHIÊN CứU :
1. Giới hạn của đề tài:
- Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng kiến kinh nghiệm
nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy học kiểu bài
văn dành cho học sinh lớp 2 nhằm giúp học sinh nâng cao chất lợng khi làm
bài văn. Đây là một trong những kiểu văn trọng tâm trong chơng trình tập
làm văn ở Tiểu học nói chung và phân môn tập làm văn ở lớp 2 nói
riêng.Việc giúp học sinh học tốt môn tập làm văn là điều tôi mong muốn các
em làm đợc bài văn ở các lớp trên sau này.
* GV định hớng cho học sinh biết cách quan sát đối tợng .
* Bồi dỡng cho học sinh tâm hồn nhạy cảm và giàu cảm xúc.
* Bồi dỡng vốn từ và giúp học sinh biết lựa chọn từ ngữ và sử dụng một số
biện pháp đã học vào việc viết văn.
* Giúp học sinh biết thể hiện tính sinh động và tạo hình trong bài văn.
* Giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc và tính chân thực trong bài văn .
* Giúp học sinh biết cách sáng tạo khi viết văn.
2. Các biên pháp tổ chức thực hiện
1/ Nghi thức lời nói :
3
- Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàng ngày.
Tuy nhiên , có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ít
nói. Bởi vậy, giáo viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em

nhút nhát nói ra những điều mà các em suy nghĩ trong đầu. Có thể là
sắm vai, có thể là trò chơi hay thi đua cùng nhau mỗi em có một suy
nghĩ khác nên lời nói cũng khác, giáo viên cứ để các em tự do bộc lộ
nhng giáo viên cũng nên thống nhất những điểm chung sau :
Đại từ xng hô với đối tợng của bản thân mình phải phù hợp.
Thái độ , cử chỉ, lời nói phải phù hợp với tình huống.
Lịch sự, tự nhiên khi nói cũng nh khi viết .
a/ Chào hỏi, tự giới thiệu, xin lỗi, mời nhờ, yêu cầu, đề nghị, chia buồn,
khen ngợi, chia vui
- Đây là những câu nói thờng ngày các em giao tiếp. Đa số các em đã
biết nói. Tuy vậy, để các em có thể nói rõ ràng, rành mạch hơn giáo
viên nên cho các em nhập vai bằng cách giao cho học sinh những tình
huống cụ thể
- Ngoài ra, giáo viên nên lu ý thái độ của học sinh khi nói với từng đối
tợng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có những đại
từ xng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện cũng khác tùy tình
huống vui hay buồn.
- Khi nói và viết lu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm để câu
văn thể hiện sự lễ phép, lịch sự nh : nhé, nha, a
b/ Đáp lời chào, đáp lời cảm ơn, xin lỗi, từ chối, chia vui
- Tất cả những lời đáp trên rất hay gặp trong đời sống nhng các em lại
rất ít nói, có em chẳng hề nói nên các em thấy hơi xa lạ. Thế nên, giáo
viên không chỉ dạy thực hành trong tiết học mà còn phải giáo dục các
em mọi lúc mọi nơi với một thời gian dài.
- Đối với lời đáp này các em thờng ngại ngần không muốn nói nên giáo
viên cần cho các em sắm vai. Quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho
các em nắm rõ tình huống vì khi viết các em hay lầm lẫn giữa lời đáp
và lời nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì đã làm dơ áo em. Các em
có thể bị lầm và nói là : - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn.

Nguyên nhân là do các em cha đọc kỹ đề, sự suy xét của các em còn
non nớt. Bởi vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kỹ đề bài. Đặt
mình vào tình huống của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có
vậy, các em mới không bị lầm lẫn.
- Ngoài ra giáo viên cũng cần lu ý các em về thái độ lời nói với từng đối
tợng tơng tự phần a .
4
c/ Nói và đáp lời khẳng định, phủ định:
- Có lẽ dạng này đối với các em tơng đối dễ, các em chỉ cần nói có hoặc
không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải thích cho các em thuật ngữ khẳng
định, phủ định. Vì nếu không giải thích, các em chỉ làm theo mẫu
trong sách giáo khoa mà không thể phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh. Còn nếu ta giải thích thì khi vừa gặp dạng bài này các
em sẽ tự giác hiểu và làm bài tốt.
- Riêng về đáp lời khẳng định, phủ định thì trong đời sống hàng ngày
các em ít khi nói. Bởi vậy giáo viên cần cho các em thực hành và sắm
vai. Ngoài ra, cần lu ý tình cảm thể hiện qua thái độ.
Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ
định thể hiện sự tiếc nuối. Có thế thì ngời nghe mới hiểu đợc tình cảm
của mình.
- Mặc dù đây là những kỹ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng
ngày nhng các em lại ít đợc tiếp xúc. Bởi vậy, giáo viên cần cho các
em thấy một cách trực quan, thật rõ ràng. Khi dạy bản khai tự thuật,
danh sách học sinh, mục lục sách, thời gian biểu. Giáo viên phải có
một bản mẫu thật to để các em đợc nhìn và nghiên cứu. Giáo viên
phải chỉ rõ cách xem, cách lập, từ đó các em mới biết cách sử dụng
những kiến thức đã học đợc mà áp dụng vào cuộc sống hàng ngày.
d/ Bản khai tự thuật
- Các em chỉ cần điền từ vào bản khai nên điều giáo viên cần lu ý nhất
là khi cho các em chuẩn bị tr ớc ở nhà những thông tin về lý lịch bản

thân. Lúc này cũng rất cần sự quan tâm của phụ huynh thì học sinh
mới làm bài tốt đợc. Đặc biệt, giáo viên cần nhắc nhở thờng xuyên về
việc các em cần viết hoa các từ cần thiết nh : tên riêng, tên địa phơng,
có những em cha nắm đợc cách viết hoa chữ cái, có những em viết sai
chính tả tên địa ph ơng. Vì bài này nằm ở đầu chơng trình nên học
sinh còn cha có thói quen.
e/ Viết tin nhắn, bu thiếp
- Khi gặp dạng bài này các em rất ham thích. Giáo viên nên tận dụng
điều này để giúp học sinh nắm bố cục của bài là đầu tiên phải có thời
gian, địa điểm, có nội dung tin nhắn và cuối cùng là ký tên Ngoài ra,
giáo viên có thể cung cấp thêm một số hình ảnh để ngời đọc tin nhắn
thêm vui vẻ.
Ví dụ: Khi nhắn tin cho ba mẹ là con đi học nhóm, các em có thể vẽ
thêm một cây bút, một quyển vở
5
g/ Nhận và gọi điện thoại
- Trong thời đại ngày nay, việc nhận và gọi điện thoại là quá quen thuộc
với học sinh. Do đó, các em nói rất dễ dàng. Tuy nhiên khi viết các em
gặp nhiều trở ngại vì các em cha nắm đợc khi nào là bản thân mình
nói, khi nào là ngời đầu dây bên kia nói. Bởi vậy, khi các em viết ra sẽ
nhầm lẫn và sai sót. Nên giáo viên phải giúp các em xác định nhân vật
. Có thể giúp các em hứng thú hơn bằng cách các em chuẩn bị những
chiến điện thoại, cho các em sắm vai, đọc kỹ đề và tởng tợng mình là
nhân vật. Có thế khi các em viết mới không bị nhầm lẫn.
2/ Viết đoạn văn
- Đây là dạng bài nòng cốt trong môn tập làm văn. Nó đòi hỏi ở ngời
học sinh vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi mắt quan sát tinh
tờng, óc tởng tợng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy, khi dạy dạng bài này
giáo viên cần nắm rõ tâm lý tuổi học sinh. ở lứa tuổi này học sinh
nhìn nhận sự vật thế nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em

rất tỉ mỉ quan sát, có em rất hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi
con muốn tả bất cứ cái gì thì các con phải hiểu rõ về cái đó. Con phải
tìm hiểu thông tin về cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cô hay
quan sát thực tế qua môn tự nhiên xã hội, qua đọc sách, đọc báo,
Giáo viên cần phối hợp nhiều phơng pháp và hình thức dạy sao cho
bảo đảm với mục tiêu.
- Giáo viên yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện t -
ợng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua
thực tếm đôi khi tôi cho các em một bài tập tả một con vịt, có em bảo
là con cha bao giờ nhìn thấy con vịt thật. Quả đúng nh vậy, vì các em
đợc sinh ra và lớn lên ở thành phố nên các em không nhìn thấy con vịt
là cũng đáng. Bởi thế giáo viên cũng cần su tầm những phim ảnh để có
thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát vật thật, tham quan dã
ngoại hoặc vào dịp tết các em hay đợc ba mẹ cho đi tham quan tắm
biển, nhân đó, giáo viên có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý t-
ởng cho tập làm văn tả cảnh biển.
- Để các em có thể làm đợc một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ
phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhng cha biết vận
dụng. Có em thì có rất ít hoặc cha hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là
ngời cung cấp.Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có
6
khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có
những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó.
- Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ
ý và chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn. Từ
đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ sau
này vận dụng. Ví dụ : qua bài Tôm Càng và Cá Con học sinh rút ra đ-
ợc đoạn văn tả về chú Cá Con trong bài Con vật thân dẹt, trên đầu
có đôi mắt tròn xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh. Vốn
từ còn có trong phân môn luyện từ và câu. Giáo viên có thể cho các em

chơi trò chơi, thi đua tìm từ ngữ tả về chú cá. Các em sẽ rất hứng thú
và tìm đợc rất nhiều từ.
- Tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3 phần : mở bài
(giới thiệu), thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm) và lập sơ đồ trớc
khi làm tập làm văn. Tôi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua một
trò chơi em và chú gà nh sau . Ví dụ : Khi tả một chú gà, giáo viên
cho hai em lên sắm vai, một em là chú gà, một em là ngời tả. Cùng lúc
đó, giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở nháp.
Ngời tả sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà nhà em có nuôi một
chú gà
Còn chú gà thì vừa nói vừa diễn tà : tôi có bộ lông nhiều màu sắc.
Tôi có cái màu trên đầu. Tôi gáy rất to
Ngời tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà : Em th-
ờng rải thóc cho gà ăn
Hoặc có thể tinh giảm em ngời tả chỉ cần một em sắm vai chú gà.
- Sau khi nghe tả và quan sát xong các em thành lập ra một sơ đồ nh sau
:
7
Chỳ g nh em
Mo
Lụng nhiu mu
Gỏy to
n thúc
Em yờu mn chỳ g
Con g
- Từ đó các em đã nắm đợc đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển
thành một đoạn văn. Hoặc ta có thể cho em hình thành một đoạn văn
qua trò chơi tiếp sức.
- Từ sơ đồ mạng đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo
thành câu, cứ thể nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn. Trong lúc

đó, giáo viên có thể ghi lại trên bảng, thế là đã có bốn đoạn văn mẫu.
Có thể câu văn lúc ấy còn lủng củng nhng ta có thể sửa chữa.
- Trong phần giới thiệu, ta có thể gặp trờng hợp sau :
Ví dụ : học sinh thành lập câu Nhà em có nuôi một con gà. Ta có
thể lu ý rằng câu của con đúng nhng cha hay và có thể bị trùng lắp với
các bạn khác. Vậy con hãy thành lập một câu khác sao cho vừa giới
thiệu đợc chú gà, vừa lồng tình cảm của con vào để ngời đọc cảm thấy
thích thú nh câu Chú gà trống tía nhà em trông mới oai vệ làm
sao ! hoặc Ôi! Chú gà con nhà em sao mà ngộ nghĩnh quá!
- Trong phần nội dung (quan trọng nhất) giáo viên luôn nhắc nhở học
sinh rằng nội dung thờng có hai phần đó là : tả hình dáng và tả hoạt
động của con vật. Đây chính là lúc giáo viên phải khai thác triệt để
vốn sống của học sinh, đồng thời gợi mở để học sinh lĩnh hội kiến thức
mới. Đa một số trò chơi nh : viết tiếp sức một đoạn văn, sắm vai ngời
thân . Để tạo sự hứng khởi trong học tập cho học sinh đồng thời tiếp
thu kiến thức một cách tự giác. Thông qua trò chơi, học sinh còn đợc
phát triển cả về thể lực và nhân cách, giúp cho học sinh học tiếng Việt
một cách nhẹ nhàng hơn và tạo sự thân thiết giữa thầy trò với nhau.
Trò chơi về chú gà đã phần nào nói lên đặc điểm của chú gà mà các
em cần vận dụng để tạo thành đoạn văn. Khuyến khích học sinh lồng
cảm xúc vào bài.
- Khuyến khích học sinh diễn đạt tự do, suy nghĩ chân thật, thể hiện
thoải mái. Sau đó mới dần dần uốn nắn thì cách hành văn của các em
mới tự nhiên. Ví dụ : Khi các em nói về hoạt động của chú gà trống
nh sau : Nó đập cánh và gáy to lắm. Ta có thể khuyến khích các em
là con tả đúng rồi nhng nếu con sử dụng một số từ gợi tả hơn thì chắc
chắn câu văn của con sẽ hay hơn nhiều nh nó vỗ cánh và rớn cổ gáy
vang
- Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : Nhiều từ
ngữ gợi tả, từ láy, từ tợng thanh, tợng hình Ví dụ : Mặt biển xanh và

rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu
văn lại thành những từ ngữ liên kết nh : và, thì, nếu, vậy là .
8
- Lu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay
những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tơng tự , ví dụ: Bác Hồ thành
Bác, Ngời thay những từ ngữ thông thờng thành những từ ngữ trau
chuốt hơn. Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình minh.
Ví dụ: Sau khi thành lập sơ đồ mạng, có thể các em sẽ thành lập một
đoạn văn nh sau : Nhà em có nuôi một chú gà . Nó có bộ lông màu
đỏ tía. Nó gáy rất to. Em rất yêu nó. Giáo viên có thể khuyến khích
học sinh là con làm đúng nhng cha hay. Từ những ý tởng ban đầu của
con, chúng ta sẽ hình thành một đoạn văn hay hơn nhé : Chú gà
trống nhà em trông mới oai vệ làm sao ! Toàn thân nó phủ một lớp
lông vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống tía nhảy tót lên ụ rơm đầu hè
mà rớn cổ gáy vang ò ó o. Mỗi khi đi học về, em thờng rải cho nó
một ít thóc và vuốt ve cái đuôi dài, cong cong của nó. Khi đó, học
sinh sẽ thấy đợc vẫn là ý tởng cũ nhng đoạn văn đã đợc lột xác, thêm
thắt những từ ngữ trau chuốt hơn làm cho đoạn văn đẹp hơn, nghệ
thuật hơn.
- Giáo viên có thể su tầm những bài văn hay và đọc cho học sinh nghe
để học sinh học hỏi. Trng bày những bài văn hay của các bạn trong lớp
để các em noi gơng. Tập ghi chép những từ hay, ý đẹp khi bắt gặp ở
đâu đó vào một quyển từ điển riêng của mình. Từ đó, vốn từ của các
em sẽ ngày càng nhiều, càng phong phú.
VI/ KếT QUả NGHIÊN CứU
- Qua quá trình bồi dỡng các em đối với môn tập làm văn tôi thấy các em
học tập tích cực hơn, hứng thú hơn, tự giác hơn. Các em không còn thấy sợ
học tập làm văn nh trớc đây nữa.
- Môn tập làm văn vì thế mà ngày càng có tác dụng giáo dục quan trọng góp
phần rất hiệu quả vào việc nâng cao chất lợng dạy học trong nhà trờng.

- Qua kiểm tra khảo sát chất lợng cuối kì I năm học 2014-2015với đề văn
yêu cầu . Đây cũng là một trong những kết quả qua điểm số thống kê đợc đối
với môn tập làm văn tôi thấy chất lợng lợng môn tập làm văn đã đợc nâng
cao rõ rệt cụ thể nh sau:
Lớp
2A
Sĩ số
34
Điểm giỏi Điểm khá Điểm trung
bình
Điểm yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
10 29,4% 16 47,1% 8 23,5% 0 0%
Nh vậy với việc áp dụng biên pháp giúp nâng cao chất lợng bài văn miêu tả
trong dạy môn tập làm văn ở lớp 5 tôi thấy chất lợng bài làm đã đợc nâng
cao, cho thấy việc áp dụng thử nghiệm trên là có hiệu quả.
9
VII/ KếT LUậN
- Đề tài giúp học sinh có những bài viết sinh động,sáng tạo và mang
tính riêng biệt đã khép lại nhng nó đã mở ra cho ta thấy việc dạy Tập
làm văn hay bất cứ phân môn nào khác dựa trên tính tích cực của học
sinh là vấn để rất cần thiết hiện nay. Nó đòi hỏi ngời giáo viên cải tiến
phơng pháp dạy học của mình nhằm mục đích nâng cao chất lợng và
hiệu quả đào tạo. Đảm bảo mục tiêu cuối cùng của nhà trờng là đào
tạo ra những con ngời phát triển toàn diện, hoàn thiện năng lực ngôn
ngữ của học sinh bao gồm việc làm giàu tiếng mẹ đẻ cho các em.
- Từ đó, ta thấy đợc vai trò của ngời giáo viên rất quan trọng, chính ngời
giáo viên là ngời hớng dẫn, gợi mở, cố vấn trong các hoạt động học
tập, ngời mở ra khả năng tiềm ẩn của học sinh.
- Qua đề tài này, tôi mong muốn góp một phần tích cực vào việc giúp

cho học sinh làm văn tốt hơn. Tuy nhiên, với vốn kinh nghiệm còn hạn
chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong sự góp ý chân
thành của thầy cô và các bạn.
10

×