ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
LÊ THỊ THẢO
SỬ DỤNG DI TÍCH LỊCH SỬ- CÁCH MẠNG Ở ĐỊA PHƢƠNG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954
LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TUYÊN QUANG
(CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN)
LUẬN VĂN THẠC SỸ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
LÊ THỊ THẢO
SỬ DỤNG DI TÍCH LỊCH SỬ- CÁCH MẠNG Ở ĐỊA PHƢƠNG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954
LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TUYÊN QUANG
(CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN)
LUẬN VĂN THẠC SỸ SƢ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
MÃ SỐ: 60 14 10
Cán bộ hƣớng dẫn: PGS.TS. Trịnh Đình Tùng
HÀ NỘI – 2014
3
LỜI CẢM ƠN
Trƣớc hết em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
PGS.TS. Trịnh Đình Tùng - ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn em hoàn thành
đề tài luận văn tốt nghiệp này. Sự chỉ bảo ân cần của thầy là nguồn động viên
giúp em hoàn thành tốt công việc.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới các thầy cô trong
khoa Lịch sử nói chung đã truyền đạt cho em những kiến thức, kỹ năng học
tập và nghiên cứu khoa học trong suốt thời gian em học tập tại trƣờng. Đó là
nền tảng giúp em thực hiện đề tài này.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới Ban Giám
Hiệu trƣờng Đại học Giáo dục- Đại học Quốc Gia Hà Nội, BGH Trƣờng
THPT Nguyễn Văn Huyên tỉnh Tuyên Quang, tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
khoa học.
Do hạn chế về kỹ năng nghiên cứu khoa học của bản thân cũng nhƣ
điều kiện khách quan không cho phép nên đề tài không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Chính vì vậy em rất mong nhận đƣợc sự góp ý của các thầy cô và
bạn bè để luận văn của em đƣợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2014
Học viên thực hiện
Lê Thị Thảo
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GV
: Giáo viên
HS
: Học sinh
LSVN
: Lịch sử Việt Nam
SGK
: Sách giáo khoa
THPT
: Trung học phổ thông
TP
: Thành phố
5
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
i
Danh mục chữ viết tắt
ii
Mục lục
iii
Danh mục bảng
vi
Mở đầu
1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN CỦA VIỆC
SỬ DỤNG DI TÍCH LỊCH SỬ- CÁCH MẠNG Ở ĐỊA
PHƢƠNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
12
1.1. Cơ sở lý luận
12
1.1.1. Di tích lịch sử - cách mạng trong dạy học lịch sử ở trƣờng
THPT
12
1.1.2. Xuất phát điểm của vấn đề sử dụng di tích lịch sử- cách
mạng trong dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông
22
1.2. Một số di tích lịch sử- cách mạng ở Tuyên Quang cần khai
thác, sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954
lớp 12 THPT
30
1.2.1. Danh mục những di tích lịch sử- cách mạng ở Tuyên
Quang cần khai thác, sử dụng trong giai đoạn lịch sử Việt Nam
từ 1945 đến 1954 lớp 12 THPT
30
1.2.2. Nội dung một số di tích lịch sử- cách mạng cần khai thác,
sử dụng trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 lớp
12 THPT. (Phụ lục 2)
31
1.3. Thực tiễn việc sử dụng di tích lịch sử- cách mạng ở địa
phƣơng trong dạy học Lịch sử ở trƣờng THPT tỉnh Tuyên
Quang
31
1.3.1. Thực trạng về di tích lịch sử nói chung và di tích lịch sử-
6
cách mạng thời kỳ 1945- 1954 nói riêng ở Tuyên Quang
31
1.3.2. Thực trạng việc sử dụng di tích lịch sử- cách mạng địa
phƣơng trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trƣờng THPT Tuyên
Quang
33
Chƣơng 2. MỘT SỐ HÌNH THỨC, BIỆN PHÁP SỬ DỤNG
DI TÍCH LỊCH SỬ- CÁCH MẠNG Ở ĐỊA PHƢƠNG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN
1954 LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH TUYÊN
QUANG (CHƢƠNG TRÌNH CHUẨN). THỰC NGHIỆM
SƢ PHẠM
44
2.1. Vị trí, mục tiêu và nội dung cơ bản của Lịch sử Việt Nam từ
1945 đến 1954 trong khóa trình lịch sử Việt Nam lớp 12
THPT
44
2.1.1. Vị trí
44
2.1.2. Mục tiêu
45
2.1.3. Nội dung kiến thức cơ bản của lịch sử Việt Nam từ 1945
đến 1954
47
2.2. Một số yêu cầu khi lựa chọn các biện pháp sử dụng di tích
lịch sử- cách mạng trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ
1945 đến 1954
50
2.2.1. Lựa chọn biện pháp phải căn cứ vào mục tiêu môn học
50
2.2.2. Biện pháp sử dụng phải đảm bảo tính vừa sức, phù hợp
với từng đối tƣợng học sinh
51
2.2.3. Lựa chọn biện pháp sử dụng phải phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh
51
2.2.4. Biện pháp sử dụng phải kết hợp linh hoạt, sáng tạo với các
phƣơng pháp dạy học khác
52
2.3. Một số hình thức sử dụng di tích lịch sử- cách mạng ở địa
phƣơng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 lớp
12 THPT tỉnh Tuyên Quang
52
7
2.3.1. Khai thác, sử dụng tài liệu về di tích lịch sử- cách mạng ở
Tuyên Quang để dạy bài lịch sử nội khóa ở trƣờng THPT
52
2.3.2. Tiến hành bài lịch sử tại di tích lịch sử- cách mạng
58
2.3.3. Tổ chức hiệu quả hoạt động tham quan học tập tại di tích
lịch sử- cách mạng
63
2.3.4. Tổ chức hoạt động tham quan ngoại khóa
66
2.3.5. Sử dụng tài liệu về di tích lịch sử- cách mạng để tổ chức
dạ hội
69
2.4. Một số biện pháp sử dụng di tích lịch sử- cách mạng ở địa
phƣơng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 lớp
12 THPT tỉnh Tuyên Quang
70
2.4.1. Hƣớng dẫn học sinh sƣu tầm tƣ liệu về di tích lịch sử cách
mạng
70
2.4.2. Hƣớng dẫn học sinh sử dụng tƣ liệu về di tích lịch sử cách
mạng
74
2.4.3. Hƣớng dẫn học sinh học tâp tại di tích cách mạng
79
2.4.4. Tổ chức hoạt động ngoại khoá tại di tích lịch sử, bảo tàng,
nhà truyền thống
80
2.4.5. Tổ chức ngoại khoá bằng trò chơi lịch sử
81
2.5. Thực nghiệm sƣ phạm
81
2.5.1. Mục đích và yêu cầu bài học thực nghiệm
81
2.5.2. Nội dung, phƣơng pháp thực nghiệm
81
2.5.3. Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm
82
KẾT LUẬN
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
PHỤ LỤC
92
8
DANH MỤC BẢNG
STT
TÊN BẢNG
Trang
1
Bảng 1.1: Kết quả xin ý kiến giáo viên
34
2
Bảng 1.2. Kết quả xin ý kiến học sinh
39
3
Bảng 2.1. Kết quả thực nghiệm sƣ phạm
83
4
Bảng 2.2. Bảng tổng hợp tính theo phần trăm (%)
83
5
Bảng 2.3. Độ chênh lệch điểm kiểm tra giữa lớp thực
nghiệm và lớp đối chứng
84
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới phƣơng pháp dạy học là định hƣớng lớn nhất của Đảng ta
trong lĩnh vực giáo dục của thế kỷ phát triển nhƣ vũ bão của công nghệ thông
tin ngày nay. Đảng đã rõ mục đích của nền giáo dục nƣớc ta là: xây dựng
những con ngƣời thiết tha gắn bó với lý tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cƣờng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu văn hóa nhân loại, phát triển tiềm năng dân
tộc và con ngƣời Việt Nam.
Muốn thúc đẩy sự nghiệp giáo dục trong việc xây dựng con ngƣời Việt
Nam mới, xã hội chủ nghĩa phù hợp với yêu cầu của thời đại thì giáo dục
cũng phải toàn diện. Bởi bất kỳ một dân tộc nào, dù phát triển đến đâu, một
con ngƣời dù rất thành đạt nhƣng không am hiểu về lịch sử của dân tộc
mình,tức là không đƣợc giáo dục một cách đầy đủ về ý thức dân tộc, ý thức
công dân …Rất nhiều nhà khoa học đã đánh giá cao vai trò của bộ môn lịch
sử và họ coi lịch sử là: “ Một trong bốn bộ môn quan trọng đối với giáo dục
thế hệ trẻ bên cạnh tiếng mẹ đẻ, địa lý và toán học”. Nguyên Tổng bí thƣ Ban
chấp hành trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mƣời đã chỉ rõ trong bài
phát biểu tại Đại hội khoa học lịch sử lần thứ hai năm 1994: “Phải coi trọng
giáo dục lịch sử dân tộc, phải coi lịch sử là tài liệu giáo khoa số một trong nhà
trƣờng, nếu không làm tốt giáo dục lịch sử, thanh thiếu niên sẽ chạy theo
đồng tiền, chạy theo lợi ích khác, có hại cho sự nghiệp chung”
Để nâng cao chất lƣợng bộ môn thì việc đổi mới nội dung và phƣơng
pháp trở thành một vấn đề mang tính cấp thiết. Quá trình đổi mới phải tiến
hành thƣờng xuyên và đồng bộ, trong đó việc tăng cƣờng sử dụng các phƣơng
tiện trực quan có vai trò quan trọng nhất là đối với những tỉnh vùng sâu vùng
xa, thiếu về trình độ thông tin nhƣ Tuyên Quang. Mà một trong những loại
10
phƣơng tiện có thể sử dụng tốt nhất là các di tích lịch sử- cách mạng có ở địa
phƣơng.
Tuyên Quang- mảnh đất ghi dấu những chiến công oanh liệt của quân
và dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nơi đây chứa số lƣợng di
tích lịch sử- cách mạng khá lớn đặc biệt là những di tích về giai đoạn từ 1945-
1954. Học sinh trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang có thể trực tiếp học qua các
minh chứng đó một cách sinh động mà không cần phải hình dung. Tuy nhiên
thực tế thì trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang hiện nay cũng chƣa có một công
trình nghiên cứu nào viết về đề tài này, chỉ có tập “ Giáo trình lịch sử địa
phƣơng cấp 1 và cấp 2”, và bài viết của Đỗ Hồng Thái, Đại học sƣ phạm Thái
Nguyên “ di tích cách mạng trong dạy học lịch sử”, tuy nhiên các đề tài này
vẫn mang tính chung chung, chƣa thật rõ ràng, cụ thể, giáo viên cũng chƣa
biết tận dụng những di tích lịch sử- cách mạng của địa phƣơng trong việc dạy
học môn lịch sử.
Xuất phát từ lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Sử dụng di tích lịch sử
- cách mạng ở địa phƣơng trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến
1954 lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang (Chƣơng trình
chuẩn), làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Di tích lịch sử- cách mạng cũng là một phƣơng tiện trực quan trong dạy
học ở trƣờng phổ thông, nghiên cứu về vấn đề này đã có nhiều tài liệu nƣớc
ngoài và trong nƣớc nói đến.
2.1. Các công trình đã nghiên cứu ở ngoài nước
Phó tiến sĩ khoa học giáo dục Liên Xô M. Crugiăc trong cuốn “Phát
triển tư duy học sinh như thế nào”, NXB Giáo dục Hà Nội, 1976 đã chỉ rõ
việc sử dụng đồ dùng trực quan có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với phát triển
tƣ duy học sinh. Ông đã khẳng định phƣơng pháp sử dụng đồ dùng trực quan
là phƣơng pháp tốt nhất đem lại sự phát triển tƣ duy cho học sinh.
11
Tiến sĩ giáo dục Liên Xô I.F. Kharlamop trong cuốn “Phát huy tính
tích cực học tập của học sinh như thế nào”, NXB Giáo dục Hà Nội, 1979,
đã nhấn mạnh “ Lời nói sinh động của giáo viên kết hợp với tính trực quan có
hiệu quả to lớn trong việc dạy học… Nó còn góp phần rèn luyện tƣ duy, phân
tích tập cho các em nhìn thấy bản chất của các đối tƣợng và hiện tƣợng ẩn sau
các hình thức và biểu hiện bề ngoài, kích thích tính ham hiểu biết của các
em”.
I.Ia.Lence với “Phát triển tư duy học sinh trong dạy học lịch sử”,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1982 cũng đã chỉ ra rằng dạy học có sử dụng đồ dùng
trực quan sẽ là cơ sở để diễn ra sự tái hiện tri thức và phƣơng pháp hoat động.
Ông khẳng định sự cuốn hút của các phƣơng tiện thông tin tạo hình trực quan
có ý nghĩa rất quan trọng.
F.K.Kôrovkin khi nghiên cứu về “Phương pháp dạy học lịch sử ở
trường phổ thông” cũng khẳng định vai trò quan trọng của việc sử dụng đồ
dùng trực quan. Tính trực quan là phƣơng tiện cơ bản để hình thành kiến thức
lịch sử.
Trong cuốn “Các phương pháp sư phạm” , NXB Thế giới, Hà Nội,
1999, GuyPalmade đã nhấn mạnh việc dạy học phải bắt đầu từ trực quan
nhằm tạo ra trong óc trẻ một biểu tƣợng bền vững.
Ngoài ra còn có các nghiên cứu của các tác giả M.Alêxêep trong cuốn“
Phát triển tư duy của học sinh”, hay cuốn “Tư duy học sinh” của M.N.
Sacđacốp, “Những cơ sở lý luận dạy học” do B.P.Exipốp chủ biên… đã
khẳng định những cơ sở tâm lý của nhận thức trực quan sinh động trong học
tập lịch sử khi tạo biểu tƣợng trong sáng và muôn màu, muôn vẻ về các sự
vật, hiện tƣợng đang học. Có thể thực hiện nhiệm vụ này bằng cách tổ chức
cho học sinh tri giác các di tích lịch sử và các di sản văn hóa.
N.K.Crupxcaia coi công tác tham quan, học tập tại di tích lịch sử- văn hóa
là một công tác quan trọng trong nhà trƣờng, là cách dạy cho học sinh đọc
cuốn sách trong cuộc sống qua những trải nghiệm thực.
12
2.2. Các công trình đã nghiên cứu ở trong nước
Trong giáo trình “Giáo dục học”, tập 1, NXB Giáo dục Hà Nội, 1987,
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt đã viết nhƣ sau: “ Các đồ dùng trực quan nếu
đƣợc sử dụng khéo léo tạo điều kiện cho học sinh nhớ lâu, giảm độ mệt
nhọc, gây đƣợc mối liên hệ thần kinh tạm thời khá phong phú ” Nhƣ vậy các
tác giả cũng đã nhấn mạnh đồ dùng trực quan trong đó có di tích cách mạng là
điểm tựa trong nhận thức của học sinh.
Trong cuốn “Sơ thảo phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ
thông cấp II, III” xuất bản năm 1961, các tác giả Lê Khắc Nhãn, Hoàng
Triều, Hoàng Trọng Hanh đã giành chƣơng VIII: “Ngoại khóa, thực hành
trong bộ môn lịch sử” trong đó các tác giả cũng nêu lên thực trạng và một số
biện pháp thực hiện nhƣ thăm quan viện bảo tàng, du lịch, sƣu tầm, thu thập
và ghi chép tài liệu lịch sử.
Trong cuốn “Phương pháp giảng dạy lịch sử” (Phần đại cƣơng) tập 1,
2 xuất bản năm 1966 của Trần Văn Trị, Phan Ngọc Liên, Nguyễn Cao Lũy,
Nguyễn Tiến Cƣờng.trong chƣơng II (tập 2) “Các phƣơng châm giảng dạy
lịch sử ở trƣờng phổ thông”. Các tác giả một lần nữa khẳng định: Dạy lịch sử
gắn liền với đời sống và cần phải liên hệ tri thức lịch sử trong sách vở với
cuộc sống, liên hệ lịch sử toàn quốc với lịch sử địa phƣơng đặc biệt là các di
tích lịch sử- cách mạng.
Trong cuốn “Bảo tàng- di tích- lễ hội”, NXB Văn hóa- thông tin, 1992,
Phan Khanh đã chỉ rõ: Di tích là tấm gƣơng lịch sử, để mỗi ngƣời đến chiêm
ngƣỡng, dù một mình cũng phải soi bóng mình và tự vấn mình là đang làm gì
để góp phần đóng góp cho sự trƣờng tồn, phát triển thịnh vƣợng của non nƣớc
này.
Các nhà lý luận về phƣơng pháp dạy học bộ môn thông qua nhiều bài
viết trên tạp chí nghiên cứu chuyên ngành nói riêng, các tạp chí khoa học nói
chung đã đề cập đến phải đƣa phƣơng tiện trực quan vào giảng dạy trong nhà
trƣờng phổ thông cũng nhƣ nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng đồ dùng trực
13
quan trong dạy học lịch sử dân tộc nhƣ: GS.TS Phan Ngọc Liên, GS.TS
Nguyễn Thị Côi, PGS. TS Trần Vĩnh Tƣờng, TS Nguyễn Anh Dũng. TS
Đặng Công Lộng, TS Trần Viết Thụ.
Hay nhƣ trong cuốn “Di tích Lịch sử ở Tuyên Quang”, Phù Ninh
,NXB Văn hóa- Thông Tin Tuyên Quang, 1997, tác giả cũng đã trình bày các
di tích lịch sử- cách mạng quan trọng, cũng nhƣ nguồn gốc, ý nghĩa lịch sử
của các di tích lịch sử- cách mạng của nơi đƣợc coi là “ Bảo tàng cách mạng
của cả nƣớc”.
Các nhà lý luận về phƣơng pháp dạy học bộ môn thông qua nhiều bài
viết trên tạp chí nghiên cứu chuyên ngành nói riêng, các tạp chí khoa học nói
chung đã đề cập đến phải đƣa nguồn lịch sử có ở địa phƣơng vào giảng dạy
trong nhà trƣờng phổ thông đặc biệt là các phƣơng pháp có sử dụng phƣơng
tiện trực quan cũng nhƣ nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng phƣơng tiện trực
quan trong dạy học lịch sử dân tộc nhƣ: GS.TS Phan Ngọc Liên, GS.TS
Nguyễn Thị Côi, PGS. TS Trịnh Đình Tùng, PGS. TS Trần Đức Minh,
PGS.TS Nguyễn Hữu Chí, PGS.TS Trần Vĩnh Tƣờng, TS Nguyễn Anh Dũng.
TS Đặng Công Lộng, TS Trần Viết Thụ.
Bên cạch đó còn có một số bài viết của Hoàng Thanh Hải đề cập đến
việc “Sử dụng di tích lịch sử cách mạng trong dạy học lịch sử tại thực địa”
( số 2/ 1997), “Tổ chức hướng dẫn học sinh phổ thông tham gia các lễ hội
xuân tại các di tích lịch sử văn hóa” (số 5/1997). Hai bài viết cùng với luận
án Tiến sĩ “Sử dụng di tích lịch sử trong dạy học lịch sử dân tộc ở trường
THPT tỉnh Thanh Hóa”, hay nhiều công trình khác nhƣ luận văn thạc sỹ của
Lê Thị Hài : “Sử dụng di tích lịch sử địa phương trong dạy học Lịch sử Việt
Nam ở trường THPT tỉnh Hưng Yên”. “Sử dụng di tích lịch sử- cách mạng
ở Hà Nội trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1930 đến 1945 lớp 12 THPT”
của Phạm Tú Linh,bài viết của Đỗ Hồng Thái, Đại học sƣ phạm- Đại học
Thái Nguyên “Sử dụng di tích cách mạng trong dạy, học lịch sử ở trường
THPT”.
14
Ở Tuyên Quang việc đƣa di tích lịch sử cách mạng ở khối THPT vào
dạy học thì chƣa có, cũng nhƣ chƣa có một công trình nghiên cứu nào hƣớng
dẫn giáo viên cũng nhƣ học sinh tổ chức các buổi học tập ở tại các di tích
cách mạng của tỉnh .Trên địa bàn tỉnh hiện nay dƣới sự góp sức của dự án
Việt – Bỉ thì cũng chỉ có tập giáo trình giảng dạy Lịch sử địa phƣơng cho cấp
1 và cấp 2, tuy nhiên cũng chỉ có một số bài với một số chuyên đề nhỏ nhƣ:
“Cây số bảy anh hùng,khu di tích lịch sử Tân Trào, Tuyên Quang buổi đầu
dựng nước ”
2.3 Đánh giá của tác giả về những công trình nghiên cứu nêu trên
Qua việc nghiên cứu về việc sử dụng phƣơng tiện trực quan trong dạy học
đặc biệt là thông qua di tích lịch sử- cách mạng của các tác giả nƣớc ngoài, và
trong nƣớc chúng tôi rút ra kết luận:
Thứ nhất ,các tác giả đều nhấn mạnh đến sự cần thiết phải sử dụng đồ
dùng trực quan, và vai trò của việc sử dụng đồ dùng trực quan đặc biệt là di
tích lịch sử- cách mạng trong dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông. Nguồn tài
liệu này nếu sử dụng hợp lý góp phần nâng cao kiến thức bồi dƣỡng tƣ tƣởng,
tình cảm và phát huy năng lực nhận thức độc lập, sáng tạo cho học sinh.
Thứ hai, các công trình trên đã chỉ ra những cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu sử dụng phƣơng tiện trực quan trong dạy học lịch sử dân tộc ở trƣờng
phổ thông, cũng nhƣ các hình thức tổ chức hƣớng dẫn học sinh chủ yếu qua 2
hình thức là giờ học nội khóa và hoạt động ngoại khóa. Mỗi hình thức này có
cách thức triển khai khác nhau theo đặc điểm riêng của di tích lịch sử- cách
mạng ở từng vùng.
Thứ ba, các tác giả cũng đã đề xuất các quy trình để tiến hành để tổ chức
một buổi học nội khóa có sử dụng di tích lịch sử- cách mạng cũng nhƣ cách
thức tiến hành buổi học ngoại khóa tại thực địa và đối với mỗi di tích lịch sử-
cách mạng thì có quy trình cũng nhƣ cách tiến hành riêng tùy vào loại hình di
tích đó.
15
Tuy nhiên chƣa có một tài liệu nào đi sâu nghiên cứu để trả lời các câu hỏi
sau:
Thứ nhất: Cơ sở khoa học nào để khẳng định việc sử dụng di tích lịch sử-
cách mạng trong dạy học lịch sử dân tộc có ở địa phƣơng là rất cần thiết?
Thứ hai: Việc tổ chức, hƣớng dẫn học sinh trong giờ học lịch sử dân tộc có
sử dụng di tích lịch sử- cách mạng cần theo những yêu cầu cơ bản nào để đạt
đƣợc hiệu quả?
Thứ ba: Thực tiễn việc tổ chức, hƣớng dẫn học sinh trong giờ học có sử
dụng di tích lịch sử cách mạng ở trƣờng THPT hiện nay có những ƣu điểm và
hạn chế gì?
Thứ tư: Nội dung nào trong giờ dạy học lịch sử dân tộc thì nên sử dụng di
tích lịch sử- cách mạng, và hình thức tổ chức , hƣớng dẫn học sinh ở những
nội dung đó nhƣ thế nào?
Thứ năm: Có những phƣơng pháp sƣ phạm nào để hƣớng dẫn học sinh
trong giờ học lịch sử dân tộc nói chung có sử dụng di tích lịch sử- cách mạng
và trong phần lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến 1954 nói riêng, đặc biệt
là trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang- tỉnh đƣợc coi là “ di tích cách mạng” của cả
nƣớc.
Tóm lại các công trình nghiên cứu trên đã nhấn mạnh việc sử dụng tài
liệu phƣơng tiện trực quan trong dạy học lịch sử và đƣa ra các hình thức,
biện pháp sử dụng loại phƣơng tiện này. Những công trình nghiên cứu trên là
cơ sở lí luận quý giá giúp chúng tôi nghiên cứu đề tài.
2.4. Những vấn đề đề tài sẽ đi sâu nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu của các công trình đi trƣớc,
luận văn sẽ tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, trên cơ sở mục tiêu môn học,phân tích đặc điểm của môn lịch sử,
đặc điểm tâm lý và đặc điểm quá trình nhận thức của học sinh trong học tập
môn Lịch sử dân tộc, yêu cầu đổi mới phƣơng pháp, phân tích vai trò, ý nghĩa
quan trọng của việc sử dụng di tích lịch sử - cách mạng trong quá trình dạy
16
học môn lịch sử ở trƣờng trung học phổ thông nói chung và giai đoạn từ 1945
đến 1954 nói riêng.
Thứ hai, trên cơ sở khai thác một số di tích lịch sử - cách mạng ở Tuyên
Quang, thực tiễn việc sử dụng di tích lịch sử- cách mạng trong dạy phần lịch
sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ,đề tài sẽ đánh giá chung về thực trạng sử
dụng di tích lịch sử - cách mạng trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trƣờng
THPT tỉnh Tuyên Quang.
Thứ ba, khai thác nội dung chƣơng trình, SGK Lịch sử 12 phần Lịch sử Việt
Nam từ 1945- 1954 để lựa chọn những sự kiện lịch sử có liên quan đến các di
tích lịch sử- cách mạng trong phạm vi của đề tài.
Thứ tư, tìm hiểu cụ thể các di tích lịch sử- cách mạng ở Tuyên Quang có thể
sử dụng để phục vụ dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ 1945- 1954 lớp 12
trung học phổ thông ( Chƣơng trình chuẩn).
Thứ năm, thực nghiệm sƣ phạm để kiểm chứng các biện pháp sƣ phạm đã đề
xuất trên cơ sở đó rút ra kết luận về tính khả thi của biện pháp sƣ phạm đƣợc
tiến hành trong luận văn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc sử dụng di tích lịch sử- cách mạng ở địa phƣơng trong dạy học
lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 lớp 12 THPT tỉnh Tuyên Quang ( Chƣơng
trình chuẩn).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về trình độ của bản thân và thời gian có hạn, luận văn
không có tham vọng đi sâu nghiên cứu tất cả các di tích lịch sử- cách mạng
của tỉnh Tuyên Quang cũng nhƣ biện pháp sử dụng mà trên cơ sở nêu khái
quát sẽ lựa chọn những di tích lịch sử- cách mạng ở Tuyên Quang tiêu biểu có
thể sử dụng để tìm hiểu nội dung và đề xuất một số biện pháp chủ yếu sử
dụng chúng có hiệu quả nhất trong giờ học nội khóa theo hƣớng phát huy tính
tích cực của học sinh khi dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954.
17
Điều tra thực tế, tiến hành thực nghiệm sƣ phạm một bài lịch sử cụ thể
ở trƣờng trung học phổ thông Nguyễn Văn Huyên- TP Tuyên Quang.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di tích lịch sử-
cách mạng trong dạy học lịch sử dân tộc dân tộc nói chung và lịch sử Việt
Nam giai đoạn 1945 đến 1954 nói riêng, đề tài tập trung đi sâu về các di tích
lịch sử- cách mạng ở Tuyên Quang có thể sử dụng trong dạy học phần LSVN
từ 1945 đến 1954. Từ đó đề xuất một số hình thức, biện pháp sử dụng các di
tích này nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng dạy học Lịch sử ở trƣờng THPT
hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cụ thể sau:
Tìm hiểu lý luận của các nhà Tâm lý học, giáo dục học, giáo dục Lịch
sử viết về vấn đề sử dụng đồ dùng trực quan nói chung, di tích lịch sử- cách
mạng nói riêng trong dạy học từ trƣớc đến nay.
Khai thác nội dung chƣơng trình, SGK Lịch sử 12 phần Lịch sử Việt
Nam từ 1945- 1954 để lựa chọn những sự kiện lịch sử có liên quan đến các di
tích lịch sử- cách mạng trong phạm vi của đề tài.
Tìm hiểu cụ thể các di tích lịch sử- cách mạng ở Tuyên Quang có thể
sử dụng để phục vụ dạy học phần Lịch sử Việt Nam từ 1945- 1954 lớp 12
trung học phổ thông ( Chƣơng trình chuẩn).
Thực nghiệm sƣ phạm để kiểm chứng các biện pháp sƣ phạm đã đề
xuất trên cơ sở đó rút ra kết luận về tính khả thi của biện pháp sƣ phạm đƣợc
tiến hành trong luận văn.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
18
5.1. Cơ sở phương pháp luận của đề tài: Là lý luận của chủ nghĩa Mác,
LêNin, Đảng cộng sản Việt Nam và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục đào
tạo và giáo dục lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 . Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Nghiên cứu tài liệu: đọc, sƣu tầm và phân tích những tài liệu từ sách
báo, tạp chí, Internet… về lý luận phƣơng pháp dạy học, đổi mới phƣơng
pháp dạy học, đặc biệt là lý luận về phƣơng pháp sử dụng đồ dùng trực quan
trong dạy học lịch sử trong đó có sử dụng di tích lịch sử - cách mạng .
5.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phƣơng pháp quan sát: Dự giờ để thu thập thông tin, đánh giá khách
quan tình hình dạy học Lịch sử ở trƣờng THPT.
Phƣơng pháp điều tra, phỏng vấn: Tìm hiểu thực trạng dạy học lịch sử
sử dụng di tích lịch sử- cách mạng trong dạy học Lịch sử ở trƣờng
trung học phổ thông, về thái độ của học sinh với môn học và nguyên
nhân ảnh hƣởng đến thái độ học tập môn Lịch sử
Thực nghiêm sƣ phạm: Soạn bài, tiến hành thực nghiệm sƣ phạm một
bài lịch sử cụ thể ở trƣờng THPT Nguyễn Văn Huyên trong đó có sử
dụng di tích lịch sử- cách mạng một cách hợp lý.
Sử dụng toán học thống kê để xử lí kết quả thực nghiệm sƣ phạm.
6. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả dạy học lịch sử dân tộc ở trƣờng THPT sẽ đƣợc nâng cao nếu
đƣợc sử dụng các hình thức, biện pháp có sử dụng di tích lịch sử- cách mạng
đặc biệt trong giai đoạn từ 1945 đến 1954 lớp 12 THPT.
7. Đóng góp của luận văn
Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di tích lịch sử- cách mạng
trong dạy học lịch sử dân tộc nói chung và giai đoạn 1945 đến 1954 nói riêng.
Phác họa bức tranh về thực tiễn sử dụng di tích lịch sử- cách mạng
trong dạy học lịch sử dân tộc ở các trƣờng THPT tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
19
Xác định đƣợc các di tích lịch sử- cách mạng cần khai thác trong dạy
học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 ở trƣờng THPT tỉnh Tuyên Quang.
Đề xuất các hình thức, biện pháp sử dụng di tích lịch sử- cách mạng
trong dạy học phần lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 lớp 12 ở trƣờng THPT
tỉnh Tuyên Quang.
8. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài có ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn.
8.1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần làm phong phú thêm lí luận về sử dụng di tích lịch sử- cách
mạng trong dạy học lịch sử ở trƣờng THPT.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp bản thân và đồng nghiệp có thể
vận dụng vào thực tiễn dạy học lịch sử để nâng cao chất lƣợng dạy học bộ
môn.
9. Cấu trúc luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, khuyến nghị, phụ lục, tài liệu tham khảo luận
văn gồm hai chƣơng.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng di tích lịch sử-
cách mạng ở địa phƣơng trong dạy học Lịch sử ở trƣờng THPT.
Chƣơng 2: Một số hình thức, biện pháp sử dụng di tích lịch sử- cách
mạng ở địa phƣơng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 lớp 12
THPT tỉnh Tuyên Quang (Chƣơng trình chuẩn). Thực nghiệm sƣ phạm.
20
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN CỦA VIỆC SỬ DỤNG DI TÍCH
LỊCH SỬ- CÁCH MẠNG Ở ĐỊA PHƢƠNG TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Di tích lịch sử - cách mạng trong dạy học lịch sử ở trường THPT
1.1.1.1. Quan niệm về di tích và di tích lịch sử- văn hóa
Về tên gọi chung, hiểu theo ý nghĩa ban đ
ầu thì di tích là những “dấu vết, mảnh vụn” còn sót lại của các thời đại
trƣớc gắn liền với những nhân vật, sự kiện, hiện tƣợng, biến cố lịch sử. Ta
cũng dễ dàng nhận thấy, từ xa xƣa nhiều nƣớc trên thế giới đã đặt tên chung
cho di tích lịch sử là dấu tích, dấu vết còn lại. Tiếng Pháp viết vestiges, tiếng
Anh cũng viết vestiges,tiếng Nga viết pomiatnik, tiếng Trung Quốc viết cổ
tích.
Quá trình nghiên cứu di tích đã đƣợc các nhà sử học quan tâm từ rất lâu
và đƣa ra nhiều khái niệm khác nhau:
Theo “Tự điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam (Xuất bản
năm 2006 thì: “Di tích là dấu vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc
trên mặt đất có ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử”.
Theo hiến chƣơng Vơnije- Italia năm 1946 thì di tích bao gồm “ những
công trình xây dựng riêng lẻ, những khu di tích ở đô thị hay nông thôn, là
bằng chứng của một nền văn minh riêng biệt, của một sự tiến hóa có ý nghĩa
hay là một biến cố về lịch sử” [12- Tr50]. Điều này cho phép chúng ta khẳng
định rằng di tích là những công trình có thật, là sản phẩm vật chất do con
ngƣời sáng tạo ra cùng với cuộc sống lao động của mình. Di tích đƣợc phân
bố ở khắp mọi nơi, bất kỳ đâu mà con ngƣời đã và đang sinh sống.
Còn theo luật di sản văn hóa của nƣớc ta, Quốc hội nƣớc cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa X thông qua ngày 29/
6/ 2001 quy định “ di tích là công trình được xây dựng, địa điểm và các di
21
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học [12- tr 53]. Gọi chung là di tích lịch sử-văn hóa vì chúng
do con ngƣời (tập thể hoặc cá nhân ) hoạt động sáng tạo lịch sử,con ngƣời
hoạt động văn hóa mà hình thành nên. Văn hóa ở đây bao gồm cả văn hóa vật
chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần .
Theo pháp lệnh bảo vệ và sử dụng tích lịch sử -văn hóa và danh lam
thắng cảnh, công bố ngày 4/4/1984 thì di tích lich sử- văn hóa đƣợc quy định
nhƣ sau; “Di tích lịch sử -văn hóa là những công trình được xây dựng, địa
điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật,
cũng như có giá trị văn hóa khác, hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá
trình phát triển văn hóa xã hội.”[24- Tr 32].
Theo đại từ điển tiếng Việt: “Di tích lịch sử - văn hóa là tổng thể những
công trình, địa điểm, đồ vật hoặc tác phẩm, tài liệu có giá trị lịch sử hay văn
hóa được lưu lại.”
Theo luật di sản văn hóa Việt Nam 2001 Điều 4 Chƣơng 1 thì : “Di
tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học.”
Theo luật di sản văn hóa đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18 tháng 5 năm 2009
có nêu :Di tích lịch sử - văn hóa là: “Công trình xây dựng, địa điểm gắn với
sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu biểu của quốc gia hoặc của địa phương; thân thế
và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh
hưởng tích cực đến sự phát triển của quốc gia hoặc của địa phương trong các
thời kỳ lịch sử, địa điểm khảo cổ có giá trị tiêu biểu.Công trình kiến trúc,
nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có
giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật
của giai đoạn đó ở một địa điểm cụ thể, nhất định.”
22
Trên góc độ khoa học, giáo trình của trƣờng Đại học Văn hóa đã đƣa ra
định nghĩa khái quát nhƣ sau: “ Di tích lịch sử - văn hóa là những không gian
vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa đựng các giá trị điển hình lịch sử,
do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt động sáng tạo ra trong lịch sử để
lại” [16- Tr 24].
1.1.1.2. Di tích lịch sử- cách mạng và cách phân loại
Lịch sử là bản thân hiện thực khách quan, với tất cả những sự kiện
lớn nhỏ đã xảy ra, tạo nên một quá khứ nối tiếp nhau qua các thời kỳ. Hiện
thực khách quan này là có thể nhận thức đƣợc. Lịch sử loài ngƣời bắt đầu từ
khi con ngƣời xuất hiện, xã hội hình thành. Trải qua hàng triệu năm đấu tranh
vì sự sinh tồn và phát triển, từ khi xuất hiện con ngƣời tối cổ đến ngày nay,
lịch sử đã để lại những dấu vết, minh chứng cho quá khứ có thật của mình.
Một trong những dấu vết quan trọng đó là di tích lịch sử. Hay nói một cách
khác, trong tiến trình lịch sử, con ngƣời đã sáng tạo ra những sản phẩm văn
hoá đặc trƣng cho thời đại mình hoặc ngƣời đời sau tạo dựng nên nhằm tƣởng
niệm những gì đã qua. Những sản phẩm của lịch sử đó còn lƣu lại đến nay
cũng đƣợc coi là di tích lịch sử, mang tính chất bằng chứng (temoignage) của
lịch sử: “Bằng chứng là những dấu vết của dĩ vãng còn để lại nhằm mục đích
bảo tồn quá khứ hoặc chỉ dẫn cho hậu thế về những sự việc xảy ra trong quá
khứ” [43- Tr154].
Một công trình kiến trúc có giá trị đƣợc gìn giữ lại, một bức hoạ khắc
trên vách đá do ngƣời nguyên thuỷ để lại, nơi họp hội nghị Trung ƣơng Đảng
Cộng sản, quyết định những vấn đề chiến lƣợc cách mạng cho đất nƣớc trong
thời kỳ hoạt động bí mật…ngƣời ta đều có thể gọi chúng là di tích lịch sử.
Bởi vì, chúng đều là sản phẩm của lịch sử để lại. Vậy, di tích lịch sử là những
dấu vết, những chứng tích vật chất ghi lại, phản ánh một sự kiện, nhân vật
hoặc quá trình lịch sử đã qua. Di tích lịch sử thuộc phạm trù di tích lịch sử-
văn hoá.
23
Ở đây, khái niệm di tích lịch sử đƣợc sử dụng với thời gian, tính từ khi
xã hội loài ngƣời bắt đầu phân chia giai cấp, có nhà nƣớc, có chữ viết của
mình. Nó còn chỉ những nơi ghi dấu sự hoạt động sáng tạo (của tập thể hoặc
nhân vật lịch sử, danh nhân văn hoá) góp phần thúc đẩy lịch sử phát triển.
Giới hạn nhƣ vậy là vì bƣớc sang thời đại văn minh, tri thức loài ngƣời đƣợc
phân chia ra nhiều ngành khoa học khác nhau, trong đó có ngành khoa học
lịch sử
Mỗi dân tộc, mỗi đất nƣớc có những đặc điểm lịch sử riêng, ghi dấu lại
trong những di tích lịch sử của mình. Sự ghi dấu ấy có khác nhau về số lƣợng,
sự phân bố và nội dung giá trị lƣu giữ ở mỗi di tích nhƣng tựu chung lại, loại
hình di tích lịch sử thƣờng bao gồm các loại sau:
- Loại di tích ghi dấu về dân tộc học: Đó là những nơi ghi dấu về sự ăn,
ở, sinh hoạt của các tộc ngƣời nguyên thuỷ còn để lại (Ví dụ nhƣ nơi ăn, ở,
sinh hoạt của tộc ngƣời Rục trên dãy Trƣờng Sơn, phía Tây Quảng Trị, mới
phát hiện sau năm 1975). Đó là những quần thể kiến trúc điển hình của các
gia đình dân tộc ít ngƣời Tày, Nùng, Dao, Thái, Bana, Êđê, quần thể kiến trúc
điển hình của các gia đình nông dân, thợ thủ công ngƣời Việt cƣ trú ở các
miền trung, đồng bằng. Trong đó bao gồm nơi thờ cúng tổ tiên, nơi ăn, nghỉ,
sinh hoạt, nơi sản xuất thủ công, vƣờn cây…Đó là những ngôi nhà cổ của các
gia đình thợ thủ công ở thành phố, chuyên sản xuất bán hang thủ công mỹ
nghệ ( Nhƣ: phố Hàng Bạc- Hà Nội, phố cổ Hội An…).
- Loại di tích ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng, tiêu biểu có ý nghĩa
quyết định chiều hướng phát triển của đất nước, của địa phương. Chẳng hạn
nhƣ bến Bình Than, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Hƣng, nơi trƣớc đây vua tôi
nhà Trần họp hội nghị bàn kế đánh giặc Nguyên giữ nƣớc; ở thời kỳ hiện đại
nhƣ các thôn Vƣờn Trầu huyện Hóc Môn Thành phố Hồ Chí Minh, nơi diễn
ra Hội nghị Trung ƣơng đảng lần thứ 6 (1939), quyết định chuyển hƣớng
chiến lƣợc cho cách mạng Việt Nam.
24
- Loại di tích ghi dấu chiến công chống xâm lược nhƣ Bạch Đằng, Chi
Lăng, Ngọc Hồi, Đống Đa, Điện Biên Phủ…Ở nƣớc ta từ xƣa cho đến nay,
chiến đấu bảo vệ độc lập của tổ quốc thời nào cũng có nên di tích lịch sử về
loại này vô cùng phong phú, phân bố rộng khắp.
- Loại di tích ghi dấu những kỷ niệm của các anh hùng dân tộc, danh
nhân văn hoá. Nhƣ, nhà số 90 phố Thợ Nhuộm (Hà Nội), nơi đồng chí Trần
Phú, Tổng bí thƣ đầu tiên của Đảng viết Bản Luận cƣơng chính trị, Khu di
tích phủ Chủ tịch…
- Loại hình di tích ghi dấu sự vinh quang lao động: Đó là những nơi ăn,
ở, làm việc, nghiên cứu của các nhà bác học, các anh hung vĩ đại đã cống hiến
nhiều phát minh, sáng kiến khoa học. Thành quả lao động của họ có ý nghĩa
lớn lao đối với thời đại, đối với lịch sử…
- Loại di tích ghi dấu tội ác của đế quốc và phong kiến: Đó là những
nhà tù, trại giam do đế quốc, phong kiến dựng lên để giam cầm, giết hại các
chiến sĩ cách mạng. Đó là những nơi diễn ra sự khủng bố, thảm sát của đế
quốc đối với hang loạt nhân dân vô tội và chiến sĩ cách mạng kiên trung.
Di tích lịch sử-cách mạng đƣợc chia ra làm 5 loại:
- Loại di tích lưu niệm về nhân vật lịch sử. Ở đây không đặt vấn đề lƣu
niệm về anh hùng dân tộc, bởi vì thời đại mới, những ngƣời đạt thành tích
xuất sắc trong một lĩnh vực hoạt động nào đó là có thể đƣợc phong anh hùng.
Họ có thể đƣợc trƣng bày ở một viện bảo tàng nào đó còn di tích lƣu niệm về
họ thì họ chƣa đạt đến sự cần thiết xây dựng nhà lƣu niệm.
- Loại di tích ghi dấu chiến công cách mạng, kháng chiến. Loại di tích
này có thể tính từ Phay Khắt, Nà Ngần, chiến công đầu tiên của Quân đội
nhân dân Việt Nam. Rồi nối tiếp, các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mĩ xâm lƣợc, di tích ghi dấu chiến công từ Trung ƣơng đến tỉnh, địa phƣơng
quản lý có thể tính đến con số hàng nghìn, phân bố khắp mọi miền đất nƣớc.
- Loại di tích ghi dấu hoạt động cách mạng, kháng chiến. Ví dụ: nhà số
5D Hàm Long (Hà Nội), nơi thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên của Đảng, hay
25
nhà số 38 phố Lý Thái Tổ, nơi Bác Hồ đã ký với Pháp bản hiệp định sơ bộ
6/3/1946…
- Loại di tích ghi dấu tội ác của đế quốc, phong kiến. Đó là các nhà tù,
trại giam do đế quốc dựng lên. Chẳng hạn nhƣ nhà tù Côn Đảo, Hỏa Lò…
- Loại di tích ghi dấu sự vinh quang lao động.
Nhƣ vậy, di tích lịch sử-cách mạng bao gồm nhiều loại hình di tích kể
trên. Đây chính là những “dấu vết”, “mảnh vụn” của quá khứ gắn liền với sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di tích trong dạy học Lịch sử nói
chung và giai đoạn từ 1945 đến 1954 nói riêng.
Vai trò
Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận
dạy học nhằm tạo cho học sinh những biểu tƣợng và hình thành các khái niệm
trên cơ sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay những đồ dùng trực quan
minh họa về sự vật. K. Đ.U- sin- xki gọi nguyên tắc trực quan là cách học
không chỉ dựa vào lời nói mà còn dựa vào những hình ảnh cụ thể mà học sinh
trực tiếp thu nhận đƣợc.
Trong giảng dạy và học tập lịch sử, phƣơng pháp trực quan lại càng có
vị trí quan trọng Cho nên, để có hình ảnh lịch sử cụ thể làm cơ sở cho việc
nhận thức quá khứ, cần phải sử dụng đồ dùng trực quan bên cạnh việc sử
dụng các phƣơng pháp, phƣơng thức và phƣơng tiện dạy học khác. Đặc biệt là
sử dụng di tích lịch sử-cách mạng rất có ƣu thế trong dạy học lịch sử, giúp
học sinh nhận thức lịch sử một cách đầy đủ nhất, làm cho các em có cảm giác
nhƣ đang đƣợc trực tiếp chứng kiến lịch sử.
Mục đích của việc học tập lịch sử ở trƣờng phổ thông là “phải khơi dậy
được lòng tự hào của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam, làm cho
học sinh hiểu được truyền thống, ý chí tự lập, tự cường của dân tộc, là phải
khắc vào trí nhớ của học sinh những tình cảm cách mạng, ý chí dời non lấp
biển và những thành tựu huy hoàng của nhân dân ta trong lao động sản xuất,