Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Mediamart Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 75 trang )

2
- TSLĐ sản xuất: gồm những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất
được liên tục, vật tư đang nằm trong quá trình sản xuất chế biến và những tư liệu lao
động không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất gồm: Nguyên
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang, bán
thành phẩm, công cụ lao động nhỏ.
- TSLĐ lưu thông: là những tài sản lưu động nằm trong quá trình lưu thông của
doanh nghiệp như: Thành phẩm trong kho chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong
thanh toán v.v…
Nói một cách ngắn ngọn, VLĐ có thể được hiểu là:
Vốn lƣu động là một bộ phận của vốn kinh doanh ứng ra để hình thành nên
tài sản lƣu động nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh
nghiệp đƣợc diễn ra liên tục và thƣờng xuyên.
(Theo tác giả Vũ Hữu Nam - Nghiên cứu kế toán và kiểm toán Việt Nam)
1.1.2. Đặc điểm của vốn lưu động
Qua việc phân tích khái niệm về VLĐ phía trên, thì VLĐ có những đặc điểm như
sau:
Quá trình vận động vốn lưu động là một chu kỳ khép kín từ hình thái này sang
hình thái khác rồi trở về hình thái ban đầu với giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Các giai
đoạn vòng tuần hoàn luôn đan xen nhau không tách riêng biệt. VLĐ hoàn thành vòng
tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Chu kỳ vận động của vốn lưu động là cơ sở đánh
giá khả năng thanh toán và hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
Trong cơ chế tự chủ và tự chịu trách về nhiệm tài chính, sự vận động của vốn lưu
động được gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp và người lao động. Vòng quay của
vốn càng được quay nhanh thì doanh thu càng cao và càng tiết kiệm được vốn, giảm
chi phí sử dụng vốn một cách hợp lý làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, doanh
nghiệp có điều kiện tích tụ vốn để mở rộng sản xuất, không ngừng cải thiện đời sống
của công nhân viên chức của doanh nghiệp.
VLĐ là công cụ phản ánh và kiểm tra quá trình vận động vật tư. Vốn lưu động
luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số vật tư sử dụng tiết kiệm hay không, thời


gian nằm ở khâu sản xuất và lưu thông có hợp lý không. Do vậy thông qua tình hình
luân chuyển vốn lưu động có thể kiểm tra việc cung cấp, sản xuất và tiêu thụ của
doanh nghiệp.
Thang Long University Library
3
1.1.3. Chu kỳ luân chuyển vốn lưu động
Do quá trình kinh doanh diễn ra liên tục nên sự vận động cầu vốn lưu động đi từ
hình thái này sang hình thái khác. Bắt đầu từ hình thái vốn bằng tiền và kết thúc một
chu kỳ cũng là vốn bắng tiền, tạo thành vòng tuần hoàn của vốn lưu đọng. Sự tuần
hoàn này có chu kì tạo thành sự luân chuyển của vốn lưu động. Cụ thể là sự tuần hoàn
của vốn lưu động chia thành các giai đoạn như sau:
Đối với doanh nghiệp sản xuất:
Sự vận động của VLĐ trải qua 3 giai đoạn: T – H – SX – H’ – T’
Trong đó: T’ = T+T
- Giai đoạn mua sắm dự trữ vật tư: ở giai đoạn này, VLĐ từ hình thái vốn bằng tiền
chuyển sang hình thái vật tư dự trữ.
- Giai đoạn sản xuất: VLĐ từ hình thái vật tư dự trữ chuyển sang hình thái sản phẩm
dở dang, bán thành phẩm. Kết thúc quá trình sản xuất chuyển sang hình thành vốn
thành phẩm.
- Giai đoạn tiêu thụ: VLĐ từ hình thái sản phẩm hàng hoá chuyển sang hình thành
vốn bằng tiền.
Đối với doanh nghiệp thương mại:
Sự vận động của VLĐ qua 2 giai đoạn: T – H – T’
Trong đó: T’ = T + T
- Giai đoạn mua: Vốn từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vốn hàng hoá dự trữ.
- Giai đoạn bán: VLĐ từ hình thái hàng hoá dự trữ chuyển sang vốn bằng tiền.
Sự vận động của VLĐ từ hình thái ban đầu là vốn bằng tiền chuyển qua các hình
thái khác nhau của các giai đoạn trong quá trình sản xuất kinh doanh cuối cùng lại trở
về hình thái ban đầu của nó gọi là sự tuần hoàn của VLĐ. Do quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên liên tục nên VLĐ tuần hoàn

không ngừng, được lặp đi lặp lại có tính chất chu kì và được gọi là sự chu chuyển của
VLĐ. Do sự chu chuyển không ngừng cho nên trong cùng một lúc thường xuyên có sự
tồn tại của các bộ phận VLĐ khác nhau trên các giai đoạn khác nhau của quá trình sản
xuất. Trong quá trình tham gia vào sản xuất kinh doanh, VLĐ chuyển hết giá trị ngay
trong một lần và được hoàn lại toàn bộ khi doanh nghiệp thực hiện xong việc tiêu thụ
và xác định có doanh thu. Do đó VLĐ hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ
sản xuất kinh doanh.
4
1.1.4. Phân loại vốn lưu động
Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần
phải sử dụng tới vốn: Đó là tiêu hao các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc
thiết bị, trả lương nhân viên,… Đó là những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt
được mục tiêu kinh doanh. Các khoản chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên,
liên tục gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh
nghiệp phải nâng cao hiệu quả quản lý vốn một cách tối đa nhằm đạt được mục tiêu
kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn nhất. Để có thể tiến hành huy động, quản lý và sử
dụng vốn đạt hiệu quả cao nhất, tiết kiệm chi phí ở từng khâu sản xuất và toàn doanh
nghiệp các nhà quản lý cần tiến hành phân loại vốn. Phân loại vốn có tác dụng quản lý
kiểm tra, phân tích những sai sót, chi phí thừa hay thiếu mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến
hành sản xuất, kinh doanh.
Ý nghĩa của việc phân loại vốn giúp cho các doanh nghiệp thấy được tỷ trọng,
cơ cấu từng loại vốn, xác định chi phí quản lý vốn của từng loại vốn. Từ đó, doanh
nghiệp lựa chọn cho mình một cơ cấu phù hợp, xem xét, lựa chọn phương án huy
động, quản lý, quản lý nguồn vốn sao cho hợp lý nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao
nhất, linh hoạt hơn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh.
Như vậy, việc phân loại vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính,
hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác
định quy mô về vốn cần thiết, lựa chọn thích hợp cho từng hoạt động sản xuất kinh
doanh để đạt được hiệu quả quản lý vốn cao nhất.
1.1.4.1. Phân loại theo vai trò trong quá trình sản xuất kinh doanh

Nhằm thể hiện rõ vai trò và tỷ trọng của VLĐ trong từng khâu sản xuất kinh
doanh từ đó có các biện pháp, kế hoạch mua sắm, dự trữ nguyên vật liệu, đảm bảo sự
cân đối, ăn khớp nhau giữa các khâu của quá trình kinh doanh, duy trì sự hoạt động
liên tục, tránh tình trạng VLĐ phân phối không đều, không hợp lý dẫn đến ngừng trệ,
gián đoạn trong hoạt động sản xuất làm giảm hiệu quả kinh doanh của DN điều, VLĐ
được chia thành ba loại sau:
Thứ nhất, vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: gồm giá trị các khoản nguyên
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, động lực, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.
Thứ hai, vốn lưu động trong khâu sản xuất: Gồm các sản phẩm dở dang, bán
thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển.
Thứ ba, vốn lưu động trong khâu lưu thông: Gồm các khoản giá trị thành phẩm,
vốn bằng tiền, các khoản vốn đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay
ngắn hạn ), các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược, ký quỹ ngắn hạn; các khoản vốn
trong thanh toán ( các khoản phải thu, các khoản tạm ứng )
Thang Long University Library
5
1.1.4.2. Phân loại vốn lưu động theo hình thái biểu hiện
Thứ nhất, vốn vật tư, hàng hóa: Là các khoản vốn có hình thái biểu hiện bằng
hiện vật cụ thể như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành
phẩm,…
Thứ hai, vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tồn quỹ, tiền
gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn
hạn,…
Thứ ba, các khoản phải thu: Bao gồm các khoản mà doanh nghiệp phải thu của
các khách hàng và các khoản phải thu khác.
Vốn lưu động khác: Bao gồm các khoản dự tạm ứng, chi phí trả trước, cầm cố ký
quỹ, ký cược,…
Thông qua cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở để tính toán
và kiểm tra kết cấu tối ưu của vốn lưu động để dự thảo những quyết định tối ưu về
mức tận dụng số vốn lưu động đã bỏ ra. Mặt khác thông qua cách phân loại này có thể

tìm biện pháp phát huy chức năng của các thành phần vốn lưu động bằng cách xác
định mức dự trữ hợp lý để từ đó xác định nhu cầu vốn lưu động.
1.1.4.3. Phân loại vốn lưu động theo nguồn hình thành
Theo cách phân loại này vốn của doanh nghiệp được chia thành 2 nguồn: vốn chủ
sở hữu và vốn đi vay
- Vốn chủ sở hữu
Vốn do nhà nước cấp cho doanh nghiệp được xác nhận trên cở sở biên bản giao
nhận vốn mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển. Doanh nghiệp
sử dụng vốn này nộp cho ngân sách nhà nước một tỷ lệ phần trăm nào đó trên vốn cấp.
Vốn tự bổ sung: Là vốn do chính doanh nghiệp bỏ ra bổ sung cho quá trình sản
xuất và kinh doanh, để mở rộng thêm quy mô sản xuất cho doanh nghiệp.
Vốn góp liên doanh: Vốn do doanh nghiệp liên doanh liên kết với doanh nghiệp
khác nhằm thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là hình thức huy động vốn
quan trọng vì hoạt động tham gia góp vốn liên doanh gắn với chuyển giao công nghệ,
thiết bị giữa các bên tham gia nhằm đổi mới sản phẩm và tăng sự cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
- Vốn đi vay (Vốn tín dụng)
Ngoài VCSH ra thì doanh nghiệp còn sử dụng các nguồn vốn đi vay khác nhằm
đảm bảo được quá trình sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp theo chu kỳ. Hiện nay
các doanh nghiệp có thể vay từ các ngân hàng thương mại, vay người lao động trong
doanh nghiệp hoặc vay các doanh nghiệp khác.
6
Vốn tín dụng ngân hàng: Là vốn mà doanh nghiệp đi vay tại các ngân hàng
thương mại. Ngân hàng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp với
thời hạn vài ngày hoặc một năm tùy vào lượng vốn vay của doanh nghiệp. Tuy nhiên
lựa chọn phương pháp tín dụng này doanh nghiệp cần phân tích kỹ lưỡng về việc lựa
chọn ngân hàng, cân nhắc khả năng trả nợ và việc sử dụng vốn ra sao.
Vốn huy động qua thị trường chứng khoán: Đây là nơi huy động các vốn dài hạn
và ngắn hạn của mọi doanh nghiệp. Là công cụ chính quan trọng thường được sử dụng
vào mục đích vay dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên

cách này khá rủi ro vì nếu tình hình doanh nghiệp không tốt thì số lượng mua cổ phiếu
cho công ty sẽ giảm.
Vốn chiếm dụng người lao động: Có thể hiểu là khoản phải trả lương thưởng cho
cán bộ nhân viên, quản lý và các khoản thuế nhưng chưa đến hạn trả hoặc khoản đặt
cọc. Sử dụng vốn chiếm dụng này doanh nghiệp không phải lo trả lãi nhưng nguồn vốn
nhỏ không lớn đủ cho quá trình sản xuất cho doanh nghiệp
1.1.4.4. Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn
Nguồn vốn lưu động tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (nhỏ hơn 1
năm) chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời về VLĐ phát sinh trong
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản
vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các khoản nợ ngắn hạn, nợ phải trả
cho người bán, các khoản phải nộp cho nhà nước, phải trả, phải nộp khác…
Nguồn VLĐ thường xuyên: Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được thường
xuyên, liên tục, DN cần phải có một lượng TSLĐ nhất định trong giai đoạn chu kỳ
kinh doanh như: các khoản dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm
và nợ phải thu của khách hàng. Do đó, những TSLĐ được gọi là TSLĐ thường xuyên,
ứng với khối lượng TSLĐ này là VLĐ thường xuyên. VLĐ thường xuyên là tổng thể
các nguồn vốn có tính ổn định và dài hạn để hình thành nên TSLĐ.
VLĐ thường xuyên = Giá trị TSLĐ – Nợ ngắn hạn
Hoặc: VLĐ thường xuyên = Tổng vốn thường xuyên – Giá trị còn lại của TSCĐ
Trong đó: Tổng vốn thương xuyên = Vốn CSH + Nợ dài hạn
Giá trị còn lại của TSCĐ = Nguyên giá của TSCĐ – Giá trị hao mòn lũy kế
Việc phân loại này giúp người quản lý xem xét huy động các nguồn VLĐ một
cách phù hợp với thời gian sử dụng để nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ
trong doanh nghiệp. Thêm nữa, nó còn giúp nhà quản lý lập kế hoạch tài chính, hình
thành nên những dự định về tổ chức nguồn VLĐ trong tương lai, trên cơ sở đó xác
Thang Long University Library
7
định quy mô VLĐ cần thiết để lựa chọn nguồn VLĐ nào mang lại hiệu quả cao nhất
cho doanh nghiệp.

1.1.5. Vai trò của vốn lưu động
Để tiến hành khâu nhập vật phẩm, các thiết bị điện tử điện máy, doanh nghiệp
phải bó ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, phục vụ cho việc kinh
doanh thương mại. Như vậy vốn lưu động là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào
hoạt động, hay nói cách khác vốn lưu động là điều kiện tiên quyết của quá trình kinh
doanh.
Ngoài ra vốn lưu động đảm bảo cho quá trình vận chuyển hàng hóa và nhu cầu
mua bán của doanh nghiệp cũng như người mua. Vốn lưu động là công cụ phản ánh
đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ hàng hóa tiêu thụ của doanh nghiệp.
Vốn lưu động còn có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh
nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử
dụng vốn nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp phải huy động them lượng
vốn nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. Vốn lưu động còn giúp
cho doanh nghiệp chớp thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Vốn lưu động còn lại vộ phậm chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm do đặc
điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị hàng hóa được bán ra
dựa trên cơ sở vốn mua đầu vào cộng them một phần lợi nhuận. Do đó vốn lưu động
đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa bán ra.
1.2. Quản lý vốn lƣu động
1.2.1. Khái niệm quản lý VLĐ
Vốn lưu động trong doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp thương mại thì vốn lưu động
chiếm tỷ trọng lớn nhất. Mọi hoạt động kinh tế hàng ngày phát sinh ở doanh nghiệp để
liên quan tới vốn lưu động, trực tiếp ảnh hưởng đến sự thay đổi của vốn lưu động. Vì
vậy, quản lý vốn lưu động có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Từ những nhận định bên trên ta có thể rút ra được khái niệm tổng quan nhất về
quản lý vốn lưu động: Quản lý vốn lưu động chính là việc các doanh nghiệp sử dụng
các khoản vốn bằng tiền, hàng tồn kho, phải thu khách hàng một cách hiệu quả nhất
nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận.


8
1.2.2. Nội dung quản lý vốn lưu động
1.2.2.1. Xác định nhu cầu vốn lưu động
a. Khái niệm
Định mức vốn lưu động là xác định số vốn chiếm dụng cần thiết, tối thiểu trên
các giai đoạn luân chuyển vốn nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được
tiến hành thường xuyên liên tục.
(PGS.TS Nguyễn Đình Kiệm – TS. Bạch Đức Hiền)
Ý nghĩa của việc xác định nhu cầu vốn lưu động
Thứ nhất, việc dự báo xác định nhu cầu vốn lưu động là cơ sở để doanh nghiệp sử
dụng vốn hợp lý tiết kiệm.
Thứ hai, xác định nhu cầu vốn lưu động hợp lý là căn cứ để đánh giá kết quả công tác
quản lý vốn của doanh nghiệp, nhằm củng cố chế độ hạch toán kinh tế.
Thứ ba, xác định nhu cầu vốn lưu động là căn cứ xác định mối quan hệ thanh toán giữa
doanh nghiệp với doanh nghiệp và ngân hàng khác.
b. Nguyên tắc xác định nhu cầu vốn lưu động
Việc xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp phải được tuân thủ các nguyên tắc
như sau:
Việc xác định nhu cầu vốn lưu động trước hết cần phải xuất phát từ tình hình
thực tế kinh doanh của doanh nghiệp, nhu cầu vốn cần phải đảm bảo cho quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp một cách hợp lý, tránh tình trạng ứ đọng vốn hoặc thiếu
vốn gây ảnh hưởng đến việc kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các mức nhu cầu vốn lưu động phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm.
Tránh lạm dụng hay gây lãng phí vốn ảnh hưởng đến sự tăng doanh thu và sinh lời của
một đồng vốn bỏ ra.
Việc xác định cần phải đảm bảo cân đối với các bộ phận kế toán trong doanh
nghiệp, vì VLĐ là một bộ phận cấu thành nguồn tài chính của doanh nghiệp.
c. Phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động
Phương pháp trực tiếp xác định nhu cầu VLĐ

Nội dung của phương pháp này là căn cứ vào các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
nhu cầu VLĐ trong từng khâu: sản xuất, dự trữ, lưu thông để xác định được vốn lưu
động cần thiết trong mỗi khâu của quá trình chu chuyển vốn lưu động. Trên cơ sở xác
định nhu cầu vốn lưu động cần thiết của doanh nghiệp trong kỳ bằng cách tập hợp nhu
cầu vốn lưu động trong các khâu.
Thang Long University Library
9
Xác định nhu cầu vốn lưu động theo phương pháp trực tiếp được áp dụng cụ thể
cho các khâu trong quá trình sản xuất như sau:
- Xác định nhu cầu vốn lưu động cho khâu dự trữ sản xuất:
Đối với nguyên vật liệu chính, công thức tính toán như sau
V
nl
= M
n
* N
nl
Trong đó:
V
nl
: Nhu cầu về vốn dự trữ nguyên vật liệu chính năm kế hoạch.
M
n
: Chi phí nguyên vật liệu chính bình quân một ngày trong năm kế hoạch.
N
nl
: Số ngày dự trữ cần thiết về nguyên vật liệu chính.
Chi phí nguyên vật liệu chính bình quân một ngày trong năm kế hoạch được xác
định bằng cách lây tổng chi phỉ sử dụng nguyên vật liệu chính trong năm kế hoạch
chia cho số ngày trong năm. Trong đó tổng chi phí nguyên vật liệu sử dụng trong năm

được xác định căn cứ vào số lượng sản phẩm dự kiến sản xuất, mức tiêu dùng nguyên
vật liệu chính cho mỗi đơn vị sản phẩm và đơn giá kế hoạch của nguyên vật liệu.
Số ngày dự trữ cần thiết về nguyên vật liệu chính bao gồm số ngày cách nhau
giữa hai lần mua hay giữa hai lần nhập kho nguyên vật liệu chính và số ngày dự trữ
bảo hiểm.
Đối với những loại vật tư có giá trị thấp, số lượng tiêu hao không nhiều hoặc
không thường xuyên thì có thể ước tính dự trữ bằng một tỷ lệ phần trăm so với chi phí
sử dụng loại vật tư đó trong kỳ hoặc có thể dùng công thức sau:
V
k
= M
k
* T%
Trong đó:
V
k
: Nhu cầu vốn dự trữ của loại vật tư khác trong khâu dự trữ năm kế hoạch.
M
k
: Tỏng mức luân chuyển của các loại vật tư khác trong kỳ kế hoạch.
T% : Tỷ lệ nhu cầu vốn so với tổng mức luân chuyển vốn của loại vật tư đó ở năm báo
cáo.
- Xác định nhu cầu vốn lưu động cho khâu trực tiếp sản xuất :
Vốn lưu động trong khâu sản xuất bao gồm vốn sản phẩm dở dang, vốn chi phí
chờ kết chuyển.
+ Xác định nhu cầu vốn sản phẩm dở dang : Đối với các doanh nghiệp đang sản
xuất, quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Vì vậy trong quá trình sản xuất thường xuyên
10
có một lượng sản phẩm dở dang. Đây là công thức xác định nhu cầu vốn sản phẩm dở
dang :

V
dd
= P
n
* C
k

Trong đó :
V
dd
: Nhu cầu vốn sản phẩm dở dang.
P
n
: Chi phí sản xuất sản phẩm bình quân một ngày trong kỳ kế hoạch.
C
k
: Chu kỳ sản xuất sản phẩm.
Chi phí sản xuất sản phẩm bình quân một ngày kỳ kế hoạch được xác định bằng
các lấy tổng chi phí sản xuất sản phẩm kỳ kế hoạch chia cho số ngày trong kỳ.
Chu kỳ sản xuất là độ dài thời gian của quá trình sản xuất sản phẩm được tính kể
từ khi đưa nguyên liệu vào khâu sản xuất cho đến khi sản phẩm được sản xuất xong và
hoàn thành các thủ tục nhập kho.
- Xác định nhu cầu vốn chi phí chờ kết chuyển:
Chi phí chờ kết chuyển là các chi phí thực tế đã phát sinh có liên quan đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trong nhiều kỳ nhưng chưa tính hết vào giá thành
sản phẩm trong kỳ mà được phân bổ dần vào nhiều kỳ liên tiếp, đòi hỏi doanh nghiệp
phải ứng ra lượng vốn nhất định. Có thể xác định nhu cầu vốn chi phí chờ kết chuyển
theo công thức sau:
V
p

= P
d
+ P
e
– P
p

Trong đó:
V
p
: Nhu cầu vốn chi phí chờ kết chuyển trong kỳ kế hoạch.
P
d
: Số dư chi phí chờ kết chuyển đầu kỳ kế hoạch.
P
e
: Chi phí chờ kết chuyển dự kiến phát sinh trong kỳ.
P
p
: Chi phí chờ kết chuyển dự kiến phân bổ vào giá thành sản phẩm trong kỳ.
- Xác định nhu cầu vốn lưu động trong khâu lưu thông:
Là nhu cầu vốn lưu động để lưu giữ, bảo quản sản phẩm, thành phẩm ở kho với
thành phẩm với quy mô cần thiết trước khi xuất giao cho khách hàng. Công thức xác
định:
V
tp
= Z
n
* N
tp


Trong đó:
V
tp
: Nhu cầu vốn dự trữ thành phẩm kỳ kế hoạch
Thang Long University Library
11
Z
n
: Gía vốn hàng bán bình quân mỗi ngày kỳ kế hoạch.
N
tp
: Số ngày dự trữ thành phẩm.
Giá vốn hàng bán bình quân mỗi kỳ kế hoạch được xác định bằng cách lấy tổng
giá vốn hàng bán trong năm kế hoạch chia cho số ngày trong năm ( 1 năm có 260
ngày).
Số ngày dự trữ thành phẩm là số ngày kể từ khi thành phẩm nhập kho cho đến
khi thành phẩm đươc j xuất giao cho khách hàng. Số ngày dự trữ thành phẩm xác định
trong hợp đồng tiêu thụ với khách hàng, nếu đã xác định rõ số ngày cách nhau giữa hai
lần giao hàng thì có thể lấy số ngày đó làm số ngày dự trữ thành phẩm, hoặc nếu số
ngày dự trữ thành phẩm ở kho là số ngày cần thiết để tích lũy đủ số hàng hóa để xuất
giao cho khách hàng thì được tính bằng trung bình quân.
- Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu VLĐ
Dựa vào số vốn lưu động bình quân năm báo cáo, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
năm kế hoạch và khả năng tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch để xác
định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp trong năm kế hoạch. Cách tính như sau :
Công thức 1 : V
nc
= VLĐ
o

*

M
1
/M
o
*(1 ± t%)
Trong đó :
V
nc
: Nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch.
VLĐ
o
: Số dư bình quân vốn lưu động năm báo cáo.
M
1,
M
o
: Tổng mức luân chuyển năm kế hoạch và năm báo cáo.
t%: Tỷ lệ tăng hoặc giảm số ngày luân chuyển VLĐ năm kế hoạch so với năm báo cáo.
M = Tổng doanh thu – thuế gián thu
VLĐ
o
= (Vđq
1
/2 + Vcq
1
+ Vcq
2
+ Vcq

3
+ Vcq
4
/2)/4
Vđq
1
: VLĐ đầu quý 1.
Vcq
1
, Vcq
2
, Vcq
3
, Vcq
4
: VLĐ cuối quý 1,2,3,4.
t % = (K
1
– K
o
) * 100/K
o
K
1,
K
o
: Kỳ luân chuyển VLĐ năm kế hoạch và năm báo cáo.
Trên thực tế để ước đoán nhanh nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch, các doanh
nghiệp thường sử dụng phương pháp căn cứ vào vòng quay VLĐ dự tính nhu cầu VLĐ
năm kế hoạch.

Công thức 2: V
1
= M
1
/ L
1

12
Trong đó:
M
1
: Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch.
L
1
: Số vòng quay vốn lưu động trong kỳ kế hoạch.
Để xác định nhu cầu VLĐ cần thiết cho năm kế hoạch ở từng khâu kinh doanh
theo phương pháp gián tiếp, doanh nghiệp có thể căn cứ vào tỷ trọng VLĐ được phân
bổ hợp lý trong các khâu kinh doanh theo thống kê kinh nghiệm ở các năm trước.
Phương pháp gián tiếp trong xác định nhu cầu VLĐ có ưu điểm là tương đối đơn
giản, giúp doanh nghiệp ước tính được nhanh chóng nhu cầu VLĐ năm kế hoạch để
xác định nguồn tài trợ phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay.
1.2.2.2. Quản lý tiền và chứng khoán ngắn hạn
Vốn bằng tiền của doanh nghiệp gồm tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng. Vốn
bằng tiền là yếu tố trực tiếp đến quyết định khả năng thanh toán của một doanh nghiệp
tương ứng với quy mô kinh doanh nhất định đòi hỏi thường xuyên phải có một lượng
tiền tương xứng mới đảm bảo cho tình hình tài chính doanh nghiệp ở trạng thái bình
thường. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi lư giữ vốn bằng tiền cũng nhằm 3 mục đích
sau:
- Thực hiện mục đích giao dịch để doanh nghiệp có thể lưu giữ vốn bằng tiền để
thanh toán tiền hàng, trả lương cho công nhân viên.

- Thực hiện mục đích đầu cơ, ngoài mục đích mua bán thì doanh nghiệp còn dự trữ
một lượng vốn bằng tiền để sẵn sàng thực hiện các cơ hội kinh doanh khi tỷ suất lợi
nhuận cao.
- Thực hiện mục đích phòng bị, trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vốn
bằng tiền vận động không theo một quy luật nhất định nào cả, do vậy doanh nghiệp
phải duy trì một vùng đệm an toàn để thỏa mãn các nhu cầu chi bất thường. Nếu khả
năng dự đoán cao thì nhu cầu dự trữ vốn bằng tiền cho mục đích phòng ngừa sẽ rất
thấp.
- Ta có thể quan sát hình dưới đây mô tả hệ thống quản trị tiền mặt, trong đó nổi bật
lên các vấn đề liên quan đến quản lý tiền mặt bao gồm: quyết định tồn quỹ tiền mặt,
quản lý quá trình thu chi tiền mặt và đầu tư tiền mặt nhàn rỗi nhằm mục tiêu sinh lời.
Thang Long University Library
13
Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống quản lý tiền mặt

a. Xác định mức dự trữ tiền mặt
Việc xác định mức dự trữ tiền mặt có ý nghĩa quan trọng, giúp doanh nghiệp đảm
bảo khả năng thanh toán bằng tiền mặt cần thiết trong kỳ, tránh được rủi ro mất khả
năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp dự trữ tiền mặt quá nhiều có thể gây ra tình trạng ứ
đọng vốn do tiền không được đầu tư vào các tài sản sinh lời. Vì vậy doanh nghiệp cần
ngoài việc dự trữ tiền còn nên chuyển sang năm giữ chứng khoán ngắn hạn có khả
năng thanh khoản cao trên thị trường.
Để xác định mức dự trữ tiền mặt hợp lý doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều
phương pháp như: Sử dụng mô hình Baumol hoặc mô hình Mille – Orrr.
Mô hình Baumol dưới đây mô tả tình hình tiền mặt của công ty biến thiên như sau:
Đồ thị 1.1. Đồ thị thể hiện mức dự trữ tiền mặt

(Nguồn: Giáo trình quản trị TCDN Nguyễn Minh Kiều)
14
Giả định của mô hình: công ty áp dụng tỷ lệ bù đắp tiền mặt không đổi, không có

số thặng dư tiền mặt trong kỳ hoạch định, không có dự trữ tiền mặt cho mục đích an
toàn và dòng tiền tệ rời rạc.
Các biến số liên quan:
F: Chi phí cố định phát sinh khi giao dịch chứng khoán ngắn hạn
T: Tổng số tiền mặt cần bù đắp cho giao dịch trong năm
K: Chi phí cơ hội do giữ tiền mặt
C: Tồn quỹ tiền mặt đầu kỳ
C/2: Tồn quỹ tiền mặt bình quân
T/C: Số lần công ty bán chứng khoán để bù đắp tiền mặt đã chi tiêu
(T/C)*F: Chi phí giao dịch, tổng chi phí = TC = (C/2)*K + (T/2)*F
Mô hình Miller – Orrr xác định các giới hạn trên và giới hạn dưới của tiền mặt.
Đó là thời điểm doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ mua bán chứng khoán để cân
đối lượng tiền mặt
Đồ thị 1.2. Sự vận động của vốn bằng tiền theo mô hình Miller – Orrr

(Nguồn: Giáo trình quản trị TCDN Nguyễn Minh Kiều)
Nhìn vào đồ thị trên ta thấy lượng vốn tiền mặt vận động không theo quy luật đến
khi đạt được một giới hạn trên. Tại điểm này doanh nghiệp sẽ dùng tiền mua chứng
khoán nhằm làm giảm số dư vốn bằng tiền mục tiêu. Mức vốn bằng tiền lưu trữ giao
động một cách tự do cho tới khi đạt một giới hạn trên hoặc giới hạn dưới, khi đó doanh
nghiệp mua hay bán chứng khoán để tái lập số dư vốn bằng tiền mong muốn.


Thang Long University Library
15
b. Quản lý các khoản thu chi bằng tiền:
Doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ các khoản thu chi bằng tiền để tránh tình
trạng mất mát, lạm dụng tiền của công mưu lợi cá nhân. Trong việc quản lý doanh
nghiệp cần chú ý điểm sau:
- Tất cả các khoản thu chi tiền phải thông qua quỹ.

- Việc xuất quỹ tiền hàng ngày phải trên cơ sở phiếu thu chi tiền mặt hợp lý và
hợp pháp. Sau mỗi ngày sẽ kiểm tra, nếu có chênh lệch thì thủ quỹ và kế toán
phải kiếm tra để xác định nguyên nhân và kiến nghị biện pháp xử lý kịp thời.
- Tăng tốc quá trình thu tiền và làm chậm quá trình chi tiền.
c. Đầu tư tiền nhàn rỗi
Trong thời gian doanh nghiệp hoạt động ổn định, có một lượng tiền tạm thời
nhàn rỗi, số tiền này cần được đầu tư nhằm mục đích sinh lời bằng cách mua các
chứng khoán ngắn hạn. Với doanh nghiệp thương mại, thì đầu tư tiền nhàn rỗi thông
qua tài sản tài chính ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại hoặc qua các nhà kinh
doanh, môi giới đầu tư.
1.2.2.3. Quản lý tín dụng thương mại (Phải thu khách hàng)
Trong các khoản phải thu thì khoản thu khách hàng là quan trọng nhất và chiếm
tỷ lệ đáng kể. Khoản phải thu khách hàng là một bộ phận thuộc TSLĐ của doanh
nghiệp phát sinh do doanh nghiệp bán chịu hàng hoá hoặc dịch vụ cho khách hàng của
mình. Bởi vì do yếu tố cạnh tranh cũng như nhu cầu tăng doanh số bán ra, các doanh
nghiệp luôn phải chấp nhận bán hàng theo phương thức tín dụng, cho nên các khoản
phải thu là một tất yếu được xác định trong vốn lưu động của doanh nghiệp bán hàng
theo phương thức tín dụng được các doanh nghiệp sử dụng như là điều kiện thanh
toán, điều kiện bán hàng với khách hàng đồng thời nó cũng là công cụ của doanh
nghiệp trong quá trình cạnh tranh.
Các biện pháp quản lý khoản phải thu:
a. Xác định chính sách bán chịu (chính sách tín dụng TM) với khách hàng
Nợ phải thu từ khách hàng của doanh nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào khối lượng
hàng hóa, dịch vụ bán chịu cho khách hàng và thời gian bán chịu. Vì vậy để quản lý tốt
các khoản phải thu trước hết chúng ta nghiên cứu các yếu tố quyết định đến chính sách
bán chịu.
- Mục tiêu mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh
nghiệp.
- Tính chất thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ của một số sản phẩm.
16

- Tình hình tài chính doanh nghiệp không thể mở rộng bán chịu cho khách hàng
khi nợ phải thu của doanh nghiệp ở mức cao và có sự thiếu hụt lớn vốn bằng
tiền trong cân đối thu chi bằng tiền.
b. Phân tích năng lực tài chính của khách hàng
Để tránh những tổn thấy do nợ không thể thu hồi công ty cần chú ý đến việc phân
tích uy tín của khách hàng trước khi quyết định có nên bán chịu hay khong. Quy trình
đánh gái uy tín tín dụng của khách hàng qua 3 bước: đầu tiên là thu thấp thông tin về
khách hàng, bước thứ hai là phân tích thông tin thu thập được để phán quyết về uy tín
tín dụng của khách hàng và bước ba là quyết định có bán chịu hay không. Toàn bộ quy
trình được mô tải hình sau:
Hình 1.2. Quy trình đánh giá uy tín khách hàng

(Nguồn: Giáo trình quản trị TCDN Nguyễn Minh Kiều)
Bước 1: Thu thập thông tin về khách hàng: Để quyết định cho khách hàng chính
sách bán chịu, trước tiên doanh nghiệp cần lập được hồ sơ của khách hàng bao gồm:
Thông tin cá nhân, mục đích cấp tín dụng và thời gian có thể thu hồi được nợ của
khách hàng.
Bước 2: Phân tích thông tin thu thập được để phán quyết về uy tín tín dụng của
khách hàng: Để quyết định cấp tín dụng cho khách hàng hay không thì việc đầu tiên
doanh nghiệp phải làm là phân tích năng lực tín dụng của khách hàng. Để làm được
điều này doanh nghiệp trước tiên phải xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý, thứ
hai là xác minh phẩm chất tín dụng của khách hàng. Nếu tiêu chuẩn khách hàng phù
hợp tiêu chuẩn tối thiểu doanh nghiệp đưa ra thì mới cấp tín dụng. Tuy nhiên tiêu
chuẩn tín dụng phải phù hợp, nếu doanh nghiệp đặt ra tiêu chuẩn tín dụng quá cao có
thể sẽ bị mất khách hàng có tiềm năng còn nếu tiêu chuẩn quá thấp thì đem lại doanh
thu cho doanh nghiệp nhưng mặt khác doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro
Thang Long University Library
17
và chi phí thu tiền cao. Sau đây là một số tiêu chuẩn để đánh giá khả năng tín dụng của
khách hàng:

- Phẩm chất tư cách tín dụng: Phản ánh tinh thần trách nhiệm của khách hàng trong
việc trả nợ. Điều này phản ánh trên cơ sở thanh toán các khoản nợ trước đây của doanh
nghiệp và của doanh nghiệp khác.
- Năng lực trả nợ: Khả năng thanh toán và dự trữ của khách hàng. Bên cạnh đó
doanh nghiệp có thể căn cứ vào tài sản mà khách hàng mang ra thế chấp để quyết định
việc có cấp tín dụng hay không.
- Vốn của khách hàng: Thông qua lượng vốn của khách hàng doanh nghiệp đánh
giá được sức mạnh tài chính của khách hàng.
Bước 3: Quyết định chính sách bán chịu cho khách hàng:
Từ những phân tích phía trên, doanh nghiệp sẽ dựa vào những tiêu chuẩn để ra
quyết định xem khách hàng có đáp ứng được nhu cầu khả năng trả nợ để doanh nghiệp
tiến hành cấp tín dụng cho khách hàng. Sau khi cấp tín dụng, việc quan trọng mà
doanh nghiệp cần làm đó là theo dõi tình hình phải thu khách hàng. Luôn mở sổ theo
dõi chi tiết nợ phải thu và tình hình thanh toán với khách hàng, cần thường xuyên xem
xét đánh giá tình hình nợ phải thu. Để theo dõi các khoản nợ phải thu doanh nghiệp có
thể sử dụng công thức sau:
Thời gian thu nợ trung bình (ACP)
Thời gian thu nợ TB =
360
Số vòng quay các khoản phải thu
Theo dõi sự thay đổi của thời gian thu nợ trung bình sẽ giúp các doanh nghiệp
kịp thời đưa ra điều chỉnh về chính sách tín dụng và thu tiền. Tuy nhiên chỉ tiêu này
không có hiệu quả khi sử dụng nội bộ để theo dõi thu tiền của doanh nghiệp.
- Các tiếp cận dựa trên mẫu hình phải thu:
Mẫu hình phải thu là tỷ lệ % của doanh thu bán hàng trả chậm vẫn chưa thanh
toán trong tháng ghi nhận doanh thu và trong những tháng tiếp theo. Do các khoản
phải thu được chia nhỏ theo từng tháng phát sinh doanh thu nên theo dõi sự thay đổi
trong mẫu hình phải thu giúp các doanh nghiệp ghi nhận ngay sự thay đổi trong hành
vi thanh toán của khách hàng.
Thường xuyên theo dõi và phân tích cơ cấu nợ phải thu theo thời gian, xác định

trọng tâm quản lý nợ phải thu để có biện pháp quản lý chặt chẽ. Ngoài ra chủ động áp
dụng các biện pháp thu hồi nợ dài hạn. Trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi để chủ
động bảo toàn vốn lưu động.
18
1.2.2.4. Quản lý hàng tồn kho
Để xác định mức độ đầu tư vào HTK tối ưu cần so sánh lợi ích đạt được và chi
phí phát sinh kể cả chi phí cơ hội của việc đầu tư vào hàng lưu kho.
Hàng lưu kho thường chiếm một khoản đầu tư lớn trong doanh nghiệp và cần
được quản lý hiệu quả. Trên cơ sở cân đối lợi ích đạt được và chi phí phát sinh của
việc đầu tư vào hàng lưu kho., doanh nghiệp phải quản lý hàng lưu kho sao cho đảm
bảo cung cấp yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục,
đảm bảo cung cấp đầu ra đáp ứng nhu cầu của thị trường. Việc dự trữ hàng tồn kho
mang lại lợi ích cho cả hai bộ phận sản xuất và bộ phận marketing của doanh nghiệp.
Mô hình EOQ (The Economic Order Quantity Model)
Mục tiêu của mô hình EOQ: Mô hình EOQ xác lập nhằm mục đích xác định tần suất
và số lượng đặt hàng, lượng hàng tồn kho trung bình cần nắm giữ tối ưu.
Giả định của mô hình: Nhu cầu về HTK là ổn định, không có biến động về nhu cầu
HTK, bao gồm cả yếu tố đầu vào đầu ra. Không có biến động về giá, không có tổn thất
trong khâu dự trữ. Chi phí phát sinh loại chi phí dự trữ và chi phí đặt hàng. Thời gian
đặt hàng là cố định, khoảng thời gian này có thể xác định trước một cách chính xác và
không thay đổi tại các thời điểm khác nhau. Không có thiếu hụt xảy ra nếu đơn đặt
hàng được thực hiện đúng hạn.
Sơ đồ 1.1. Mô hình EOQ
Tổng chi phí

Chi phí Chi phí dự trữ


Chi phí đặt hàng
Q* Số lượng đặt hàng

(Nguồn: Giáo trình quản trị TCDN Nguyễn Minh Kiều)
Công thức:
- Chi phí lưu kho
Với lượng hàng mỗi lần đặt là Q thì lượng HTK trung bình sẽ là Q/2. Tổng chi
phí lưu kho sẽ bằng số lượng HTK trung bình nhân với chi phí dự trữ của một đơn vị
hàng lưu kho:
Chi phí lưu kho = (Q/2) * C
Thang Long University Library
19
- Chi phí đặt hàng
Tương tự như vậy, với S là doanh số bán ra tính theo đơn vị sản phẩm trong một
năm, số lần đặt hàng trong một năm sẽ bằng S/Q, gọi O là chi phí của mỗi lần đặt
hàng, ta có tổng chi phí đặt hàng trong một năm:
Chi phí đặt hàng = (S/Q) * O = S * O/Q
- Tổng chi phí
Để tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu, công ty cần tối thiểu hóa chi phí cho
lưu trữ HTK.
Tổng chi phí = Chi phí lưu kho + Chi phí đặt hàng
= C * Q/2 + S * O/Q
- Mức dự trữ kho tối ưu Q*
Theo đúng lý thuyết, tổng chi phí cho hàng lưu cho sẽ đạt giá trị nhỏ nhất tại
điểm mà đạo hàm bậc nhất của nó bằng 0. Đi tìm giá trị của biến Q mà tại đó đạo hàm
bậc nhất của tổng chi phí cho hàng lưu kho = 0, ta có mức dự trữ kho tối ưu khi tổng
chi phí là tối thiểu:
Q* = √(2 * S * O/C)
Trong đó:
C: Chi phí dự trữ của một lần đơn vị hàng lưu kho.
O: Chi phí cho một lần đặt hàng
Q: Số lượng của một lần đặt hàng
S: Số lượng bán một thời kỳ (năm)

1.2.2.5. Huy động nguồn tài trợ
Nguồn tài trợ của doanh nghiệp là các nguồn tài chính mà doanh nghiệp có thể
khai thác, huy động để đáp ứng nhu cầu vốn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Có thể chia thành nguồn tài trợ ngắn hạn và dài hạn
- Nguồn ngắn hạn:
+ Nợ phải trả có tính chất chu kỳ: Các khoản nợ này là khoản nợ tích lũy, luôn phái
sinh thường xuyên trong hoạt động kinh doanh. Khi các khoản nợ chưa đến kỳ hạn
thanh toán thì doanh nghiệp có thể xử dụng tạm thời vào các hoạt động kinh doanh của
mình.
20
+ Tín dụng nhà cung cấp: Là hình thức tài trợ quan trọng trong nhu cầu VLĐ ngắn
hạn của doanh nghiệp, hình thành khi doanh nghiệp mua hàng hóa từ nhà cung cấp
nhưng chưa phải trả tiền ngay, nên doanh nghiệp có thể sử dụng tài sản mua được nhà
cung cấp như nguồn vốn bổ sung để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn doanh
nghiệp.
+ Vay ngắn hạn ngân hàng: Nguồn tài trợ quan trọng với doanh nghiệp hiện nay, sử
dụng vốn vay ngân hàng là phải sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, có vật tư đảm
bảo và có thời hạn kèm trả lãi.
- Nguồn dài hạn:
+ Cổ phiếu thường: Phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán làm tăng vốn đầu
tư dài hạn cho công ty, không có thời gian đáo hạn vốn nên công ty không phải trả vốn
gốc theo kỳ hạn cố định nên giúp công ty chủ động sử dụng vốn linh hoạt trong kinh
doanh.
+ Vay dài hạn các tổ chức tín dụng: Vay dài hạn ngân hàng là nguồn vốn tín dụng
quan trọng, vay vốn dài hạn ngân hàng thông qua thời gian trên 1 năm, việc sử dụng
vay nợ ngân hàng có thể mang lại lợi ích cho chủ sở hữu doanh nghiệp.
1.2.3. Chiến lược quản lý vốn lưu động
1.2.3.1. Chiến lược quản lý TSLĐ
Chính sách quản lý tài sản lưu động được chia làm 2 trường phái cấp tiến và thận
trọng.


Quản lý tài sản cấp tiến Quản lý tài sản thận trọng





Quản lý theo trường phái cấp tiến đồng nghĩa với việc duy trì tỷ trọng TSLĐ
thấp.
Việc quản lý tài sản lưu động có một số đặc điểm như: mức tài sản lưu động thấp
nhưng đựợc quản lý cấp tiến và hiệu quả, công ty chỉ giữ một mức tối thiểu tiền và
chứng khoán, dựa vào sự quản lý hiệu quả và khả năng vay ngắn hạn để đáp ứng các
nhu cầu bất thường. Thời gian quay vòng tiền ngắn. Do phải thu khách hàng và hàng
TSCĐ
TSCĐ
TSLĐ
TSLĐ
Hình 1.3. Mô hình quản lý tài sản lưu động
Thang Long University Library
21
tồn kho giảm nên vòng quay của chúng tăng. Do đó chính sách này rút ngắn chu kỳ
kinh doanh và dẫn tới rút ngắn thời gian quay vòng của tiền.
Một số ưu điểm mà chính sách cấp tiến mang lại là chi phí thấp hơn dẫn tới lợi
nhuận trước thuế và lãi cao hơn. Do khoản thu khách hàng ở mức thấp nên chi phí
quản lý dành cho công nợ cùng tổng giá trị của những khoản nợ không thể thu hồi
được sẽ giảm đi. Thêm vào đó, việc doanh nghiệp dự trữ ít hàng tồn kho hơn cũng
giúp tiết kiệm chi phí lưu kho. Nhờ tiết kiệm được chi phí nên lợi nhuận của DN tăng.
Tuy nhiên, DN cũng có thể gặp phải những rủi ro như: cạn kiệt hay không có đủ
tiền để có được những chính sách quản lý hiệu quả, mất doanh thu khi dự trữ hàng lưu
kho, mất doanh thu khi sử dụng các chính sách tín dụng chặt để duy trì khoản phải thu

khách hàng thấp.
Quản lý tài sản lưu động theo chính sách thận trọng: là việc duy trì tỷ trọng
TSLĐ nhiều hơn TSCĐ. Chính sách này có một số đặc điểm ngược lại với chính sách
quản lý cấp tiến:
Thời gian quay vòng tiền dài hơn do hàng tồn kho tăng từ đó làm giảm vòng quay
của hàng tồn kho kéo theo làm tăng thơi gian luân chuyển trung bình. Thêm nữa, do
khoản phải thu khách hàng tăng nên làm giảm vòng quay các khoản phải thu từ đó làm
tăng thời gian thu nợ trung bình.
Việc dự trữ tiền, hàng tồn kho và phải thu khách hàng ở mức cao sẽ làm tăng các
khoản chi phí của DN như chi phí cơ hội, chi phí dự trữ tiền, chi phí lưu kho,… Trong
trường hợp này nếu DN có mức doanh thu thấp hơn sẽ kéo theo lợi nhuận thấp hơn.
Mô hình quản lý tài sản thận trọng mang tính rủi ro thấp hơn do khả năng thanh
toán ngắn hạn của DN được đảm bảo, dự trữ hàng tồn kho kịp thời phục vụ nhu cầu thị
trường.
Với chính sách quản lý thận trọng mang lại những ưu điểm nhất định như kịp
thời có hàng bán khi cần thiết, khả năng thanh toán cao và độc lập về tài chính. Tuy
nhiên, song song với đó là quản lý theo chiến lược này làm tăng chi phí về vốn và kéo
dài chu kỳ chu chuyển của tiền.

22
1.2.3.2. Chiến lược quản lý nợ ngắn hạn
Quản lý nợ ngắn hạn có hai chính sách đó là quản lý nợ cấp tiến và quản lý nợ
thận trọng.

Quản lý tài sản cấp tiến Quản lý tài sản thận trọng







Quản lý nợ ngắn hạn theo trường phái cấp tiến là chính sách duy trì mức nợ
ngắn hạn cao.
Đối với chính sách này, đặc điểm thứ nhất là mức nợ ngắn hạn của doanh nghiệp
cao. Nợ ngắn hạn bao gồm phải trả người bán, vay ngắn hạn, nợ phải trả khác và nợ
dài hạn đến hạn trả. Cách tiếp cận quản lý cấp tiến là thanh toán chậm các khoản phải
trả người bán hết mức có thể nhưng không gây mất uy tín tín dụng. Đặc điểm tiếp theo
là thời gian quay vòng tiền ngắn.Thông qua việc tăng giá trị khoản phải trả người bán
và các khoản nợ đọng khác, làm giảm vòng quay của các khoản phải trả, tăng thời gian
trả nợ trung bình và giảm thời gian quay vòng của tiền. Đặc điểm cuối cùng là chi phí
lãi thấp hơn nếu lãi suất ngắn hạn.
Tuy nhiên, với việc theo đuổi chính sách này các DN có thể gặp một vài rủi ro
trong thanh toán do phải đáo hạn khi các khoản nợ ngắn hạn đến hạn mà DN vẫn
muốn có vốn. Điều này đòi hỏi phải đánh đổi bằng thu nhập cao hơn.
Quản lý nợ ngắn hạn theo trường phái thận trọng:
Doanh nghiệp huy động một mức tài trợ ngắn hạn thấp trong tổng nguồn vốn.
Thời gian luân chuyển vốn bằng tiền trung bình dài do tỷ trọng nợ ngắn hạn thấp, DN
chủ yếu dùng nguồn vay dài hạn để đầu tư cho tài sản lưu động. Do đó tại thời điểm
hiện tại DN chưa phải đối mặt với áp lực trả nợ nhiều. Thế nhưng chi phí trả lãi cao
hơn do lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn. Ngoài ra, DN phải đối mặt với
chiến lược rủi ro thấp do DN huy động vốn chủ yếu từ nguồn tại trợ dài hạn, khả năng
tự chủ tài chính cao.
Nợ ngắn hạn
Nợ dài hạn
Nợ ngắn hạn
Nợ dài hạn
VCSH VCSH
Hình 1.4. Mô hình quản lý nợ ngắn hạn
Thang Long University Library
23

1.2.3.3. Chiến lược quản lý vốn lưu động
Ở phía trên ta đã xem xét một cách độc lập giữa mô hình quản lý TSLĐ và mô
hình quản lý nợ NH. Khi kết hợp 2 mô hình này lại chúng ta có mô hình quản lý VLĐ
của doanh nghiệp. Ta xét 3 chiến lược công ty theo chính sách đó, là cấp tiến, thận
trọng và dung hòa.
Chính sách cấp tiến: Nội dung chính sách là xử dụng 1 phần nguồn vốn ngắn hạn
để tài trợ cho Tài sản dài hạn. Mức TSLĐ thấp nhưng quản lý cấp tiến và hiệu quả,
công ty giữ mức tối thiểu tiền và chứng khoán khả thi và dựa vào sự quản lý hiệu quả
khả năng vay ngắn hạn để đáp ứng các nhu cầu bất thường.
Theo đuổi chính sách quản lý cấp tiến doanh nghiệp dễ mắc phải rủi ro như cạn
kiệt tiền hay không có đủ tiền có được chính sách quản lý hiệu quả, mất doanh thu khi
dự trữ thiếu hụt hàng lưu kho.







Chính sách thận trọng: chính sách này có tỷ trọng tài sản lưu động cao và tỷ
trọng nợ ngắn hạn thấp. Khi doanh nghiệp theo chính sách thận trọng thì tỷ trọng được
cân bằng. Mô hình này doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho tài sản
lưu động. Nếu công ty có trạng thái tài sản lưu động thận trọng thì cần làm cân bằng
rủi ro bằng cách theo chính sách nợ cấp tiến.









TSLĐ
TSCĐ
Nguồn vốn
ngắn hạn
Nguồn vốn
dài hạn
TSLĐ
TSCĐ
Nguồn vốn
dài hạn
Nguồn vốn
ngắn hạn
Hình 1.5. Chính sách quản lý vốn lưu động cấp tiến
Hình 1.6. Chính sách quản lý vốn lưu động thận trọng
24
Chính sách dung hòa: Nếu công ty có trạng thái tài sản lưu động trung bình, công
ty cần làm cân bằng rủi ro bằng cách theo chính sách nợ trung bình. Tăng tạm thời
trong tài sản lưu động cần được đảm bảo bằng nguồn vốn ngắn hạn mà có thể hoàn trả
khi đầu tư vào tài sản lưu động giảm. Đối với TSLĐ thường xuyên hay TSCĐ cần
nhiều thời gian để chuyển đổi thành tiền, do đó cần tài trợ bằng nguồn tài chính dài
hạn.
Hình 1.7. Chính sách quản lý VLĐ dung hòa







1.3. Hiệu quả quản lý vốn lƣu động
1.3.1. Khái niệm hiệu quả quản lý vốn lưu động
Hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được
và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, chi phí càng ít mà kết quả thu được nhiều có
nghĩa là hiệu quả cao, ngược lại chi phí lớn mà kết quả thu về thấp thì không có hiệu
quả hoặc hiệu quả thấp.
Hiệu quả vốn lưu động biểu hiện ở tất cả các khâu quá trình sản xuất kinh doanh,
từ việc khai thác nguồn vốn, sử dụng vốn để mua hàng hóa cho đến khâu tiêu thụ sản
phẩm và thu hồi vốn. Các doanh nghiệp luôn phải tìm cách để cung ứng đầy đủ cho
nhu cầu kinh doanh, đồng thời tiết kiệm được vốn và đem lại hiệu quả cao nhất cho
doanh nghiệp.
Vậy, khái niệm hiệu quả quản lý vốn lưu động là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, được thể hiện bằng mối quan hệ so sánh
giữa kết quả kinh doanh với số vốn lưu động bỏ ra mà doanh nghiệp đầu tư cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
1.3.2. Sự cần thiết việc nâng cao hiệu quả quản lý VLĐ trong các doanh nghiệp
Dù là loại hình doanh nghiệp nào thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động bao giờ cũng là một biện pháp quan trọng giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu
lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Điều này xuất phát từ những lý do như
sau:
Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra
thường xuyên liên tục. Nếu doanh nghiệp không đảm bảo đủ lượng vốn lưu động đáo
TSLĐ
TSCĐ
NV Ngắn
hạn
NV Dài
hạn
Thang Long University Library
25

ứng kịp thời cho quá trình kinh doanh thì quá trình sẽ bị gián đoạn ảnh hưởng đến
vòng quay vốn.
Thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
kinh doanh, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Sự vận động của vốn lưu động phản ánh
sự vận động của vật tư, hàng hóa, vốn bằng tiền, vốn lưu động luân chuyển nhanh hay
chậm phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay lãng phí, tốc độ thu hồi các
khoản phải thu như nào. Sử dụng vốn lưu động không chỉ giúp giảm giá thành sản
phẩm, tăng sức mạnh cạnh tranh mà còn giúp doanh nghiệp khai thác tối đa năng lực
làm việc của tài sản cố định làm tăng lợi nhuận góp phần vào bảo toàn và phát triển
vốn kinh doanh.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý vốn lưu động
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được lượng hóa thông qua các chỉ tiêu về khả
năng sinh lời, vòng quay vốn lưu động, tốc độ luân chuyển vốn, vòng quay hàng tồn
kho. Nó chính là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh hay là quan
hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh với toàn bộ chi phí của quá trình kinh doanh đó
được xác định bằng thước đo tiền tệ.
1.3.3.1. Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán
Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các
khoản có khả năng thanh toán trong kỳ và các khoản phải thanh toán trong kỳ. Gồn
những chỉ tiêu sau:
- Khả năng thanh toán ngắn hạn: chí tiêu này phản ánh khả năng chuyển đổi trong
ngắn hạn các tài sản lưu động thành tiền để chi trả cho các khoản nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho ta thấy khả năng thánh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, cho biết
tỷ lệ các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được trả bằng các tài sản tương đương
với thời hạn được cho vay các khoản nợ đó. Nếu hệ số thanh toán ngắn hạn ≥1 thì tình
hình tài chính doanh nghiệp tương đối ổn định bởi một đồng nợ ngắn hạn được đảm
bảo ít nhất một đồng TSLĐ. Còn nếu hệ số thanh toán ngắn hạn ≤1 thì tình hình tài

chính doanh nghiệp không tốt, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán cho các
khoản nợ ngắn hạn.Vì vậy doanh nghiệp nên xem xét lại tình hình sử dụng vốn để tìm
ra hướng khắc phục tốt nhất.


26
- Hệ số thanh toán nhanh: Phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ trong một
thời gian ngắn mà không phụ thuộc vào việc bán HTK.
Hệ số thanh toán nhanh =
Tổng tài sản lưu động – Hàng tồn kho
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn vì doanh
nghiệp dễ dàng chuyển từ tài sản lưu động thành tiền mặt. Hệ số này cao chứng tỏ khả
năng thanh toán của doanh nghiệp dồi dào, tuy nhiên nếu cao quá dễ ảnh hưởng tới
việc kéo dài vốn dẫn đến ứ đọng, hiệu quả thấp. Nếu hệ số này thấp kéo dài dễ ảnh
hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và có thể đẩy doanh nghiệp đến tình trạng phá sản.
- Khả năng thanh toán tức thời: Chỉ tiêu này chỉ quan tâm đến khả năng trả nợ tức
thời của những tài sản có tính thanh khoản cao như Tiền và các khoản tương đương
tiền.
Hệ số thanh toán tức thời =
Tiền và các khoản tương đương tiền
Tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này đánh giá việc thanh toán đối với các khoản nợ đến hạn ngay tức
thời. Chỉ tiêu này cao doanh nghiệp sẽ được uy tín hơn, được các nhà cung cấp và các
nhà đầu tư tin cậy hơn. Tuy nhiên chỉ tiêu này cao cũng tốt, vì càng cao tức là chi phí
cơ hội của doanh nghiệp cũng cao. Còn nếu chỉ tiêu thấp thì doanh nghiệp sẽ mất
nhiều thời gian và chi phí hơn để tìm nguồn đáp ứng các khoản nợ. Vì vậy, doanh
nghiệp nên cân nhắc xem tỷ số này là bao nhiêu là phù hợp ở từng thời kỳ khác nhau
để vừa đảm bảo được khả năng thanh toán, vừa giảm thiểu chi phí cơ hội cho doanh
nghiệp.

1.3.3.2. Nhóm chỉ tiêu chung
- Tốc độ luân chuyển VLĐ
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động có thể đo bằng hai chỉ tiêu là vòng quay vốn
lưu động và kỳ luân chuyển vốn lưu động.
Vòng quay VLĐ =
Doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Trong đó: VLĐ bình quân = (VLĐ năm trước + VLĐ năm sau)/2
Chỉ tiêu này cho biết bình quân sử dụng một đồng VLĐ trong kỳ sẽ tạo ra được
bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Nếu hệ số này càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn càng
cao vì hàng hóa tiêu thụ nhanh, vật tư tồn đọng thấp, ít có các khoản phải thu. Ngược
Thang Long University Library

×