Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

luận văn quản trị chiến lược Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần ACB thời kì hậu WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.44 KB, 62 trang )

Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và
trở thành một xu thế phổ biến trên thế giới, biểu hiện rõ nét của xu thế này chính là
việc ra đời của các liên kết khu vực và quốc tế như ASEAN, EU, WTO… mục tiêu
là thúc đẩy tự do hóa thương mại quốc tế, giảm dần và tiến tới xóa bỏ các hàng rào
bảo hộ do các quốc gia áp đặt nhằm cản trở tự do hóa thương mại. Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu thế đó, với việc gia nhập hiệp hội ASEAN, ký kết hiệp định
thương mại song phương với Hoa Kỳ, và gần đây nhất là sự kiện nước ta chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã đánh dấu quá trình hội nhập đầy đủ
của Việt Nam vào kinh tế thế giới.Có thể nói, việc chính thức là thành viên của
WTO đem lại cho Việt Nam những cơ hội và cũng đặt ra nhiều thách thức. Muốn
thành công chúng ta phải thấy được hết thách thức, tận dụng cơ hội để đẩy lùi
thách thức. Suy cho cùng cơ hội và thách thức chính là động lực thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế.
Ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh nhất sau khi Việt
Nam gia nhập WTO, thách thức lớn nhất của ngành ngân hàng là đối mặt với sự
cạnh tranh ngày càng quyết liệt mạnh mẽ hơn. Để giành thế chủ động trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần cải tổ cơ cấu một
cách mạnh mẽ để trở thành hệ thống ngân hàng đa dạng về hình thức, có khả năng
cạnh tranh cao, hoạt động an toàn và hiệu quả, huy động tốt các nguồn vốn trong
xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu của phát triển đất nước.
Mục tiêu nghiên cứu
Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, hoạt động của ngân hàng ACB và đặc biệt là
toàn hệ thống ngân hàng thương mại đều có những nghiệp vụ gần giống nhau như:
huy động vốn, cho vay phát triển sản xuất kinh doanh và các dịch vụ ngân hàng
quen thuộc như chuyển tiền trong nước và quốc tế, thu đổi ngoại tệ… Từ những
1
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
điểm giống nhau giữa các ngân hàng thương mại nên đã tạo ra một làn sóng cạnh
tranh ngày càng gay gắt. Ngân hàng nào cũng phải tạo ra nhiều dịch vụ sản phẩm


mới nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để một mặt gìn giữ khách hàng,
mặt khác nâng cao sự chú ý về những tiện ích mới của sản phẩm và dịch vụ với
mục đích thu hút thêm những khách hàng mới đến ủng hộ và giao dịch. Với mong
muốn ACB có thể cùng tồn tại và phát triển trong giai đoạn hội nhập nên em đã
lựa chọn đề tài đề án mơn học kinh tế thương mại: “ Nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngân hàng thương mại cổ phần ACB thời kì hậu WTO ”.
Mục tiêu chính của đề tài nói nên sự cạnh tranh theo qui luật thị trường của ngành
ngân hàng. ACB đã đặt kỳ vọng cao và mong đợi sẽ trở thành một ngân hàng đa
năng và hiện đại trong tương lai
Nội dung nghiên cứu
Đề tài về cạnh tranh thì rất đa dạng và phong phú nhưng ở đõy chỉ tập trung
nghiên cứu về khả năng nâng cao cạnh tranh của một ngân hàng thương mại, đú là
ACB theo một xu thế hội nhập kinh tế quốc tế với 3 nội dung cơ bản:
• Chương I : Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng thương mại trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam
• Chương II: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thươngầmị cổ phần ACB
• Chương III: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
NHTM cổ phần ACB thời kì hậu WTO
2
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
1.1. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng thời kỳ hậu WTO.
1.1.1. Các khái niệm cơ bản về hội nhập quốc tế .
Hội nhập kinh tế quốc tế: là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế thị
trường của từng nước với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới thông qua các nỗ lực
tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Như

vậy hội nhập quốc tế thực chất cũng là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn
cầu hóa, khu vực hóa. Nói cách khác, hội nhập bao hàm các nỗ lực về mặt chính
sách và thực hiện của các quốc gia để tham gia vào các định chế, tổ chức kinh tế
toàn cầu và khu vực.
Quá trình hội nhập làm cho nền kinh tế mỗi nước ngày càng liên kết chặt chẽ
với các nền kinh tế thành viên khác, từ đó làm cho nền kinh tế thế giới phát triển
theo hướng tạo ra một thị trường chung thống nhất trong đó những cản trở đối với
sự giao lưu và hợp tác quốc tế giảm và dần dần mất đi, sự cạnh tranh trở nên gay
gắt. Bởi vậy hội nhập kinh tế quốc tế cũng có nghĩa là tham gia vào cuộc cạnh
tranh kinh tế ở cả trong và ngoài nước. Ngày nay, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự
phát triển, các quốc gia đều nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh
kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của mình.
Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ: Là quá trình mà các
nước, các khu vực thực hiện mở cửa cho sự tham gia của các yếu tố bên ngoài vào
lĩnh vực tài chính - tiền tệ, bao gồm vốn đầu tư (trực tiếp và gián tiếp), công nghệ,
tín dụng và lao động có trình độ chuyên môn cao.
Hội nhập quốc tế về tài chính - tiền tệ là thực hiện quá trình tự do hóa tài
chính tức là xóa bỏ các hạn chế, các định hướng hay ràng buộc trong việc phân bổ
nguồn lực tín dụng. Tự do hóa tài chính cũng đồng nghĩa với việc mở rộng cạnh
tranh của các định chế tài chính, cùng với việc chấm dứt phân biệt đối xử về pháp
lý giữa các loại hoạt động khác nhau. Tự do hóa tài chính bao gồm tự do hóa lãi
suất, tự do hóa tỷ giá hối đoái, giảm thiểu tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xóa bỏ bao cấp vốn
thông qua chỉ định tín dụng, tự do hóa các hoạt động của các tổ chức tài chính
3
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
trong nước và quốc tế trên nền tảng của tự do hóa các tài khoản vãng lai và tài
khoản vốn.
Hội nhập quốc tế là xu hướng phát triển tất yếu của kinh tế thế giới, nhất là
đối với các quốc gia đang phát triển. Hội nhập quốc tế nhằm mở cửa nền kinh tế,
thực hiện tự do hóa thương mại, dịch vụ để gia nhập vào cuộc canh tranh quốc tế

bình đẳng và cùng phát triển trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực ngân
hàng.
1.1.2. Khái niệm hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng là quá trình mở cửa để đưa hệ
thống ngân hàng trong nước hòa nhập với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới,
hoạt động ngân hàng không còn bó hẹp trong phạm vi một nước, một khu vực mà
mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Hoạt động ngân hàng phải tuân thủ theo quy luật
thị trường và các nguyên tắc kinh doanh quốc tế, hoạt động ngân hàng được thực
hiện theo tín hiệu thị trường mà không bị ngăn chặn bởi các biện pháp quản lý
hành chính, lãi suất, tỷ giá, hoạt động tín dụng… do thị trường quyết định.
Quá trình hội nhập của hệ thống ngân hàng có thể hiểu là quá trình cải cách
từng bước hệ thống ngân hàng xuất phát từ yêu cầu thực tế của quá trình toàn cầu
hóa nền kinh tế quốc gia, vì có như vậy hệ thống ngân hàng mới có thể đảm nhiệm
và phát huy được vai trò trung gian tài chính của mình trong bối cảnh nền kinh tế
mới với nhiều biến động phức tạp của thị trường quốc tế nói chung và thị trường
nội địa nói riêng.
1.1.3. Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến lĩnh vực NH
* Các cam kết về ngoại hối và thanh toán
Đối với giao dịch vãng lai
- Biện pháp kiểm soát giao dịch vãng lai được tự do, quy định tạm thời phải
kết hối ngoại tệ tập trung ngoại tệ vào hệ thống NH để đáp ứng các nhu cầu thiết
yếu về ngoại tệ cho nền kinh tế và nới lỏng dần khi tình hình kinh tế được cải
thiện.
- Biện pháp quản lý ngoại hối chỉ được áp dụng trong những trường hợp
ngoại lệ, do Chính phủ VN quyết định, nhằm duy trì an ninh tài chính và tiền tệ
quốc gia.
- Các hạn chế đối với giao dịch vãng lai được bãi bỏ và không duy trì bất kỳ
biện pháp nào trái với các cam kết về các dịch vụ NH, các dịch vụ tài chính khác
cũng như về thanh toán giao dịch vãng lai và chuyển tiền quốc tế.
4

Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
Đối với các giao dịch vốn:
- Nới lỏng các giao dịch chuyển vốn của các nhà đầu tư nước ngoài vào VN
và việc vay, hoàn trả nợ vay nước ngoài của các tổ chức cư trú; chỉ duy trì một số
hạn chế về các giao dịch chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư của các tổ chức cư
trú, việc chuyển vốn này phải được các cơ quan có thẩm quyền cho phép và phải
trong phạm vi số ngoại tệ thuộc sở hữu của các tổ chức này, các giao dịch này phải
đăng ký với NHNN VN.
- Các DN được tự do ký các hợp đồng vay nước ngoài, theo nghị định
134/2005/NĐ-CP (1/11/2005), nghĩa vụ đăng ký các hợp đồng trung dài hạn với
NHNN là vấn đề có tính thủ tục để phục vụ cho các mục đích thống kê giám sát
hoạt động vay nợ trung dài hạn nước ngoài của các DN và phối hợp với Bộ tài
chính để bảo đảm các khoản nợ nước ngoài của quốc gia trong phạm vi an toàn.
- Đối với việc hoàn trả các khoản vay, các khoản đầu tư vốn ra nước ngoài
của các DN, phải đáp ứng các điều kiện về giấy phép đầu tư ra nước ngoài, mở tài
khoản ngoại tệ, và các giao dịch chuyển vốn đầu tư, các giấy tờ cần thiết để xin
giấy phép đầu tư ra nước ngoài.
- Các DN được phép đầu tư ra nước ngoài, có thể chuyển lợi nhuận có được
từ các khoản đầu tư của họ tại VN ra bất cứ nơi nào ở nước ngoài, hoặc có thể mở
các tài khoản ngoại tệ để thực hiện vay nước ngoài trung dài hạn, được phép mở
tài khoản ngoại tệ cho các hoạt động khác trong các trường hợp đặc biệt.
- Các hạn chế để bảo đảm an toàn cán cân thanh toán được xem xét áp dụng
khi Việt Nam gặp phải những khó khăn về cán cân thanh toán quốc tế, các quy
định về ngoại hối của Việt Nam được IMF rà soát mỗi năm một lần.
- Về cân đối ngoại tệ: chính phủ xem xét cân đối nhu cầu ngoại tệ cho các
nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án đặc biệt trong các chương trình của
chính phủ; hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các dự án cơ sở hạ tầng và một số dự án
quan trọng khác, trong trường hợp các NH được phép giao dịch ngoại hối nhưng
không thể đáp ứng yêu cầu về ngoại tệ.
* Các cam kết về chính sách thương mại dịch vụ liên quan đến NH

Các tổ chức tín dụng nước ngoài được hoạt động tại VN dưới các hình thức
và thời gian
- Văn phòng đại diện chi nhánh NH nước ngoài: thời hạn hoạt động không
được vượt quá thời hạn hoạt động của chi nhánh NH nước ngoài này.
5
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
- NH liên doanh, NH 100% vốn nước ngoài: thời hạn hoạt động không quá
99 năm và không được vượt quá thời hạn hoạt động của NH mẹ ở nước ngoài.
- Cty tài chính liên doanh, Cty tài chính 100% vốn nước ngoài; Cty cho thuê
tài chính liên doanh, Cty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài: thời hạn là 50
năm, các giấy phép hoạt động này có thể được gia hạn. Vốn góp của bên nước
ngoài vào một NH liên doanh hoạt động với tư cách của một NHTM không được
vượt 50% vốn điều lệ của NH; vốn góp của bên nước ngoài vào một TCTD phi
NH liên doanh cần phải đạt ít nhất là 30% vốn điều lệ. Tổng mức cổ phần của các
tổ chức và cá nhân nước ngoài được giới hạn ở mức 30% vốn điều lệ của một
NHTM CP VN.
Từ ngày 1/4/2007, các TCTD nước ngoài được phép mở chi nhánh tại VN
theo các điều kiện:
- Một NHTM nước ngoài muốn mở chi nhánh tại VN, NH mẹ phải có tổng
tài sản hơn 20 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn xin mở chi nhánh.
- Thành lập một NH liên doanh hoặc NH 100% vốn nước ngoài, NH mẹ phải
có tổng tài sản hơn 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn xin mở NH.
- Với Cty tài chính 100% vốn nước ngoài, phải có tổng tài sản có hơn 10 tỷ
USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn.
Các điều kiện đối với các chi nhánh NH nước ngoài và các NH 100% vốn
nước ngoài sẽ được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử.
Về tham gia cổ phần: Việt Nam có thể hạn chế việc tham gia cổ phần của các
TCTD nước ngoài tại các NHTM quốc doanh của VN được cổ phần hoá như mức
tham gia cổ phần của các NH VN. Việc góp vốn (hình thức mua cổ phần), tổng số
cổ phần được phép nắm giữ bởi các thể nhân và pháp nhân nước ngoài tại mỗi

NHTMCP VN không được vượt quá 30% vốn điều lệ của NH.
* Những sản phẩm và dịch vụ ngân hàng được cam kết
Các cam kết về dịch vụ NH, các dịch vụ tài chính khác được thực hiện phù
hợp với các luật và các qui định liên quan được ban hành bởi các cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam và theo nguyên tắc chung, trên cơ sở không phân biệt đối xử.
Những sản phẩm, dịch vụ đã cam kết:
(1) Nhận tiền gửi và các khoản phải trả khác từ công chúng.
(2) Cho vay dưới tất cả các hình thức, bao gồm TD tiêu dùng, TD cầm cố thế
chấp, bao thanh toán và tài trợ giao dịch TM.
(3) Thuê mua tài chính.
6
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
(4) Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, bao gồm thẻ TD, thẻ thanh toán
và thẻ nợ, séc du lịch và hối phiếu NH.
(5) Bảo lãnh và cam kết.
(6) Kinh doanh trên tài khoản của mình hoặc của KH, tại sở giao dịch, trên
thị trường giao dịch thoả thuận hoặc bằng cách khác, như: công cụ thị trường tiền
tệ (gồm: séc, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi); ngoại hối; các công cụ tỷ giá và lãi
suất, (gồm: các sản phẩm như hợp đồng hoán đổi, hợp đồng kỳ hạn); vàng nén.
(7) Môi giới tiền tệ.
(8) Quản lý tài sản, như quản lý tiền mặt hoặc danh mục đầu tư, mọi hình
thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác.
(9) Các dịch vụ thanh toán và bù trừ tài sản tài chính, (gồm: chứng khoán,
các sản phẩm phái sinh, và các công cụ chuyển nhượng khác).
(10) Cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, và xử lý dữ liệu tài chính
và phần mềm liên quan của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác.
(l1) Các dịch vụ tư vấn, trung gian môi giới và các dịch vụ tài chính phụ trợ
khác đối với tất cả các hoạt động được nêu từ các tiểu mục (1) đến (10), kể cả
tham chiếu và phân tích TD, nghiên cứu và tư vấn đầu tư và danh mục đầu tư, tư
vấn về mua lại và về tái cơ cấu và chiến lược DN.

* Về lộ trình cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
Kể từ khi gia nhập, các TCTD nước ngoài được phép phát hành thẻ TD trên
cơ sở đối xử quốc gia, và trong vòng 5 năm Việt Nam có thể hạn chế quyền của
chi nhánh NH nước ngoài, được nhận tiền gửi bằng VND từ các thể nhân VN mà
NH không có quan hệ TD theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh phù hợp
với lộ trình sau:
Ngày 1/1/2007: 650% vốn pháp định được cấp.
Ngày 1/1/2008: 800% vốn pháp định được cấp.
Ngày 1/1/2009: 900% vốn pháp định được cấp.
Ngày 1/1/2010: 1000% vốn pháp định được cấp.
Ngày 1/1/2011: Đối xử quốc gia đầy đủ.
1.1.4. Những cơ hội và thách thức về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân
hàng đối với các nước đang phát triển
Việc thực hiện hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập quốc tế trong lĩnh
ngân hàng nói riêng đều hàm chứa trong đó cả những cơ hội và thách thức. Việc
7
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
nghiên cứu chúng sẽ giúp chúng ta tận dụng những cơ hội và chuẩn bị những điều
kiện tốt nhất đối đầu với thách thức.
1.1.4.1 Những cơ hội.
Hội nhập quốc tế mang lại nhiều cơ hội kinh tế cho mỗi quốc gia và toàn thế
giới. Những thành tựu thời gian qua mà các nước đang phát triển đạt được có sự
góp phần không nhỏ của quá trình hội nhập này, các cơ hội thể hiện ở những mặt
chủ yếu sau đây:
Một là, nhờ hội nhập quốc tế mà các ngân hàng trong nước có thể bổ sung
được nguồn vốn hoạt động từ các nguồn bên ngoài, tiếp cận được các công nghệ
ngân hàng tiên tiến, mở rộng hoạt động kinh doanh về ngoại hối, chứng khoán
quốc tế, phát triển các dịch vụ ngân hàng mới, tạo điều kiện cho các ngân hàng
trong nước đa dạng hóa hình thức kinh doanh, phân tán rủi ro.
Hai là, hội nhập sẽ tăng sức ép cạnh tranh từ bên ngoài, buộc các NHTM

trong nước phải cải tiến quản lý, tuân thủ các nguyên tắc thị trường, đổi mới kiểm
soát nội bộ, phòng ngừa rủi ro và giám sát an toàn hoạt động, mở rộng phạm vi
cung cấp dịch vụ tốt hơn, cải thiện vị thế của mỗi ngân hang trên thị trường thế
giới.
Ba là, hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, cùng với dòng vốn vào là
kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật phòng ngừa rủi ro, công nghệ và sản phẩm mới
được đưa vào thị trường nội địa. Các yếu tố này làm tăng hiệu quả cung cấp dịch
vụ của các ngân hàng và các tổ chức tài chính, tăng cường khả năng quản lý rủi ro
đối với các hoạt động tài chính trong nước và quốc tế.
Bốn là, hội nhập đã thúc đẩy sự phát triển và trao đổi các dịch vụ tài chính,
ngân hàng giữa các nước. Các nước đang phát triển, nơi mà các ngân hàng trong
nước thường có chi phí hoạt động cao và lợi nhận thấp hơn các đối thủ cạnh tranh
nước ngoài thì sự xuất hiện của ngân hàng nước ngoài trên thị trường nội địa sẽ có
ảnh hưởng tích cực. Do sức ép cạnh tranh tăng lên đã thúc đẩy các ngân hàng nội
địa hoạt động hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng dịch vụ để giữ vững và phát triển
thị phần, quản lý chặt chẽ chi phí để có lợi nhuận.
Năm là, việc hình thành các tập đoàn ngân hàng lớn cùng với quá trình mở
rộng hoạt động của chúng trên thế giới sẽ tạo cho ngân hàng này có nhiều lợi thế
trong cạnh tranh cũng như khả năng đối phó với những biến động thị trường. Sự
tham gia của các ngân hàng nước ngoài có tên tuổi này trên thị trường nội địa sẽ có
ảnh hưởng tích cực trong việc cải thiện các quy định giám sát và phòng ngừa rủi
8
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
ro, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về kế toán, công bố công khai. Mặt khác,
những ngân hàng ở các nước đang phát triển muốn thâm nhập vào thị trường các
nước cần phải đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chuẩn của những thị
trường này mới nhận được giấy phép hoạt động.
1.1.4.2. Những thách thức
Thứ nhất, hội nhập xuất hiện sự thâm nhập của ngân hàng nước ngoài có
thể gây khó khăn cho nền kinh tế và đe dọa đến chủ quyền kinh tế quốc gia. Mở

cửa cho sự tham gia của NHNNg quá mức có thể gây ra hiện tượng những ngân
hàng nước ngoài lớn chi phối hoạt động cả hệ thống ngân hang quốc gia và sự lệ
thuộc của nền kinh tế vào một số ít ngân hàng nước ngoài.
Thứ hai, hoạt động của NH nước ngoài trên thị trường nội địa với những
sản phẩm mới cùng với các giao dịch trên một phạm vi rộng lớn và với tốc độ rất
nhanh sẽ gây khó khăn cho việc kiểm soát của các cơ quan quản lý, giám sát của
từng quốc gia. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và các sản phẩm dịch vụ
ngân hàng hiện đại làm cho nhiều hoạt động ngân hàng thoát khỏi sự kiểm soát của
các cơ chế giám sát đã đặt ra.
Thứ ba, các NH nước ngoài hoạt động trên thị trường nội địa tạo ra áp lực
cạnh tranh gay gắt, có thể gây ra những xung đột về lợi ích giữa các nhóm khác
nhau, ảnh hưởng đến đặc quyền kinh doanh của các ngân hàng trong nước.
Bốn là, trong môi trường vốn luân chuyển tự do giữa các nước, kích thích
các tổ chức trong nước nhận vốn vay nước ngoài một cách thiếu thận trọng. Nếu
những tổ chức kinh tế có hệ số nợ nước ngoài cao bị mất khả năng trả nợ sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến hệ thống ngân hàng. Do hiện tượng phản ứng theo kiểu “ hành
vi đám đông” có thể dẫn tới nhiều tổ chức có hệ số nợ cao đổ vỡ, nguy cơ này sẽ
nhanh chóng bị khuếch đại gây kho khăn cho hệ thống ngân hàng.
1.2 Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các
NHTM.
1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh & năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, khái niệm cạnh
tranh đã xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển sản xuất, trao đổi hàng
hoá và phát triển kinh tế thị trường.
Có nhiều quan điểm khác nhau khi nói về cạnh tranh, theo từ điển KD của
Anh, cạnh tranh được hiểu là “Sự ganh đua, kình địch giữa các nhà KD trên thị
trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại KH
9
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
về phía mình”. Theo quan điểm này, cạnh tranh được hiểu là các mối quan hệ kinh

tế, ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh
tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy KH cũng như các
điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất.
Cạnh tranh xuất phát từ hai điều kiện cơ bản là phân công lao động xã hội và
tính đa nguyên chủ thể lợi ích kinh tế, điều này làm xuất hiện các cuộc đấu tranh
giành lợi ích kinh tế giữa người sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ và các tổ
chức trung gian, thực hiện phân phối lại các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Cuộc đấu
tranh này dựa trên sức mạnh về tài chính, kỹ thuật công nghệ, chất lượng đội ngũ
lao động, quy mô hoạt động của từng chủ thể. Mục đích cuối cùng của các chủ thể
kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích, với người sản xuất KD là lợi
nhuận và với người tiêu dùng là tiện ích tiêu dùng.
Cạnh tranh của NHTM là khả năng tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế
so sánh, để giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh với các NHTM khác, là nỗ
lực hoạt động đồng bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi cung ứng cho khách
hàng những sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, chi phí rẻ nhằm khẳng định vị trí
của ngân hàng vượt lên khỏi các ngân hàng khác trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy.
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các NHTM
trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Tuy nhiên so với sự
cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa các NHTM có những đặc
trưng nhất định:
Một là, các đối thủ cạnh tranh trong sự ganh đua nhưng cũng có sự hợp tác
với nhau trong một lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm.
Hai là, cạnh tranh ngân hàng luôn phải hướng tới một thị trường lành mạnh,
tránh xảy ra rủi ro hệ thống.
Ba là, cạnh tranh ngân hàng thông qua thị trường có sự can thiệp gián tiếp và
thường xuyên của Ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia hoặc của khu vực.
Bốn là, cạnh tranh ngân hàng phụ thuộc mạnh mẽ vào các yếu tố bên ngoài
ngân hàng như môi trường kinh doanh, doanh nghiệp, dân cư, tập quán dân tộc, hạ
tầng cơ sở…
Năm là, cạnh tranh ngân hàng nằm trong vùng ảnh hưởng thường xuyên của

thị trường tài chính quốc tế.
Năng lực cạnh tranh là thuật ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi nhưng
đến nay vẫn là khái niệm chung chung và khó đo lường, theo từ điển thuật ngữ
10
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
kinh tế học, “năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần lớn trước các
đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ
thị phần của đồng nghiệp”.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa: “năng lực
cạnh tranh là khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc
khu vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều
kiện cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững”.
Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng tự duy trì một cách lâu dài, có
ý thức các lợi thế của mình trên thị trường để đạt được mức lợi nhuận và thị phần
nhất định hoặc khả năng chống lại một cách thành công sức ép của các lực lượng
cạnh tranh
Những đặc điểm của cạnh tranh đối với hoạt động NHTM
Tương tự các loại hình KD khác, năng lực cạnh tranh của các NHTM cũng là
các yếu tố như: nguồn lực (vốn, con người, trình độ, công nghệ…); thị phần; thái
độ trước các đối thủ cạnh tranh; khả năng thích ứng với môi trường KD; khả năng
chinh phục thị trường mới và yếu tố môi trường pháp lý…tuy nhiên, sản phẩm của
NH là các SP DV, vì vậy các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của NH
cũng có một số đặc điểm khác.
Về thương hiệu
Trong kinh tế thị trường, thương hiệu có vai trò rất quan trọng đối với sự
phát triển của bất cứ DN nào, nó được coi như một tài sản có giá trị rất lớn bởi nó
có khả năng tác động đến thái độ và hành vi của người tiêu dùng, tạp chí Fortune
năm 1996 đã tuyên bố “Có một tên tuổi lớn được xem như là vũ khí trong cạnh
tranh”.
Trong lĩnh vực NH, thương hiệu chính là uy tín về chất lượng DV của một

NH sẵn sàng cung ứng cho xã hội (về mặt này các NHTM VN chưa có sự chuẩn bị
tốt, tuy gần đây, vấn đề “thương hiệu” đang dần được các NHTM quan tâm hơn),
do vậy, thương hiệu có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các
NHTM trên thị trường tài chính - tiền tệ. Một thương hiệu nổi tiếng sẽ hỗ trợ cho
NH thu hút được nhiều KH đến với mình, qua đó NH sẽ có được những KH truyền
thống và lòng trung thành đối với thương hiệu của KH cho phép NH có thể dễ dự
báo và kiểm soát thị trường, hơn nữa, đồng thời nó sẽ tạo nên một rào cản vô hình,
gây khó khăn cho các NH đối thủ khác khi muốn thâm nhập thị trường.
11
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
Về công nghệ
Sản phẩm NH là loại hình sản phẩm đặc thù mang hàm lượng công nghệ càng
cao càng hiệu quả và càng bảo mật, các NHTM hiện nay đã và đang cố gắng tạo ra các
SP ngày càng tiện ích và đa dạng để cung cấp cho KH, như: thẻ ATM (Automatic
Teller Machine), thẻ POS, giao dịch homebanking,phonebanking,internetbanking Vì
thế, việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành NH đang là sự quan
tâm hàng đầu của các NHTM. Đến nay, hơn 80% các nghiệp vụ NH đã được xử lý
bằng máy tính và hầu hết được xử lý trên mạng nội bộ, các giao dịch nghiệp vụ
huy động vốn, thanh toán, cho vay, KD ngoại hối,…bước đầu được chuẩn hóa phù
hợp với điều kiện của mỗi NHTM.
Những tiện ích trên thực hiện được là nhờ vào vai trò của công nghệ, công
nghệ càng hiện đại, NH cung cấp ngày càng nhiều tiện ích cho KH, đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng của KH, công nghệ NH nào càng hiện đại thế cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh của NH đó càng tăng. Theo tính toán và kinh nghiệm của các
NH nước ngoài, công nghệ thông tin có thể làm giảm 76% chi phí hoạt động NH,
nhưng đây là lĩnh vực đòi hỏi đầu tư rất lớn, và cũng chính là hạn chế đối với hệ
thống NHTM VN do qui mô vốn còn kém.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng công nghệ của các NHTM VN vẫn còn
nhiều yếu kém so với các NH nước ngoài. Cụ thể:
- Theo WB, công nghệ trong lĩnh vực NH VN vẫn còn ở mức thấp kém, chỉ

số công nghệ NH VN mới chỉ là (-0,47), trong khi ở Trung Quốc là (-0,35); Thái
Lan (-0,07), Indonexia (-0,07), Malaysia là 1,08 và của Singapore là 1,95.
- Tính liên kết giữa các NH về công nghệ chưa cao, dẫn đến các DV NH còn
hạn chế, tiện ích kém hấp dẫn.
Về kinh nghiệm quản lý và trình độ nhân lực
Kinh nghiệm quản lý và trình độ nhân lực là 02 mặt của một vấn đề về con
người, vì thế trong xây dựng chiến lược phát triển KD của các NHTM nên chú
trọng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đây là vấn đề then chốt cho sự thành
công của các NHTM trong giai đoạn hiện nay.
Về kinh nghiệm quản lý của các NHTM VN còn nhiều bất cập, chưa phù hợp
với các nguyên tắc và chuẩn mực về quản trị DN như: tính minh bạch thấp; chưa
hình thành môi trường làm việc chuyên nghiệp; vai trò và nhiệm vụ của các vị trí
12
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
công tác chưa rõ ràng; hệ thống quản lý rủi ro, hệ thống thông tin quản lý, kiểm
toán chưa phát huy hiệu quả.
Trình độ quản lý KD và quản lý rủi ro của lực lượng CB NH còn yếu (cho
vay chủ yếu dựa vào TSĐB, năng lực thẩm định TD hạn chế, hệ thống phân loại
nợ chưa chính xác, nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát thiếu chặt chẽ). Hầu hết các
NHTM chưa thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả và chưa có chiến lược
KD dài hạn để đối mặt với những thách thức của tiến trình mở cửa thị trường tài
chính.
Phát triển nguồn nhân lực là góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trên
thương trường Vì vậy xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực luôn là mối
quan tâm của các NH, con người là nhân tố trung tâm của sự phát triển, và sẽ phát
triển hơn trong điều kiện môi trường làm việc thích hợp. Với lực lượng cán bộ
quản lý có kinh nghiệm và một đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn sâu sẽ
rút ngắn được thời gian xử lý công việc, qua đó hiệu quả và chất lượng công việc
sẽ được nâng lên và ngày càng tạo được niềm tin nơi KH, lúc đó năng lực cạnh
tranh của NH sẽ được nâng lên so với các đối thủ cạnh tranh của mình.

Về giá cả và sự đa dạng hóa dịch vụ sản phẩm
Kinh tế càng phát triển, đời sống được nâng lên, nhu cầu đòi hỏi về tính đa
dạng SP của KH ngày càng cao, trước yêu cầu đó, các SP NH đưa ra thị trường
phải ngày càng đa dạng hơn. Điển hình là các sản phẩm: thẻ ATM, các hình thức
gửi tiết kiệm khác như (tiết kiệm hưởng lãi suất bậc thang, tiết kiệm online…), các
hình thức cho vay đa dạng (cho vay mua nhà trả góp hưởng lãi suất ưu đãi, tài sản
đảm bảo hình thành từ vốn vay…).Trong chiến lược KD, các NHTM càng có
nhiều SP khác biệt sẽ có lợi thế hơn, trong cạnh tranh trên thị trường, nhất là các
SP mang hàm lượng công nghệ cao.
Cùng với việc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của KH bằng nhiều SP mới tiện ích,
giá cả cũng là mối quan tâm hàng đầu của NH, bởi “thị hiếu” của mỗi nhà đầu tư
có thể khác nhau nhưng họ đều có ít nhất một mục tiêu chung đó là “ tính toán và
lựa chọn hướng đầu tư có lợi nhất”.Vì thế, giá cả là một trong những yếu tố ảnh
hưởng
trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các NHTM. Hiện nay trên thị trường
tiền tệ luôn có sự cạnh tranh giữa các NH thông qua lãi suất và phí, các NHTM sẵn
long giảm doanh thu để thu hút KH tạo ra thế cạnh tranh mạnh về giá cả, tuy nhiên
không như các loại hình KD khác, trong hoạt động NHTM, việc sử dụng giá để tạo
13
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
lợi thế cạnh tranh còn phải phụ thuộc nhiều yếu tố nhưng quan trọng, nhất là phải
chịu.sự quản lý của NHNN.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các NH luôn cho ra đời nhiều loại hình ưu
đãi, nhiều tiện ích để thu hút KH. Tuy nhiên, ngoài chủng loại SP cung cấp cho
KH, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục, hồ sơ (cũng là hình thức tiết kiệm chi phí
cho KH vì “thời giờ là vàng bạc”), đây cũng là một yếu tố cạnh tranh về giá cả và
chất lượng của NH trong chiến lược cạnh tranh.
Về năng lực tài chính của các đối thủ cạnh tranh
Các NHTM hoạt động trên cùng địa bàn, tạo nên môi trường cạnh tranh và
tất yếu lợi thế sẽ thuộc về NH nào có chuẩn bị tốt về chiến lược. Có nhiều yếu tố

ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của NHTM nhưng yếu tố ảnh hưởng lớn nhất
vẫn là năng lực tài chính, để có thể nâng cao năng lực này đòi hỏi các NH phải nỗ
lực tập trung thực hiện chương trình tái cơ cấu toàn diện năng lực tài chính, như:
bổ sung vốn điều lệ; xử lý thu hồi nợ tồn đọng; thực hiện sáp nhập, hợp nhất NH.
Trong quá trình hoạt động, cạnh tranh đang ngày càng trở nên gay gắt, để có
chiến lược cạnh tranh tốt, đảm bảo thu hút KH và đảm bảo mục tiêu KD của mình,
NH cần xác định rõ những đối thủ cạnh tranh, có nhận dạng được đối thủ cạnh
tranh, từ đó NH mới có thể quản trị hoạt động KD hiệu quả hơn, trong cạnh tranh,
NH nào chiếm thị phần lớn sẽ đóng vai trị chủ chốt, có khả năng chi phối hoạt
động các NH khác, vì vậy trong xây dựng chiến lược,cần nghiên cứu, đánh giá khả
năng của các đối thủ của mình trước khi đề ra chiến lược và giải pháp thực hiện.
Về hạ tầng cơ sở và quy mô mạng lưới hoạt động
Mạng lưới hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh, các
NHTM ngày nay rất chú trọng đẩy mạnh phát triển hạ tầng, mở rộng mạng lưới,
tuy vậy không phải mạng lưới hoạt động càng rộng, hạ tầng phát triển, sẽ chiếm
được vị thế cạnh tranh, việc mở rộng mạng lưới hoạt động các NHTM phải điều
nghiên, khảo sát thật kỹ và phân tích thị trường, tìm hiểu nhu cầu và thị hiếu của
KH trong từng mảng thị trường, để từ đó xác định quy mô và vị trí mạng lưới KD
cho phù hợp.
Mặt khác, trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ
phát triển ở trình độ cao, SP ra đời sẽ ngày càng phong phú và đa dạng, luôn mang
đến cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn và làm tăng áp lực cạnh tranh cho các NH
trước những yêu cầu và lựa chọn đó. Để tạo vị thế cạnh tranh, buộc các NH phải
đẩy mạnh nghiên cứu sử dụng nhiều công cụ cạnh tranh khác nhau để xây dựng
14
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
chiến lược KD cho mình, một công cụ được sử dụng phổ biến nhất là “nâng cao
chất lượng SP dịch vụ”, sử dụng chiến lược cạnh tranh bằng chất lượng SP DV
trước hết các NHTM phải ưu tiên chiến lược phát triển công nghệ và chiến
lược đào tạo nguồn nhân lực, có như vậy, các SP dịch vụ mà NHTM cung ứng mới

đáp ứng đúng, đầy đủ và kịp thời nhu cầu của KH trong thời hiện đại này.
1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các
NHTM
Hội nhập quốc tế đã buộc các NH phải nâng cao khả năng cạnh tranh để
đủ sức đứng vững trên thương trường.Một thực trạng phổ biến hiện nay là: năng
lực cạnh tranh của các NH Việt Nam còn nhiều hạn chế và yếu kém nên khả năng
tồn tại và khẳng định vị thế trên thị trường rất thấp (đặc biệt là thị trường quốc tế).
Vì vậy, Xây dựng năng lực cạnh tranh của các NH là một tất yếu khách quan
trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.Nếu không làm được điều này,
các NH Việt không chỉ thất bại trên “sân khách” mà còn gánh chịu những hậu quả
tương tự trên chính “sân nhà”.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh thì những công việc mà các chủ ngân hàng
cần chủ động làm là: hiểu được thế nào là năng lực canh tranh của doanh nghiệp?
Nguyên nhân tạo ra năng lực cạnh tranh yếu kém đó, những hạn chế về khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp và cuối cùng là giải pháp nâng cao khả năng cạnh
tranh của các NH Việt Nam cũng như các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh
của một NHTM.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của một NHTM
Để đánh giá năng lực cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng cần căn cứ vào
các chỉ tiêu sau:
Năng lực tài chính
Tốc độ tăng trưởng vốn bình quân phải trên 10%/năm, các NHTM đều phải
có tỷ lệ vốn tối thiểu tương ứng với tài sản sinh lời. Để đánh giá chỉ tiêu này,
thường người ta đánh giá thông qua quy mô vốn chủ sở hữu và quy mô tài sản có
của NH.
Năng lực tài chính của một ngân hàng thường biểu hiện qua các mặt:
- Khả năng mở rộng nguồn vốn chủ sở hữu
- Khả năng sinh lời
- Khả năng phòng ngừa và chống đỡ rủi ro
Khả năng sinh lời

15
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
Đánh giá chỉ tiêu này theo 02 tỷ số cơ bản:
- Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA – Return on assets)
ROA = Lợi nhuận ròng/tổng tài sản bình quân * 100
Với chỉ tiêu này cho biết 01 đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, tài
sản có sinh lời càng lớn thì tỷ số này càng lớn.
- Tỷ suất sinh lời trên vốn tự có (ROE – Return on Equity)
ROE = Lợi nhuận ròng/vốn tự có *100
Với chỉ số này cho biết 01 đồng vốn sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
và phản ánh hiệu quả hoạt động của NH. Hệ số càng lớn, khả năng sinh lời càng
lớn.
Chất lượng tín dụng
Áp dụng tỷ lệ chung theo quyết định 112/2006/QĐ –ttg (của Thủ tướng chính
phủ về chỉ tiêu hoạt động NH giai đoạn 2006 – 2010), nợ xấu của NH là dưới 5%
trên tổng dư nợ.
Chỉ tiêu quản trị rủi ro
Bao gồm một số chỉ tiêu như:
- Rủi ro lãi suất = Tài sản nhạy cảm LS/nguồn vốn nhạy cảm lãi suất.
- Rủi ro vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu/ tài sản rủi ro.
- Rủi ro thanh khoản = (Tài sản thanh khoản – vốn vay)/tổng vốn huy động.
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ vốn huy động gấp mấy lần vốn chủ sở hữu
(thường là biến động từ 15 đến 20 lần).
Ngoài ra, để đánh giá năng lực cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng
còn căn cứ vào các tiêu chí:
* Năng lực hoạt động.
Năng lực hoạt động của NHTM bao gồm:
- Khả năng huy động vốn
- Khả năng cho vay và đầu tư
- Khả năng phát triển sản phẩm, dịch vụ:

+ Các phương thức gửi tiền khác nhau về kỳ hạn, lãi suất, sự thuận tiện…
+ Các nhu cầu vay vốn khác nhau về kỳ hạn vay, trả, về loại đồng tiền (nội
tệ, ngoại tệ), về cách giải ngân, cách trả lãi, cách sử dụng vốn vay…
+ Cách thanh toán chi phí tiêu dùng, thanh toán hàng hóa dịch vụ trong nước,
ra nước ngoài, bằng tiền mặt, phi tiền mặt…
16
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
+ Quản lý ngân quỹ, tài sản, tư vấn, môi giới, bảo hiểm, đầu tư chứng khoán,
mua bán ngoại tệ…
* Năng lực quản trị, điều hành.
Đánh giá năng lực quản trị, điều hành của NHTM thông qua các tiêu chí sau:
- Mô hình một ngân hàng hiện đại.
- Cơ cấu, trình độ, thực hiện của bộ máy lãnh đạo, của lực lượng lao động
chủ yếu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.
- Khả năng ứng phó của cơ chế điều hành trước diễn biến của thị trường.
- Cơ chế vận hành một ngân hàng hiện đại (quản trị tài sản nợ, tài sản có,
quản trị dịch vụ phi tín dụng, quản trị kế toán và ngân quỹ, quản trị nhân sự…)
* Năng lực công nghệ thông tin.
Năng lực công nghệ của NHTM thường được đánh giá thông qua các
tiêu chí:
- Khả năng trang bị công nghệ mới bao gồm thiết bị và nhân lực.
- Mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng đối với nhu cầu của thị trường
để giữ được thị phần dịch vụ.
- Tính liên kết công nghệ giữa các ngân hàng và tính độc đáo về công nghệ
của mỗi ngân hàng.
Ngoài ra, còn có thể đánh giá năng lực cạnh tranh của mỗi ngân hang qua
danh tiếng và uy tín của mỗi ngân hàng đó. Về hình thức, danh tiếng và uy tín biểu
hiện qua thương hiệu. Về bản chất, danh tiếng và uy tín được tạo ra từ chất lượng,
quy mô của sản phẩm dịch vụ.
1.4. Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của một NHTM.

* Các nhân tố khách quan
- Tác nhân từ phía NHTM mới tham gia thị trường.
Các NHTM mới tham gia thị trường với những lợi thế quan trọng như:
+ Mở ra những tiềm năng mới
+ Có động cơ và ước vọng giành được thị phần
+ Đã tham khảo kinh nghiệm từ những NHTM đang hoạt động
+ Có được những thống kê đầy đủ và dự báo về thị trường…
Như vậy, bất kể thực lực của NHTM mới là thế nào, thì các NHTM hiện tại
đã thấy một mối đe dọa về khả năng thị phần bị chia sẻ; ngoài ra, các NHTM mới
có những kế sách và sức mạnh mà các NHTM hiện tại chưa thể có thông tin và
chiến lược ứng phó.
17
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
- Tác nhân là các NHTM hiện tại
Đây là những mối lo thường trực của các NHTM trong kinh doanh. Đối thủ
cạnh tranh ảnh hưởng đến chiến lược hoạt động kinh doanh của NHTM trong
tương lai. Ngoài ra, sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh thúc đẩy ngân hàng phải
thường xuyên quan tâm đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các dịch vụ cung
ứng để chiến thắng trong cạnh tranh.
- Tác nhân là sức ép từ phía khách hàng
Một trong những đặc điểm quan trọng của ngành ngân hàng là tất cả các cá
nhân, tổ chức kinh doanh sản xuất hay tiêu dùng, thậm chí là các ngân hàng khác
cũng đều có thể vừa là người mua các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, vừa là người
bán sản phẩm dịch vụ cho ngân hàng. Những người bán sản phẩm thông qua các
hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch hay cho vay đều có mong muốn là nhận
được một lãi suất cao hơn; trong khi đó những người mua sản phẩm (vay vốn) lại
muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn nhỏ hơn thực tế. Như vậy, ngân hàng
sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi nhuận có hiệu quả và giữ
chân được khách hàng cũng như có được nguồn vốn thu hút rẻ nhất có thể.
- Tác nhân là sự xuất hiện các dịch vụ mới

Sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài chính trung gian đe dọa lợi thế của các
NHTM khi cung cấp các dịch vụ tài chính mới cũng như các dịch vụ truyền thống
vốn vẫn do các NHTM đảm nhiệm. Các trung gian này cung cấp cho khách hàng
những sản phẩm mang tính khác biệt và tạo cho người mua sản phẩm có cơ hội
chọn lựa đa dạng hơn, thị trường ngân hàng mở rộng hơn. Điều này tất yếu sẽ tác
động làm giảm đi tốc độ phát triển của các NHTM, suy giảm thị phần.
Ngày nay, người ta cho rằng, khi các NHTM mạnh lên nhờ sự rèn luyện
trong cạnh tranh, thì hệ thống NHTM sẽ mạnh hơn và có sức đàn hồi tốt hơn sau
các cú sốc của nền kinh tế.
* Nhóm nhân tố chủ quan
Bên cạnh các nhân tố khách quan tác động đến năng lực cạnh tranh của các
NHTM, trên thực tế, nhóm các nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống NHTM cũng
ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng này, chúng bao gồm:
- Năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng
- Quy mô vốn và tình hình tài chính của NHTM
- Công nghệ cung ứng dịch vụ ngân hàng
- Chất lượng nhân viên
18
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
- Cấu trúc tổ chức
- Danh tiếng và uy tín của NHTM
Bên cạnh đó, đặc điểm sản phẩm và đặc điểm khách hàng của NHTM cũng là
nhân tố chi phối đến khả năng cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Cụ thể:
- Tác nhân về đặc điểm sản phẩm
Cạnh tranh trong kinh doanh của NHTM bị chi phối bởi các đặc điểm hoạt
động kinh doanh của nó. Sản phẩm chính sử dụng trong hoạt động kinh doanh của
NHTM là tiền, đó là loại sản phẩm có tính xã hội và có tính nhạy cảm cao, chỉ một
biến động nhỏ ( thay đổi lãi suất ) cũng có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh
doanh của các NHTM nói riêng và hoạt động của toàn xã hội nói chung. Từ đặc

điểm này dẫn đến cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng trở nên quyết liệt. Có
nghĩa là, chính vì sản phẩm kinh doanh có tính nhạy cảm cao đã làm tăng tính cạnh
tranh trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
- Tác nhân về đặc điểm khách hàng
Khách hàng của NHTM không phải là khách hàng luôn “trung thành” mà rất
dễ bị lôi kéo và thay đổi quan hệ giao dịch. Mức độ trung thành của khách hàng
phụ thuộc vào sự đối xử của NHTM với họ, mà cao nhất là lợi ích trực tiếp thu
được từ quan hệ giao dịch với ngân hàng. Khách hàng có thể ngay lập tức thay đổi
quan hệ với ngân hàng để tìm mối lợi lớn hơn nếu họ biết rằng mức lãi mà họ nhận
được cao (nếu là sản phẩm bán) và mức lãi suất thấp (nếu là sản phẩm mua) so với
ngân hàng họ quan hệ. Như vậy, sự cạnh tranh của ngân hàng cũng được nhân lên
do đặc điểm khách hàng rất dễ thay đổi quan hệ với ngân hàng. Các đặc điểm nêu
trên được coi là các nhân tố về phía NHTM tạo nên tính cạnh tranh cao của kinh
doanh ngân hàng.
1.5 Các nội dung về cạnh tranh trong kinh doanh của cácNHTM.
* Cạnh tranh bằng chất lượng.
Khi đánh giá một sản phẩm ngân hàng có chất lượng, khách hàng thường dựa vào
các tiêu chí sau:
- Mức độ tham gia của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ
ít và đơn giản.
- Tốc độ xử lý nhanh.
- Mức độ chính xác cao.
- Hiệu quả đem lại cho khách hàng lớn.
19
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
- Thái độ phục vụ tốt.
- Trình độ cộng nghệ hiện đại
Đối với NHTM, để cạnh tranh bằng chất lượng phải xây dựng thật tốt cơ sở
hạ tầng hiện đại, nguồn nhân lực bên cạnh việc kết hợp chiến lược thị trường,
chiến lược kinh doanh phù hợp. Chỉ có như vậy, các sản phẩm dịch vụ mà NHTM

cung cấp mới đáp ứng đúng và đầy đủ, kịp thời nhu cầu từ phía khách hàng.
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, các NHTM phải
quản lý ngân hàng theo tư duy chiến lược để ban lãnh đạo ngân hàng sẽ luôn ở thế
chủ động, không lúng túng khi môi trường kinh doanh thay đổi, đồng thờikết hợp
hài hòa và phát huy tối đa sức mạnh của tất cả các nguồn lực, sử dụng các nguồn
lực ngân hàng một cách hiệu quả nhất góp phần tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ
ngân hàng.
* Cạnh tranh bằng giá cả.
Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm, giá cả có vai trò quan trọng đối với
quyết định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả chính là lãi suất và mức phí
áp dụng cho các dịch vụ cung ứng cho các khách hàng của mình.Cạnh tranh bằng
giá cả đang trở thành một biện pháp nghèo nàn nhất vì nó làm giảm bớt lợi nhuận
của các NHTM.
* Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối.
Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình kinh
doanh. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm chính là hình thức cạnh tranh phi giá cả gây ra
sự chú ý và thu hút khách hàng.
Kênh phân phối là phương tiện trực tiếp đưa sản phẩm, dịch vụ của ngân
hàng đến khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng nắm bắt chính xác và kịp thời nhu
cầu của khách hàng, qua đó, ngân hàng chủ động trong việc cải tiến, hoàn thiện
sản phẩm dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ
cho khách hàng.
Để cạnh tranh bằng hệ thống phân phối NHTM phải thực hiện tốt chiến lược
Marketing kết hợp với việc tổ chức mạng lưới.
20
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NH TMCP
Á CHÂU
2.1. Giới thiệu về Ngân hàng TM ACB Việt Nam.

Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo Giấy
phép số 0032/ NH-GP do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp ngày 24/4/1993, và
Giấy phép số 533/GPUB do Ủy ban Nhân dân Tp. HCM cấp ngày 13/5/1993.
Ngày 04/6/1993, ACB chính thức đi vào hoạt động.
ACB được Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội chấp thuận cho niêm
yết kể từ ngày 31/10/2006 theo Quyết định số 21/QĐ-TTGDHN.
Năm 1996: ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam
phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-MasterCard.
Năm 1997: ACB phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Visa. Cũng trong năm
này, ACB bắt đầu tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại dưới hình thức của một
chương trình đào tạo nghiệp vụ ngân hàng toàn diện kéo dài hai năm, do các giảng
viên nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Thông qua chương trình này,
ACB đã nắm bắt một cách hệ thống các nguyên tắc vận hành của một ngân hàng
hiện đại, các chuẩn mực và thông lệ trong quản lý rủi ro, đặc biệt trong lĩnh vực
ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu ứng dụng trong điều kiện Việt Nam. trong điều
kiện Việt Nam.
Năm 1999: ACB triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin
ngân hàng, xây dựng hệ thống mạng diện rộng, nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa
hoạt động giao dịch.
Năm 2000: ACB, sau những bước chuẩn bị từ năm 1997, đã thực hiện tái cấu
trúc như là một bộ phận của chiến lược phát triển trong nửa đầu thập niên 2000
(2000 – 2004). Cơ cấu tổ chức được thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ
trợ. Các khối kinh doanh gồm có Khối Khách hàng cá nhân, Khối Khách hàng
doanh nghiệp, và Khối Ngân quỹ. Các đơn vị hỗ trợ gồm có Khối Công nghệ
thông tin, Khối Giám sát điều hành, Khối Phát triển kinh doanh, Khối Quản trị
nguồn lực và một số phòng ban do Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Hoạt động
kinh doanh của Hội sở được chuyển giao cho Sở giao dịch (Tp. HCM). Việc tái
cấu trúc nhằm đảm bảo tính chỉ đạo xuyên suốt toàn hệ thống; sản phẩm được
21
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại

quản lý theo định hướng khách hàng và được thiết kế phù hợp với từng phân đoạn
khách hàng; quan tâm đúng mức việc phát triển kinh doanh và quản lý rủi ro.
Cuối năm 2001, ACB chính thức vận hành hệ thống công nghệ ngân hàng lõi
là TCBS (The Complete Banking Solution: Giải pháp ngân hàng toàn diện), cho
phép tất cả chi nhánh và phòng giao dịch nối mạng với nhau, giao dịch tức thời,
dung chung cơ sở dữ liệu tập trung.
Năm 2003: ACB xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9001:2000 và được công nhận đạt tiêu chuẩn trong các lĩnh vực (i) huy động vốn,
(ii) cho vay ngắn hạn và trung dài hạn, (iii) thanh toán quốc tế và (iv) cung ứng
nguồn lực tại Hội sở.
Năm 2005: ACB và Ngân hàng Standard Charterd ký kết thỏa thuận hỗ trợ
kỹ thuật toàn diện; và SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB. ACB triển khai
giai đoạn hai của chương trình hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, bao gồm các cấu
phần (i) nâng cấp máy chủ, (ii) thay thế phần mềm xử lý giao dịch thẻ ngân hàng
bằng một phần mềm mới có khả năng tích hợp với nền công nghệ lõi hiện nay, và
(iii) lắp đặt hệ thống máy ATM.
Năm 2006: ACB niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
Năm 2007: ACB mở rộng mạng lưới hoạt động, thành lập mới 31 chi nhánh
và phòng giao dịch, thành lập Công ty Cho thuê tài chính ACB, hợp tác với các đối
tác như Open Solutions (OSI) – Thiên Nam để nâng cấp hệ ngân hàng cốt lõi, hợp
tác với Microsoft về việc áp dụng công nghệ thông tin vào vận hành và quản lý,
hợp tác với Ngân hang Standard Chartered về việc phát hành trái phiếu. ACB phát
hành 10 triệu cổ phiếu mệnh giá 100 tỷ đồng, với số tiền thu được là hơn 1.800 tỷ
đồng.
Năm 2008: ACB thành lập mới 75 chi nhánh và phòng giao dịch, hợp tác với
American.
Ngành tài chính của Việt Nam hiện nay đang bùng nổ và trở thành một lực
lượng then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế quốc gia, và ACB – ngân hàng
thương mại cổ phần lớn nhất về tổng tài sản và vốn hóa thị trường – đang ở tuyến
đầu trong khu vực năng động này. ACB tập trung vào thị trường bán lẻ và doanh

nghiệp vừa và nhỏ, phát triển kinh doanh dựa trên một lượng đông đảo những
doanh nhân quy mô nhỏ mà hiện nay đang đua nở trên thị trường Việt Nam. Tuy
có một chiến lược năng động nhưng ACB thận trọng hơn các ngân hàng cổ phần
khác, có những tiêu chuẩn chặt chẽ về tín dụng và tài sản bảo đảm, và điều này đã
22
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
làm cho ACB có một vị thế đặc thù. ACB một mặt đứng đầu về mặt tạo ra doanh
số hoạt động trong ngành, mặt khác lại là ngân hàng có tỷ lệ cho vay/tiền gửi thấp
nhất và nằm trong số các ngân hàng có mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi
suất tiền gửi thấp nhất. Cùng với kế hoạch mở rộng kinh doanh trong các lĩnh vực
phi ngân hàng như quản lý quỹ, cho thuê tài chính, kinh doanh địa ốc, môi giới
chứng khoán, kinh doanh vàng bạc đá quý, ACB đang xây dựng nền tảng cho
chiến lược dài hạn hướng tới một tập đoàn dịch vụ tài chính đa ngành.
Với định hướng đa dạng hoá sản phẩm và hướng đến khách hàng để trở thành
ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam, ACB hiện đang thực hiện đầy đủ các
chức năng của một ngân hàng bán lẻ. Danh mục sản phẩm của ACB rất đa dạng
tập trung vào các phân đoạn khách hàng mục tiêu bao gồm cá nhân và doanh
nghiệp vừa và nhỏ. ACB là ngân hàng đi đầu trong hệ thống ngân hàng Viêt Nam
cung cấp các loại tín dụng cho cá nhân như: cho vay trả góp mua nhà, sữa chữa
nhà; cho vay sinh hoạt tiêu dùng; cho vay tín chấp dựa trên thu nhập người vay,
cho vay du học, v.v
ACB cũng thành lập các công ty và liên kết với các công ty khác nhằm mục
đích đa dạng hóa sản phẩm và hoạt động của Ngân hàng. Các công ty con của
ACB cung cấp các sản phẩm và dịch vụ liên quan đến quản lý tài sản, cho thuê tài
chính, cho thuê kho bãi, thẩm định giá, tư vấn tài chính, kinh doanh chứng khoán,
tư vấn địa ốc
Thị trường
Địa bàn hoạt động mạnh nhất của ACB là TP.HCM, tiếp đến là Miền Bắc.
ACB tập trung vào nhóm khách hàng là cá nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong tương lai, ACB vẫn tiếp tục mở rộng mạng lưới tại các khu phía Bắc, Đồng

bằng Sông Cửu Long và miền Trung để giúp khách hàng tiếp cận dễ dàng với các
dịch vụ và sản phẩm của ngân hàng. Các khách hàng cá nhân và các doanh nghiệp
nhỏ vẫn được ngân hàng chú trọng.
Vốn điều lệ: Kể từ ngày 8/12/2008 vốn điều lệ của ACB là 6.355.812.780.000
đồng (Sáu nghìn ba trăm năm mươi lăm tỷ tám trăm mười hai triệu bảy trăm tám
mươi nghìn đồng).
Sản phẩm dịch vụ chính
- Huy động vốn (nhận tiền gửi của khách hàng) bằng đồng Việt Nam, ngoại
tệ và vàng
23
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
- Sử dụng vốn (cung cấp tín dụng, đầu tư, hùn vốn liên doanh) bằng đồng
Việt Nam, ngoại tệ và vàng
- Các dịch vụ trung gian (thực hiện thanh toán trong và ngoài nước, thực hiện
dịch vụ ngân quỹ, chuyển tiền kiều hối và chuyển tiền nhanh, bảo hiểm nhân thọ
qua ngân hàng.
- Kinh doanh ngoại tệ và vàng.
- Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ.
Công ty trực thuộc
 Công ty Chứng khoán ACB (ACBS).
 Công ty Quản lý và khai thác tài sản Ngân hàng Á Châu (ACBA).
 Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Á Châu (ACBL).
 Công ty liên kết
 Công ty Cổ phần Dịch vụ Bảo vệ Ngân hàng Á Châu (ACBD).
 Công ty Cổ phần Địa ốc ACB (ACBR).
 Công ty liên doanh
 Công ty Cổ phần Sài Gòn Kim hoàn ACB- SJC (góp vốn thành lập với
SJC).
Cổ đông nước ngoài :
(Tỷ lệ cổ phần nắm giữ: 30%) Connaught Investors (Jardine Matheson Group),

Dragon Financial Holdings Ltd., Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) của Ngân hàng
Thế Giới (World Bank), Ngân hàng Standard Chartered
Thẻ thanh toán đồng thương hiệu: Saigontourist; Saigon Co-op; Mai Linh
Taxi; HSBC; Vera; VDC; Vietravel; Citimart.
Hỗ trợ kỹ thuật: IFC đã dành một ngân khoản trị giá 575.000 đô-la Mỹ trong
chương trình Hỗ trợ kỹ thuật nhằm mục đích nâng cao năng lực quản trị điều hành
của ACB, được thực hiện trong năm 2003 và 2004. Ngân hàng Standard Chartered
đang thực hiện một chương trình hỗ trợ kỹ thuật toàn diện cho ACB, được triển
khai trong khoảng thời gian năm năm (bắt đầu từ năm 2005).
2.2.Thực trạng về cạnh tranh của Ngân hàng TMCP ACB Việt Nam.
Năng lực cạnh tranh và đối thủ cạnh tranh :
ACB là ngân hàng có quy mô tổng tài sản lớn nhất trong khối NHTMCP,
đứng thứ 5 trong toàn ngành ngân hàng. Tại thời điểm quý 2/2007, tài sản của
Ngân hàng đạt giá trị 58.378 tỷ đồng. Bên cạnh đó, ngân hàng còn sở hữu một
24
Nguyễn Thu Hằng – QTKDTM 48D Đề án kinh tế thương mại
danh mục cho vay chất lượng: Nợ quá hạn <1%, đảm bảo bằng tài sản là bất động
sản chiếm 85%.
ACB đã trở thành một thương hiệu mạnh trong cũng như ngoài nước, nằm
trong Top 100 thương hiệu mạnh Việt Nam. Cho đến nay ACB là ngân hàng đầu
tiên và duy nhất của Việt Nam trong một năm (2006) nhận 3 giải thưởng quốc tế
danh giá do tạp chí The Banker thuộc tập đoàn Financial Times, The Asian Banker
và EuroMoney trao tặng. Thương hiệu và uy tín được khẳng định là ưu thế giúp
cho ACB chiếm được lòng tin của khách hàng, giảm thiểu rủi ro liên quan đến
thanh khoản và hỗ trợ ACB phát triển thị trường và các sản phẩm/ dịch vụ mới.
ACB đang phải cạnh tranh với các ngân hàng quốc doanh trong mảng tín
dụng cho doanh nghiệp lớn, và cạnh tranh với các ngân hàng thương mại cổ phần
như Sacombank, Techcombank, Eximbank, VP…trong các dịch vụ và sản phẩm
cho khách hàng cá nhân. Để tăng năng lực cạnh tranh, ACB đang nỗ lực đa dạng
hóa sản phẩm trên nền công nghệ hiện đại, hợp tác với các đối tác chiến lược nước

ngoài (Standard Chartered Bank, IFC ) để phát triển các sản phẩm mới, và đa
dạng hóa lĩnh vực kinh doanh thông qua các công ty trực thuộc hoạt động trong
nhiều lĩnh vực khác nhau (chứng khoán, địa ốc, bảo hiểm ).
2.2.1 Năng lực tài chính
Nguồn vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu ACB và các ngân hàng thương mại khác qua các năm
ĐVT: nghìn tỷ VNĐ
Ngân hàng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
ACB 1.283 1.653 6.258 7.767
Sacombank 1.887 2.870 7.349 7.758
Techcombank 1.010 1.762 3.573 5.500
Vietcombank 8.416 11.228 13.552 13.1
Nguồn: Báo cáo thường niên các ngân hàng thương mại
Từ bảng số liệu có thể thấy vốn chủ sở hữu của ngân hàng ACB tăng qua các
năm từ năm 2005 đến nay, đặc biệt tăng cao từ năm 2006 sang năm 2007 mà
nguyên nhân chính là đợt tăng vốn điều lệ của năm 2007 và phát hành cổ phiếu ra
25

×