Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Nghiên cứu tìm hiểu về thực trạng và một số giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.55 KB, 19 trang )

1
LỜI NÓI ĐẦU
Qua một thời gian học tập và tìm hiểu môn lý thuyết tài chính tiền tệ và môn
thị trường chứng khoán, em đã bước đầu hiểu được những vấn đề cơ bản về thị
trường chứng khoán Việt Nam. Nhằm đáp ứng yêu cầu của môn học và nhằm tìm
hiểu rõ hơn về thị trường chứng khoán, em đã tìm kiếm ,thu thập tài liệu và viết bài
luận về môn này với nhan đề “Nghiên cứu tìm hiểu về thực trạng và một số giải
pháp để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam”
cấu trúc của bài được chia làm 3 phẩn:
- Phần 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
- Phần 2: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam - Một số giải pháp để
phát triển.
- Phần 3: Kết luận
Do kiến thức và thời gian nghiên cứu có hạn nên chắc chắn bài viết còn nhiều
thiếu sót. Kính mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô để bài viết này được hoàn thiện
hơn. Xin chân thành cảm ơn!
1
1
2
PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1/Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về TTCK, nhưng thị trường chứng
khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các
hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Chứng khoán được hiểu
là các loại giấy tờ có giá hoặc bút toán ghi sổ. Việc mua bán này được tiến hành ở thị
trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát
hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã
được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các
hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi


chủ thể nắm giữ chứng khoán.
Thị trường chứng khoán không giống với các thị trường hàng hóa thông
thường khác vì hàng hóa của TTCK là một loại hàng hóa đặc biệt, là quyền sở hữu về
tư bản. Loại hàng hóa này cũng có giá trị sử dụng. Như vậy có thể nói, bản chất của
thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mốI quan hệ giữa cung và cầu của vốn
đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá
cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khaón là hình thức phát triển bậc cao của sản
xuất và lưu thông hàng hóa.
2
2
3
2/ Vị trí và cấu trúc của thị trường chứng khoán
2.1/ Vị trí của thị trường chứng khoán trong thị trường tài chính
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính. Vị trí của thị
trường chứng khoán trong thị trường tài chính thể hiện:
- Thị trường chứng khoán là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn.
3
TT tiền tệ Thị trường vốn
TTCK
3
4
Thời gian đáo hạn 1 năm t
Như vậy, trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ tài chính trên
thị trường vốn và công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ.
- Thị trường chứng khoán là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính, nơi
diễn ra quá trình phát hành, mua bán các công cụ nợ và các công cụ vốn (các công cụ
sở hữu).
4
TT Nợ TT Vốn cổ phần
TT Trái phiếu TT Cổ phiếu

4
5
2.2/ Cấu trúc của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài
chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng có kỳ hạn trên 1 năm). Sau
đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản:
a. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
· Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị
trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà
đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
· Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
b. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng
khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).
c. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
5
5
6
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
· Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
· Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công
ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
· Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh

Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các
chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền
chọn
3/ Vai trò và chức năng của thị trường chứng khoán
Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh
khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Thứ hai, thị trường cứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng
hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công
chúng, giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung
vốn cho phát triển kinh tế.
Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc giữa sở hữu và quản lý.
6
6
7
Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hóa thị trường chứng khoán . Việc mở của thị
trường chứng khoán làm tăng tính thanh khoản và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ năm, thị trường cứng khoán tạo cơ hội cho Chính Phủ huy động các nguồn
tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực
hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính Phủ.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo hiệu quả về các chu kỳ
kinh doanh trong tương lai.
4/ Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài
chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng có kỳ hạn trên 1 năm). Sau
đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản:
a. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
· Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị

trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà
đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
· Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
7
7
8
b. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng
khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).
c. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
· Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
· Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công
ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
· Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại
các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền
chọn
5/ Thị trường chứng khoán Việt Nam
Trước yêu cầu về đổi mới và phát triển kinh tế phù hợp với các điều kiện kinh
tế chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham
khảo và chọn lọc các mô hình kinh tế trên thế giớI, Việt Nam đã quyết đinh thành lập
thị trường chứng khoán Việt Nam với những đặc thù riêng biệt: thành lập 2 trung tâm
8
8

9
giao dịch chứng khoán ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, sau khi thị trường phát
triển thì chuyển sang thành Sở giao dịch chứng khoán.
Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành
trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực
hiện việc giao dịch đầu tiên vào này 28/07/2000.
Các chủ thể trên thị trường chứng khoán Việt Nam gồm:
- Chủ thể phát hành
- Nhà đầu tư
- Các tổ chức quản lý và giám sát thị trường chứng khoán
- Các tổ chức khác
9
9
10
PHẦN 2
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN
1/ Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam
Sau hơn 6 năm đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt
Nam đã dần phát triển về nhiều mặt dần định hình trở thành một kênh huy động vốn
năng động, hiệu quả cho nền kinh tế đất nước.
Tính đến nay đã có 63 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán và mỗi
phiên giao dịch có tổng khối lượng niêm yết trung bình là 11363.09 tỷ đồng. Thị
trường chứng khoán đã huy động được một khối lượng vốn nhất định cho ngân sách
nhà nước thông qua việc đấu thầu và bảo lãnh phát hành hàng nghìn tỷ đồng trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển để niêm yết trên
TTGDCK. Một hệ thống các tổ chức tài chính trung gian tham gia trên thị trường với
10
10
11

19 công ty chứng khoán, 16 các tổ chức hoạt động lưu ký cùng với ngân hàng lưu ký,
ngân hàng chỉ định thanh toán đã thực hiện tốt các nghiệp vụ về kinh doanh chứng
khoán, về lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ. Trong những năm qua, các công ty
chứng khoán đều đã triển khai được các nghiệp vụ cơ bản là môi giới và tự doanh,
tích cực tham gia tư vấn niêm yết với kết quả kinh doanh có chiều hướng phát triển
tốt. Các công ty phần lớn đã mở thêm chi nhánh và đại lý nhận lệnh để mở rộng phạm
vi hoạt động. Đồng thời thị trường chứng khoán đã thu hút được sự tham gia của
công chúng đầu tư trong và ngoài nước với số lượng hơn 53.000 tài khoản của nhà
đầu tư được mở tại các công ty chứng khoán, góp phần quan trọng cho sự tồn tại và
phát triển của thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên so với tiềm năng phát triển của nền kinh tế, xu hướng hội nhập quốc
tế thì quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé, tổng giá trị
chứng khoán niêm yết (cổ phiếu và trái phiếu tính theo mệnh giá) mới chỉ chiếm
khoảng 8% GDP năm 2005, chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn trung và dài
hạn cho nền kinh tế và chưa tổ chức được thị trường thứ cấp hiệu quả đối với trái
phiếu, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ. Thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều
biến động thăng trầm "sốt nóng và nguội lạnh" gây tâm lý dè dặt và thiếu niềm tin
cho nhà đầu tư tham gia thị trường. Công tác tạo hàng hoá cho thị trường gặp nhiều
khó khăn, số lượng các công ty niêm yết trên thị trường chưa nhiều. Thị trường trái
phiếu trong thời gian qua hoạt động chưa có hiệu quả cao, chưa thu hút được sự quan
tâm của các nhà đầu tư v.v
11
11
12
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là:
Trước hết, phải nói rằng thị trường chứng khoán là một thị trường mới nên
công chúng đầu tư chưa thực sự hiểu biết về hoạt động chứng khoán, cũng như chưa
thấy được lợi ích của việc tham gia thị trường. Trong khi đó sự thiếu vắng các nhà
đầu tư có tổ chức (bảo hiểm, quỹ đầu tư, các tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp) trên thị trường đã ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường bởi tác động

tâm lý của các nhà đầu tư nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp. vì vậy thường xuyên xảy ra
nöôùc, hôiững đợt đầu tư mua bán ồ ạt theo kiểu “tâm lý bầy đàn”. Các doanh nghiệp
Việt Nam còn mang nặng tư tưởng của cơ chế bao cấp, còn trông chờ vào nguồn vay
ưu đãi, chưa muốn huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Nhiều doanh nghiệp
lại e ngại kiểm toán và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, và sự thiếu
vắng các doanh nghiệp lớn ra niêm yết trên thị trường chứng khoán đã không hấp dẫn
các nhà đầu tư, do vậy, hàng hoá trên thị trường còn thiếu về số lượng và hạn chế về
chất lượng. Thêm vào đó, tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước chưa
gắn kết được với việc phát chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường
chứng khoán; các chính sách khuyến khích, ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi về thuế đối với
các tổ chức tham gia thị trường chưa được chú ý đúng mức có ảnh hưởng không nhỏ
đến sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán. Mặt khác, việc quản lý và
điều hành thị trường còn bất cập, hạn chế do sự thiếu chủ động và thiếu kinh nghiệm
thực tiễn của cơ quan quản lý và giám sát thị trường. Điều rất quan trọng là hệ thống
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán thiếu đồng bộ và hiệu lực pháp
lý không cao, chưa có Luật chứng khoán để tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định
12
12
13
để điều chỉnh mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện thực
tế hiện nay và định hướng, chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
đến năm 2010 trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế v.v
Thứ hai, Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường
chứng khoán hiện nay ở Việt Nam còn chưa phù hợp vớI sự phát triển của thị trường.
Các văn bản pháp luật hiện hành chủ yếu điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng
khoán bao gồm: Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 (thay thế Nghị định
48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng
khoán); Nghị định số 22/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/7/2000 về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán: Nghị định
số 64/2002/NĐ/CP về cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước: Luật doanh nghiệp

ban hành ngày 12/6/1999 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành bước đầu đã tạo
được khung pháp lý góp phần xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán trong
thời gian qua. Tuy nhiên, do sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường
chứng khoán Việt Nam nói riêng, đến nay, hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định làm cản trở sự phát triển
của thị trường, chưa bao quát và phù hợp với điều kiện thực tế cũng như định hướng
chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010.
Hơn nữa, do chưa có Luật chứng khoán nên hệ thống các văn bản pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán ở tầm Nghị định chưa mang tính pháp lý cao,
chưa đồng bộ, do vậy không thể giải quyết được một cách triệt để những mâu thuẫn
13
13
14
với các văn bản pháp luật khác có liên quan. Phạm vi điều chỉnh của các văn bản
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn hẹp, chưa bao quát và điều
chỉnh thống nhất việc phát hành chứng khoán ra công chúng, các hoạt động kinh tế
chứng khoán của các đối tượng tham gia thị trường, chưa tạo cơ sở pháp lý cao cho
hoạt động của các tổ chức dịch vụ chứng khoán v.v
Vì vậy, việc Luật Chứng chính thức đi vào hoạt động vào ngày 01/01/2007 sẽ tạo ra
một môi trường pháp lý ổn định, vững chắc và thuận lợi cho cơ quan quản lý cũng
như mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên thị trường, tạo tâm lý yên tâm cho
các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán và
từ đó thu hút được các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia. Đồng thời Luật
Chứng khoán sẽ tạo cơ sở pháp lý cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển an
toàn, lãnh mạnh và có hiệu quả, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt
động chứng khoán, bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường, góp
phần xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành một kênh
huy động vốn trung và dài hạn quan trọng và thiết yếu đáp ứng cho công cuộc công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2/Cơ hộI và thách thức

Trong những ngày ngày tháng 11 vừa qua, cả đất nước ta thật sự vui mừng khi
Việt Nam đã được gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều đó có
nghĩa là chúng ta sẽ có cơ hội được mở rộng giao lưu buôn bán trên thị trường thế
giới, các hàng hóa được tư do lưu thông giữa các nước với nhau một cách dễ dàng.
14
14
15
Thị trường vốn cũng sẽ được tự do chuyễn từ những quốc gia phát triển sang các
nước kém phát triển hơn để đầu tư. Như vậy TTCK Việt Nam sẽ càng được phát triển
nhơ sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thông qua
TTCK.
Ngoài ra, khi các doanh nghiệp Việt Nam gia nhập vào WTO sẽ có cơ hội phát
triển, từ đó các công ty sẽ lớn mạnh và được tham gia niêm yết trên thị TTCK. Vì
vậy, TTCK Việt Nam sẽ có thêm nhiều loại hàng hóa mới để các nhà đầu tư lựa chọn.
Đó là những tín hiệu đáng mừng cho TTCK Việt Nam.
Bên cạnh đó TTCK Việt Nam cũng sẽ găợ không ít những thách thức như:
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu năm 1997 từ châu Á đã lan sang
Nga, Trung và Nam Mỹ, thị trường tiền tệ biến động lây lan sang thị trường chứng
khoán, rồi từ quốc gia này đến quốc gia khác. Sự đổ vỡ của thị trường bất động sản,
sự thua lỗ của các công ty dẫn đến hiện tượng giảm giá cổ phiếu và trở thành trào lưu
rút vốn ồ ạt ra khỏi TTCK của một nước rồi cả một khu vực. Đây là một nguy cơ đối
với TTCK Việt Nam khi kết nối với nền kinh tế thế giới.
Một nguy cơ khác, theo các chuyên gia kinh tế là sự quá phụ thuộc vào luồng
vốn quốc tế, dẫn đến tình trạng lệ thuộc kinh tế và thậm chí là chính trị. Thực tế cho
thấy, đây là điều đáng lo ngại vì nhiều nước không đủ khả năng kiểm soát quá trình
hội nhập khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng mất chủ quyền do áp dụng hoàn toàn
những quy định của nước mạnh. Ở mức độ thấp hơn là nguy cơ biến dạng thị trường
khi các cường quốc mạnh áp đặt những nguyên tắc của họ vào các nước nhỏ, làm cho
15
15

16
những nước nhỏ phải thay đổi những nguyên tắc, chuẩn mực ban đầu của họ. Hậu
quả là, thị trường một nước yếu hơn rất dễ trở thành "sân sau" của một nước mạnh
hơn do những quy luật nghiệt ngã của cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Theo các
chuyên gia kinh tế khi tham gia vào quá trình hội nhập, TTCK của Việt Nam cũng có
nguy cơ đối đầu với sự biến dạng này nếu không có được những biện pháp phòng
ngừa hợp lý.
3/ Một số giải pháp để phát triển
Như vậy, để thị trường chứng khoán việt Nam phát triển hơn trong tương lai và
trở thành một bộ phận quan trọng trong kênh huy đọng vốn của nền kinh tế thì cần
phải có các giải pháp để khắc phục những khó khăn đang tồn tại trong TTCK Việt
Nam hiện nay.
♦ Về yếu tố vĩ mô: sự ổn định môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô nhằm
khuyến khích đầu tư và tiết kiệm của công chúng; mức độ lạm phát được kiềm chế
vừa đủ để duy trì nền kinh tế phát triển.
♦ Về yếu tố vi mô
+ Hoàn thiện khung pháp lý và các văn bản pháp quy đầy đủ, rõ ràng. Bên cạnh
đó sớm đưa luật chứng khoán vào hoạt động để thị trường hoạt động có hiệu quả hơn.
+ Cung cấp một cơ chế giao dịch hiệu quả thông qua tổ chức, vận hành của
trung giao dịch chứng khoán như đua vào vạn hành hệ thống giao dịch khớp lệnh liên
16
16
17
tục để thay cho việc giao dịch khớp lệnh hệ thống như hiện nay; hoàn thiện và phát
triển hệ thống công bố thông tin, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ…
Ngoài ra thị trường cần đến sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đóng
vai trò dẫn dắt thị trường, can thiệp thị trường vào những thờI điểm mất cân đốI quan
hệ cung cầu, vì vậy cần phảI đào tạo những nhà đầu tư có tính chuyên nghiệp hơn.
Ngoài ra cần có những chính sách khuyến khích các nhà đầu tư lớn và có tính chuyên
nghiệp tham gia vào thị trường để họ trở thành những nhà dẫn dắt chính cho thị

trường phát triển.
17
17
18
18
18
19
KẾT LUẬN
Như vậy, sau 6 năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được
những thành công bước đầu đáng nhận. Tuy nhiên trong bối cảnh đất nước đang
trong quá trình hội nhập và phát triển một cách mạnh mẽ thì thị trường chứng khoán
Việt Nam cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình như là một kênh huy động vốn
chủ yếu của nền kinh tế. Chính vì vậy nghiên cứu thực trạng của nền chứng khoán
Việt Nam hiện nay là một vấn đề hết sức cần thiết.
Trong phạm vi chuyên đề này chỉ nghiên cứu một phần nhỏ những mặt còn yếu
của thị trường chứng khoán Việt Nam và đưa ra một số giải pháp để phát triển trong
tương lai. Hy vọng rằng trong những năm tới thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ
phát triển mạnh mẽ đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước
và thực sự trở thành một phần quan trọng không thể thiếu của nền tài chính Việt
Nam.
Trong quá trình thực hiện bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết này được hoàn thiện hơn. Xin
chân thành cảm ơn!
19
19

×