Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

luận văn quản trị chất lượng Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hải Dương.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.66 KB, 70 trang )

Chuyên đề thực tập
LỜI NÓI ĐẦU
Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng
nói chung và hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng là một hoạt động nghiệp
vụ quan trọng. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố chủ quan lẫn khách quan mà hoạt động
tín dụng, đặc biệt là hoạt động tín dụng trung và dài hạn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Những rủi ro đó có thể sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và sự
ổn định của hệ thống tài chính nói chung. Do đó, nâng cao chất lượng tín dụng
trung và dài hạn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng và của các nhà quản
lý kinh tế.
Trong những năm vừa qua, ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Hải
Dương luôn thể hiện là một ngân hàng tiên phong và có lợi thế trong việc cho vay
trung và dài hạn trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Cùng với sự tăng trưởng không
ngừng của kinh tế địa phương và lực lượng doanh nghiệp trên địa bàn, nhu cầu về
tín dụng trung và dài hạn cũng tăng theo tương ứng. Để đáp ứng tốt nhu cầu đó, một
mặt chi nhánh thực hiện tăng trưởng tín dụng, mặt khác, tập trung kiểm soát chất
lượng cho vay. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh vẫn
chưa thực sự hoàn thiện. Chính vì vậy, sau thời gian nghiên cứu và tìm hiểu em đã
hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình với đề tài “Nâng cao chất
lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
chi nhánh Hải Dương”. Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần :
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 1
Chuyên đề thực tập
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng
đầu tư và phát triển chi nhánh Hải Dương.
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại
ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Hải.
Do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài viết
không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự góp ý của


các thầy cô giáo, cũng như từ phía đơn vị thực tập là Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam
chi nhánh Hải Dương để bải viết chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin gửi lời cám ơn chân thành đến PGS.TS Vũ Duy Hào, ban lãnh đạo
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam chi nhánh Hải Dương đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện cho em hoàn thành đề tài này.
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 2
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính quan trọng đối với nền
kinh tế của bất cứ quốc gia nào. Ngân hàng thương mại là tổ chức thu hút tiết kiệm
lớn nhất trong hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Ngân hàng thương mại cũng là
định chế cung cấp, phân phối tín dụng một cách hiệu quả cho nền kinh tế thông qua
việc cho vay có chọn lọc đối với các tổ chức, các cá nhân và Chính phủ. Bên cạnh
đó, ngân hàng thương mại cũng cung cấp các dịch vụ tài chính quan trọng giúp
dòng tiền luân chuyển nhanh, hiệu quả trong nền kinh tế. Có rất nhiều loại hình
ngân hàng thương mại khác nhau như ngân hàng đầu tư, ngân hàng chuyên doanh,
ngân hàng đa năng…tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ
thống tài chính nói riêng.
Các ngân hàng có thể được định nghĩa thông qua các dịch vụ, chức năng
hoặc vai trò mà chúng thực hiện, tuy nhiên, các yếu tố này lại luôn thay đổi không
ngừng cùng với sự phát triển của thị trường tài chính và nhu cầu của người sử dụng
dịch vụ. Thực tế, có rất nhiều hoạt động của công ty tài chính, ngân hàng hay công
ty bảo hiểm cùng tham gia cung cấp, và các định chế này vẫn đang không ngừng
cung cấp thêm dịch vụ mới để tăng khả năng cạnh tranh. Do đó, một cách thận
trọng để xem xét khái niệm ngân hàng đó là trên phương diện loại hình dịch vụ
ngân hàng cung cấp. “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục
các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh

toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
Các dịch vụ chính ngân hàng thương mại cung cấp ra công chúng bao gồm:
 Mua bán ngoại tệ: là dịch vụ ra đời cùng với sự hình thành của ngành
ngân hàng, trong đó một ngân hàng đứng ra mua hoặc bán một loại tiền này lấy một
loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Đây là một hoạt động có mức độ rủi ro cao,
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 3
Chuyên đề thực tập
yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao vì vậy thường do các ngân hàng lớn cung
cấp.
 Nhận tiền gửi: ngân hàng nhận tiền gửi từ dân cư và các tổ chức trong
nền kinh tế để bảo quản hộ với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong thời gian ngân
hàng nắm giữ tiền gửi, do tính chất vô danh của tiền mà ngân hàng có thể sử dụng
tạm thời để kinh doanh. Do đó, xuất hiện cuộc cạnh tranh giữa các ngân hàng để tìm
và giành được các khoản tiền gửi. Trong cuộc cạnh tranh đó, các ngân hàng thương
mại đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc hi sinh nhu
cầu tiêu dùng hiện tại.
 Cho vay: hoạt động cho vay là việc ngân hàng cung cấp một khoản tín
dụng cho cá nhân, tổ chức trong một khoảng thời gian nhất định và thu lãi. Cho vay
bao gồm: cho vay thương mại(là việc chiết khấu thương phiếu chưa tới hạn, qua đó
giúp người kinh doanh có vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, phần lãi thể hiện ở
số tiền chiết khấu), cho vay tiêu dùng(là việc cung cấp các khoản tín dụng cho cá
nhân và hộ gia đình đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hiện tại như mua xe, mua nhà, du
học…), tài trợ cho các dự án(là việc cung cấp các khoản tín dụng cho các dự án đầu
tư, mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp).
 Bảo quản vật có giá: là hoạt động ngân hàng nhận lưu giữ, bảo quản các
tài sản có giá cho khách hàng. Khi nhận tài sản có giá, ngân hàng sẽ trao cho khách
hàng giấy biên nhận- một công cụ có thể dùng để thanh toán các khoản nợ trong
phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành do khả năng chi trả bất cứ lúc nào của

giấy biên nhận-hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Hiện nay, vật có giá đã
được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản.
 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: ngân hàng
không những chỉ cung cấp dịch vụ giữ hộ tiền và tài sản có giá mà họ còn thực hiện
các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho
thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải rút tiền mặt
khỏi tài khoản để thanh toán mà chỉ cần viết giấy chi trả. An toàn, nhanh chóng,
chính xác, tiết kiệm chi phí là các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt góp
phần rút ngắn thời gian kinh doanh, nâng cao thu nhập cho khách hàng nhờ hưởng
lãi và khuyến khích khách hàng nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 4
Chuyên đề thực tập
vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép
người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Sự ra đời của
loại tài khoản mới này được xem là một trong những bước tiến quan trọng nhất
trong ngành ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin trong những
năm qua, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C,
thanh toán bằng điện, thẻ…
 Quản lý ngân quỹ: Phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân mở tài
khoản tại ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng thường có sự am hiểu về vấn đề thu-chi của
nhiều khách hàng. Đây chính là cơ sở để ngân hàng cung cấp dịch vụ quản lý ngân
quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một doanh nghiệp, cá nhân
và đầu tư theo giới hạn thỏa thuận phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng
khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh
toán.
 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: hoạt động của hầu hết các Chính
phủ trên thế giới đều rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách, do đó nhu cầu vay để bù
đắp ngân sách đáp ứng chi tiêu là rất lớn, trong khi đó, các ngân hàng lại có khả
năng huy động và cho vay với khối lượng lớn. Điều này đã làm cho các Chính phủ
chú ý, và thông qua ngân hàng trung ương, các Chính phủ đều tìm cách tham dự,

hoặc trực tiếp can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, khi cấp giấy
phép hoạt động cho các ngân hàng, Chính phủ đều quy định điều khoản cam kết
thực hiện ở mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ
như các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng
lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được, hoặc phải cho vay với các điều kiện
ưu đãi với các doanh nghiệp quốc doanh.
 Bảo lãnh: do uy tín của mình, ngân hàng thường đứng ra bảo lãnh cho
khách hàng để mua hàng hóa trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ
chức khác, thực hiện hợp đồng đấu thầu… và thu phí dịch vụ.
 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: để bán được các thiết bị, đặc biệt là
các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê(thay vì
bán)các thiết bị. Khi kết thúc hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
Hiện nay, rất nhiều ngân hàng đứng ra mua thiết bị và cho khách hàng quyền lựa
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 5
Chuyên đề thực tập
chọn thuê mua các tài sản đó thông qua hợp đồng thuê mua. Hợp đồng thuê mua tài
sản thường quy định khách hàng phải trả tới 2/3 giá trị tài sản cho thuê.
 Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn: với những kinh nghiệm hoạt động
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng có nhiều chuyên gia giỏi, giàu kinh nghiệm về
quản lý và tư vấn tài chính. Vì vậy, nhiều khách hàng đã sử dụng dịch vụ quản lý tài
sản, quản lý tài chính, uy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy
thác đầu tư, tư vấn tài chính, mua bán sáp nhập doanh nghiệp của ngân hàng.
 Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: các ngân hàng hiện nay
cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải trực tiếp tự doanh. Trong
nhiều trường hợp, ngân hàng cũng thành lập ra các công ty chứng khoán hoặc công
ty môi giới chứng khoán của mình.
 Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: hiện nay, các ngân hàng đã bán bảo
hiểm cho khách hàng, đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng chịu rủi
ro như chết, thương tật hay gặp phải rủi ro hoạt động, mất khả năng thanh khoản.

 Cung cấp các dịch vụ đại lý: do nhu cầu mở rộng mạng lưới của các ngân
hàng ngày càng lớn, trong khi đó chi phí để thiết lập chi nhánh mới là không nhỏ,
nhiều ngân hàng đã cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong
đồng tài trợ…
1.1.3. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn trong Ngân hang thương
mại:
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu đầu tư mua sắm thiết
bị, mở rộng sản suất, xây dựng nhà xưởng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ…của
các doanh nghiệp là rất lớn. Đây thường là các dự án đầu tư trong khoảng thời gian
dài, có độ rủi ro cao. Để huy động vốn tài trợ cho các dự án này, các doanh nghiệp
hiện nay sử dụng tín dụng trung và dài hạn từ các ngân hàng thương mại là chủ yếu,
do các phương thức huy động vốn khác như phát hành trái phiếu, cổ phiếu vẫn còn
nhiều hạn chế ở Việt Nam. Chính vì vậy, nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các
doanh nghiệp từ các ngân hàng thương mại là rất lớn, tín dụng trung và dài hạn hiện
nay đã trở thành một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh, có tác động
lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Do đó, các ngân
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 6
Chuyên đề thực tập
hàng cần phải xây dựng được một bộ khung hợp lý để vận hành, quản lý hiệu quả
hoạt động này. Các yếu tố cơ bản bao gồm:
 Mục tiêu hoạt động kinh doanh: với bất kỳ hoạt động nào, các ngân hàng
thương mại đều phải xác định các mục tiêu nhằm làm thước đo đánh giá hoạt động
của ngân hàng trong việc thực hiện các mục tiêu đó. Với mỗi ngân hàng khác nhau
trong từng thời kì khác nhau, mục tiêu của hoạt động tín dụng trung và dài hạn là
khác nhau, sao cho phù hợp với mục tiêu tổng quát của ngân hàng và chính sách của
nhà nước. Mục tiêu đó có thể là tăng trưởng thị phần trên địa bàn hoạt động, hoặc
tăng trưởng lợi nhuận, hoặc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài
hạn…Trên cơ sở các mục tiêu đã được ban lãnh đạo ngân hàng đề ra, các bộ phận
tác nghiệp sẽ xây dựng các biện pháp, kế hoạch cụ thể, từ tổng quát cho toàn bộ hệ

thống, tới cụ thể cho từng chi nhánh trong từng khoảng thời gian để đảm bảo hoàn
thành các mục tiêu đã định.
 Xây dựng chính sách tín dụng: các chính sách thể hiện quan điểm của
ngân hàng đối với các vấn đề liên quan trực tiếp tới hoạt động của mình. Hoạt động
tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng đòi hỏi phải có sự kết hợp và
chỉ đạo chung thông qua các chính sách, quy tắc. Do đó các ngân hàng phải xây
dựng cho mình chính sách tín dụng. Chính sách này phản ánh cương lĩnh tài trợ tín
dụng của một ngân hàng thương mại, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín
dụng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất trong
hoạt động tín dụng nhằm mục đích mở rộng tín dụng đồng thời hạn chế rủi ro tín dụng,
nâng cao thu nhập cho ngân hàng. Toàn bộ các vấn đề có liên quan tới hoạt động tín
dụng sẽ được đề cập tới trong chính sách này, trong đó các vấn đề chủ yếu là:
o Chính sách khách hàng: Khách hàng vay của ngân hàng rất đa dạng, thuộc
nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau trong xã hội. Mỗi một ngân hàng sẽ xác định
cho mình một thị trường mục tiêu với nhóm khách hàng mục tiêu nhất định. Chính
sách khách hàng ra đời nhằm tạo ra các ưu đãi cho nhóm đối tượng này, từ đó thu
hút họ và làm cho họ gắn bó hơn với ngân hàng. Điều này sẽ rất có ý nghĩa trong
việc tiết kiệm chi phí hoạt động nhưng vẫn duy trì được lượng khách hàng ổn định.
o Chính sách đảm bảo tiền vay: Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp
dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 7
Chuyên đề thực tập
được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào
uy tín của khách hàng, năng lực tài chính của doanh nghiệp, hiệu quả SXKD, tính
khả thi của dự án, phương án SXKD, thực trạng tài sản của doanh nghiệp, của hộ
gia đình, cá nhân vay vốn, để xác định hình thức bảo đảm tiền vay cho thích hợp
như: thế chấp, cầm cố tài sản; bảo lãnh bằng tài sản Thế chấp, cầm cố; bảo đảm
bằng tài sản hình thành từ vốn vay; cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; bảo
lãnh bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội đối với hộ nghèo. Chính sách
bảo đảm tiền vay sẽ quy định một cách cụ thể việc hướng dẫn cho cán bộ tín dụng

hình thức áp dụng các biện pháp bảo đảm trong từng tình huống cụ thể.
o Chính sách lãi suất và phí suất tín dụng: Ngân hàng có các mức lãi suất
khác nhau đối với từng kì hạn khác nhau cũng như với các khách hàng khác nhau.
Lãi suất tín dụng do ban giám đốc ngân hàng thông qua và cần được phổ biến đến
mọi cán bộ tín dụng, bao gồm lãi suất cơ bản và lãi suất bình quân của từng kì hạn,
các ngành và lĩnh vực chủ yếu. Khi cán bộ tín dụng thỏa thuận về lãi suất, họ phải
tính tới rủi ro, mức lãi suất hòa vốn, lãi suất cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh
khung lãi suất định trước, ngân hàng còn cung cấp các lãi suất thỏa thuận với từng
nhóm khách hàng cụ thể. Chính sách lãi suất cần chỉ rõ các bộ phận cấu thành cơ
bản nên lãi suất như lãi suất huy động, chi phí liên quan, rủi ro, thuế và tỷ lệ lợi tức
tối thiểu…cũng như các nhân tố chính tác động đến các bộ phận đó. Từ đó khuyến
khích sự linh hoạt, đa dạng trong việc xác định giá trên cơ sở đảm bảo khả năng
sinh lời cũng như khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Ngân hàng có thể cho phép
cán bộ tín dụng được thay đổi lãi suất trong giới hạn nhất định, hoặc cho khách
hàng chọn hình thức lãi suất cố định hay thả nổi…
Các chính sách này giúp cho các bộ phận tác nghiệp xác định thị trường mục
tiêu, xác định phương thức bảo đảm tiền vay và xác định lãi suất cho vay hợp lý,
đảm bảo sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống.
 Xây dựng quy trình cấp tín dụng: hoạt động tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng luôn ẩn chứa rất nhiều rủi ro: rủi ro do chuyển hoán kì hạn, rủi ro tác
nghiệp, các rủi ro liên quan tới dự án…trong đó, có những rủi ro thuộc về quản trị
hệ thống của ngân hàng, có những rủi ro liên quan tới quá trình tác nghiệp của cán
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 8
Chuyên đề thực tập
bộ tín dụng. Đối với hoạt động của các chi nhánh, thì rủi ro tác nghiệp là rủi ro lớn
nhất, mà nếu rủi ro này xảy ra, nó sẽ làm phát sinh hàng loạt rủi ro khác mà ngân
hàng phải gánh chịu do cán bộ tín dụng có đánh giá sai, không quy chuẩn về dự án
đó. Từ đó, đặt ra vấn đề cần phải xây dựng một bộ quy trình chung áp dụng cho
việc xét duyệt đề nghị cấp tín dụng. Việc ra đời quy trình chung này, sẽ đảm bảo
việc mọi cán bộ tín dụng trong hệ thống ngân hàng đều thực hiện đánh giá dự án

một cách tuần tự, logic, tránh tình trạng thiếu, nhầm lẫn hay bỏ xót bất cứ khâu nào
khi xét duyệt. Đồng thời, nó cũng đưa ra một cách nhìn thống nhất với mọi cán bộ
tín dụng, tránh được việc cán bộ tín dụng thẩm định xét duyệt cho vay theo cảm tính
gây rủi ro cho ngân hàng. Thông thường, một quy trình cấp tín dụng sẽ bao gồm các
bước sau:
o Tiếp xúc và giúp khách hàng lập đề xuất xin cấp tín dụng: trong bước này
cán bộ tín dụng sẽ tiếp xúc, tiếp thu nguyện vọng của phía khách hàng, giúp khách
hàng thu thập số liệu, lập phương án sản xuất kinh doanh, các hồ sơ cần thiết, trên
cơ sở đó lập đề xuất xin cấp tín dụng.
o Phân tích trước cho vay: đây là bước quyết định chất lượng tín dụng, nội
dung chủ yếu là xử lí các thông tin có liên quan đến khách hàng như năng lực sử
dụng vốn vay, đánh giá uy tín, phân tích tính khả thi của dự án, khả năng trả nợ
ngân hàng, quyền sở hữu tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan.
o Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng: Khi hợp đồng đã kí kết,
ngân hàng phải thực hiện giải ngân theo như thỏa thuận. Đồng thời, ngân hàng phải
tiến hành kiểm soát việc sử dụng vốn như mục đích sử dụng, tiến độ sử dụng vốn,
thay đổi trong sản xuất kinh doanh…Nếu có dấu hiệu vi phạm, ngân hàng phải có
các biện pháp kịp thời như buộc thu hồi nợ trước hạn, buộc khách hàng bổ sung
thêm tài sản đảm bảo, ngừng giải ngân…
o Thu nợ và đưa ra phán quyết tín dụng mới: hết thời hạn tín dụng, ngân hàng
thu hồi hết gốc và lãi. Một khoản tín dụng an toàn là khoản tín dụng đảm bảo trả nợ
đầy đủ và đúng hạn. Một số trường hợp, khách hàng không có khả năng trả đúng
hạn ngân hàng phải đưa ra các phán quyết mới như phát mại tài sản đảm bảo, cho
vay thêm…
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 9
Chuyên đề thực tập
 Tổ chức bộ máy: để thực hiện tốt những chính sách, quy trình cấp tín dụng
mà ngân hàng đã đề ra, ngân hàng cần xây dựng cho mình một bộ máy chuyên trách
về hoạt động tín dụng, trong đó quản lý việc cấp phát tín dụng ngắn hạn và tín dụng
trung và dài hạn. Bộ máy này sẽ thay mặt ngân hàng kiểm soát việc thực hiện quy

trình của cán bộ tín dụng, đánh giá rủi ro, xây dựng hệ thống thông tin khách hàng,
phân cấp quản lý theo định mức tín dụng cho các cấp trong bộ máy, xác định hạn
mức tín dụng cho từng chi nhánh, hỗ trợ ban lãnh đạo ngân hàng trong việc xây
dựng các chính sách liên quan tới hoạt động tín dụng…
1.2. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Để đánh giá công tác tín dụng trung và dài hạn theo từng thời kỳ, ngân hàng
có thể xem xét dựa trên nhiều khía cạnh khác nhau. Ngân hàng có thể được xem xét
dựa trên những kết quả đã đạt được và những hạn chế còn tồn tại, trong đó, ngân
hàng xem xét một cách định lượng, cụ thể chi tiết bằng các con số, sự việc việc thực
hiện các mục tiêu đã đề ra có đạt hay không, và còn những hạn chế gì trong quá
trình thực hiện để từ đó đề ra các giải pháp khắc phục và hoàn thiện cách thức tổ
chức thực hiện. Ngân hàng cũng có thể đánh giá dựa trên hiệu quả của hoạt động
tín dụng trung và dài hạn bằng cách xem xét tỷ lệ hoàn thành các mục tiêu đã đề ra,
từ đó thấy được năng suất tác nghiệp, suất sinh lời, tỷ lệ đóng góp vào kết quả hoạt
động kinh doanh trong kỳ của ngân hàng…Một cách tiếp cận nữa của ngân hàng, đó
là việc xem xét tới chất lượng của hoạt động tín dụng trung và dài hạn.
1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng.
Chất lượng là một khái niệm quen thuộc tuy nhiên chất lượng cũng là một
khái niệm gây nhiều tranh cãi. Tùy theo đối tượng sử dụng, từ "chất lượng" có ý
nghĩa khác nhau. Tổ chức Quốc tế về Tiệu chuẩn hóa ISO, trong dự thảo DIS
9000:2000, đã đưa ra định nghĩa sau:
“Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ
thống hay quá trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên
quan".
Theo định nghĩa trên, áp dụng cho hoạt động tín dụng của một ngân hàng
thương mại, để đánh giá về chất lượng tín dụng có 2 nhóm đối tượng quan trọng cần
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 10
Chuyên đề thực tập
được xem xét là: khách hàng và các bên có liên quan ở đây là các nhà quản trị ngân
hàng thương mại và ngân hàng nhà nước:

•Về phía khách hàng: Chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu của
khách hàng. Nó thể hiện ở việc các nhu cầu vay chính đáng của khách hàng được
ngân hàng đáp ứng một cách nhanh chóng, đầy đủ và kịp thời nhằm tận dụng triệt
để cơ hội kinh doanh. Nó cũng thể hiện thông qua sự hài lòng của khách hàng về
quy trình: trình tự thủ tục, thời gian để thực hiện, sự đa dạng của lãi suất với từng
loại khách hàng khác nhau, khả năng tư vấn, chăm sóc khách hàng trước trong và
sau cho vay. Điều đó có nghĩa là nếu một sản phầm vì lý do nào đó mà không được
khách hàng chấp nhận thì phải bị coi là có chất lượng kém, cho dù trình độ công
nghệ để chế tạo ra sản phẩm, áp dụng cho hệ thống đó có thể rất hiện đại. Đây là
một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách, chiến
lược kinh doanh của mình. Nếu trong hoạt động tín dụng, các nhà quản trị ngân
hàng áp dụng các biện pháp khắt khe để kiểm soát hoạt động tín dụng nhằm đảm
bảo theo các chỉ tiêu đề ra mà gây khó khăn cho việc tiếp cận tín dụng của khách
hàng hơn so với các tổ chức tín dụng khác thì chất lượng tín dụng của ngân hàng đó
cũng không cao. Sự chấp nhận này của khách hàng có thể được đánh giá dựa trên
quy mô tín dụng và tốc độ tăng trưởng tín dụng.
•Phía các bên liên quan: Khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phải
xét đến mọi đặc tính của đối tượng có liên quan tới sự thỏa mãn những nhu cầu cụ
thể. Các nhu cầu này không chỉ từ phía khách hàng mà còn từ các bên có liên quan,
đó là các yêu cầu mang tính pháp chế-của ngân hàng nhà nước và các yêu cầu mang
tính quản trị-của những nhà quản trị ngân hàng thương mại. Theo mục 10 điều 20
Luật các tổ chức tín dụng, cấp tín dụng được định nghĩa là “việc tổ chức tín dụng
thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng
các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ khác”. Trong đó, hoạt động này phải đảm bảo một số nguyên tắc nhất
định đó là: khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi trong một thời hạn nhất
định, khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích đã được thỏa thuận
với ngân hàng và không trái với quy định của pháp luật cũng như các quy định của
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 11
Chuyên đề thực tập

ngân hàng cấp trên, ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Do đó, nếu
xét trên quan điểm của ngân hàng nhà nước, xuất phát từ nhu cầu đảm bảo sự an
toàn cho thị trường tiền tệ, chất lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh mức độ
rủi ro các khoản tín dụng của ngân hàng thương mại. Chất lượng tín dụng cao đồng
nghĩa với việc ngân hàng thương mại duy trì được mức độ rủi ro cao nhất bằng với
mức độ tiêu chuẩn mà ngân hàng trung ương xác định trong từng thời kì. Điều này
nhằm tránh dẫn tới sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng thương mại- một bộ phận rất
nhạy cảm của thị trường tài chính. Đối với người quản trị ngân hàng, nhu cầu của
họ luôn là gia tăng tối đa nguồn tài sản bằng việc gia tăng lượng khách hàng hoặc
gia tăng tỷ lệ sinh lời trên mỗi đồng vốn cho vay ra. Ở nước ta hiện nay, tín dụng
vẫn là bộ phận mang lại nguồn thu lớn nhất trong hoạt động của ngân hàng, tuy
nhiên nó cũng là hoạt động ẩn chứa rủi ro cao nhất. Vì vậy, ngoài mục tiêu lợi
nhuận, an toàn cũng là một yếu tố quan trọng đối với các nhà quản trị. Chất lượng
tín dụng do đó thể hiện thông qua mức độ sinh lời trong giới hạn an toàn cho phép.
Như vậy theo những phân tích ở trên thì chất lượng tín dụng có thể được hiểu
như sau: “Chất lượng tín dụng là tập hợp các đặc tính của khoản tín dụng nhằm
đáp ứng sự thỏa mãn của khách hàng và nhu cầu thu được lợi nhuận tối đa
trong khi vẫn giữ được mức an toàn tín dụng trong giới hạn cho phép của ngân
hàng thương mại. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, tập hợp các đặc tính này sẽ thay
đổi tùy thuộc vào nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, chiến lược phát triển, tình
hình kinh doanh thực tiến của ngân hàng thương mại”.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
1.2.2.1. Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/4/2005 về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của các
ngân hàng thương mại và quyết định sửa đổi bổ sung số 18/2007/QĐ-NHNN ban
hành ngày 25/4/2007 thì các khoản vay của ngân hàng thương mại sẽ được phân
loại thành 5 nhóm, đó là:
•Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
o Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả

năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn;
•Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 12
Chuyên đề thực tập
o Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;
o Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã
cơ cấu lại;
•Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
o Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
o Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại;
•Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
o Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
o Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại;
• Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
o Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
o Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
o Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo
thời hạn đã được cơ cấu lại;
Nợ quá hạn được hiểu là nợ các nhóm từ nhóm 2 cho tới nhóm 5, là các khoản
nợ mà khách hàng không thanh toán được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp
đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn trả nợ thì toàn bộ phần
nợ gốc còn lại được chuyển thành nợ quá hạn.
Nợ xấu là nợ nhóm 3 đến nhóm 5 trong đó khách hàng vẫn không thể thanh
toán sau khi đã gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản đảm bảo
không phát mại được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản…Nợ xấu có mức độ nguy
hiểm cao hơn so với nợ quá hạn.
Nợ quá hạn và nợ xấu là những khoản tín dụng đã và đang tiềm ẩn nguy cơ
rủi ro mất vốn do khách hàng khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán.

Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu xác định bằng công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn =(Tổng dư nợ các nhóm 2 tới 5)/Tổng dư nợ.
Tỷ lệ nợ xấu = (Tổng dư nợ các nhóm 3 tới 5)/Tổng dư nợ.
Hai tỷ lệ này phản ánh định lượng sự an toàn của hoạt động tín dụng. Trong
hoạt động kinh doanh tiền tệ, thì nợ quá hạn và nợ xấu luôn tồn tại chứ không thể
triệt tiêu hoàn toàn do luôn có rủi ro hệ thống, chính vì vậy mà các ngân hàng
thương mại chấp nhận tồn tại rủi ro này nhưng luôn cố gắng giữ tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 13
Chuyên đề thực tập
lệ nợ xấu ở mức độ an toàn. Hiện nay, tỷ lệ nợ xấu ở mức 3% được coi là giới hạn
hạn hợp lý. Nếu tỷ lệ những khoản nợ tăng cao, ngân hàng khó thu hồi được tiền
cho vay ra, ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng, ngân hàng phải bỏ
thêm chi phí để tìm nguồn mới đáp ứng nhu cầu chi trả cho người gửi tiền. Do đó
nó là một chỉ tiêu cảnh báo cho chất lượng tín dụng của ngân hàng, khi tỷ lệ này
tăng cao hy vọng thu lại tiền của ngân hàng là rất mong manh, ngân hàng cần có các
biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
1.2.2.2. Tỷ lệ nợ có tài sản đảm bảo.
Thị trường tài chính là thị trường của niềm tin, và hoạt động tín dụng cũng
không nằm ngoài quy tắc đó. Khi cho vay, ngân hàng luôn kì vọng khách hàng sẽ
lựa chọn phương án đầu tư tốt và thực hiện tốt phương án đó để có đủ nguồn tiền trả
nợ. Tuy nhiên, do vấn đề thông tin bất đối xứng luôn tồn tại giữa người vay và
người đi vay, nên các ngân hàng không thể kiểm soát triệt để được vấn đề này.
Chính vì vậy, để đảm bảo an toàn cho đồng vốn cấp ra, ngân hàng thực hiện nhiều
biện pháp có tính khả thi cao, và bảo đảm tiền vay bằng tài sản là một biện pháp
hữu hiệu nhất hiện nay.
Theo lý thuyết hành vi người tiêu dùng, khi thực hiện hành vi nào thì họ luôn
cân nhắc giữa cái được và cái mất: nếu hành vi đó mang lại lơi ích thì họ sẽ hành
động, còn ngược lại, nếu hành vi đó gây tổn thất cho họ thì họ sẽ không làm gì. Tác
dụng của tài sản đảm bảo sẽ giúp cho người tiêu dùng, ở đây là người vay, cân nhắc
về hành động của mình. Khi các khoản tín dụng cấp mà không có tài sản đảm bảo,

phần vốn của bên vay tham gia rất ít hoặc không tham gia vào dự án, thì điều tất
yếu là bên vay sẽ thực hiện đầu tư mạo hiểm vì dù có mất, họ thiệt hại cũng rất nhỏ.
Khi có sự tham gia của tài sản đảm bảo, họ sẽ phải cân nhắc về hành vi của mình
một cách kĩ lưỡng, như vậy tính khả thi và mức độ an toàn của khoản vay cũng cao
hơn. Giá trị của doanh nghiệp được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau, trong đó
có giá trị hữu hình và giá trị vô hình. Khi lần đầu quan hệ tín dụng, rất khó cho ngân
hàng có thể xác định chính xác giá trị vô hình của doanh nghiệp, và nó cũng khó
cho ngân hàng có thể nắm chắc được phần vốn cho vay ra. Điều này làm cho tài sản
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 14
Chuyên đề thực tập
hữu hình được hầu hết các ngân hàng lựa chọn. Do đó, theo những phân tích trên,
tài sản đảm bảo hữu hình là phương thức tốt nhất để bảo đảm tiền vay hiện nay.
Chính vì bảo đảm tiền vay bằng tài sản hữu hình giúp nâng cao tính khả thi và
mức độ an toàn của khoản vay, cũng có nghĩa là nó giúp gia tăng lợi nhuận cho
ngân hàng và giảm rủi ro, do đó tỷ lệ tài sản đảm bảo là một chỉ số giúp các nhà
quản trị ngân hàng đánh giá về chất lượng các khoản tín dụng. Tỷ lệ này được xác
định:
Tỷ lệ tài sản đảm bảo = Dư nợ có tài sản đảm bảo/Tổng dư nợ
Khi tỷ lệ này tăng, cho thấy trách nhiệm của khoản vay được chia sẻ bớt từ
ngân hàng sang người đi vay trong việc xem xét các phương án khả thi. Như vậy,
nó đã gián tiếp làm giảm tỷ lệ các dự án không khả thi được thông qua, từ đó làm
tăng chất lượng tín dụng.
1.2.2.3. Tỷ lệ sinh lời.
Như đã phân tích trong định nghĩa về chất lượng tín dụng, hoạt động tín dụng
chỉ thực sự được coi là chất lượng khi nó đảm bảo được mức độ sinh lời như dự
kiến của nhà quản trị. Chính vì vậy, khi xem xét tới chất lượng tín dụng, tỷ lệ sinh
lời là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá:
Tỷ lệ sinh lời hoạt động tín dụng=
Tỷ lệ sinh lời cao sẽ đảm bảo cho việc bù đắp các chi phí liên quan như chi phí
nguồn huy động, chi phí trả cho cán bộ nhân viên, thuế…cũng như tạo ra thu nhập

cho ngân hàng.
1.2.2.4. Quy mô tín dụng và tỷ lệ tăng trưởng tín dụng.
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô và sự tăng trưởng hoạt động tín dụng của chi
nhánh. Dư nợ cho vay cao và tăng trưởng qua các thời kỳ sẽ cho thấy khách hàng
tin tưởng sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Dư nợ cho vay sẽ được xác định như sau:
Dư nợ cho vay cuối kỳ = Dư nợ cho vay đầu kì + Doanh số cho vay - Doanh số thu
nợ
Doanh số cho vay thể hiện xu hướng hoạt động cho vay của ngân hàng được
mở rộng hay thu hẹp trong thời kỳ đó. Tuy nhiên, doanh số cho vay tăng không phải
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 15
Chuyên đề thực tập
lúc nào cũng thể hiện tín dụng tăng trưởng tốt và ngược lại, doanh số cho vay giảm
không có nghĩa là hoạt động tín dụng của ngân hàng gặp khó khăn. Điều này còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tiềm lực về vốn cho vay của ngân hàng, tình trạng
nền kinh tế trong giai đoạn đó, khả năng bảo đảm thanh khoản của ngân hàng.
Doanh số thu nợ phản ánh lượng vốn mà ngân hàng thu hồi được trong một
thời kỳ nhất định. Doanh số thu nợ được coi là tốt khi nó không sai lệch nhiều so
với lượng vốn mà ngân hàng dự tính thu hồi về trong từng khoảng thời gian. Nếu
các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với ngân hàng làm ăn tốt, tình hình kinh
doanh ổn định, doanh số thu nợ của ngân hàng sẽ đạt mức như kế hoạch. Ngược lại,
doanh số này sẽ giảm xuống khi nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, nền kinh tế bị
suy giảm làm cho các kế hoạch trả nợ của doanh nghiệp và kế hoạch thu nợ của
ngân hàng bị ảnh hưởng. Do vậy, có thể coi doanh số thu nợ là một chỉ tiêu phản
ánh chất lượng tín dụng, chất lượng công tác thẩm định, dự báo của cán bộ tín dụng.
Tăng trưởng dư nợ cho vay phải phù hợp với khả năng về vốn, khả năng kiểm
soát rủi ro cũng như nguồn lực về con người, công nghệ của ngân hàng. Việc tăng
trưởng tín dụng bất hợp lý vượt quá tiềm năng của ngân hàng sẽ đều dẫn tới các hậu
quả không mong muốn như ngân hàng có khả năng mất vốn vì tỷ lệ nợ xấu và nợ
quá hạn tăng cao, ngân hàng gặp khó khăn về vấn đề thanh khoản…
1.2.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.

Đối với các NHTM, cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể, vừa trừu
tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng. Chỉ khi chất lượng tín
dụng tốt thì Ngân hàng mới có nhiều khách hàng, uy tín Ngân hàng được nâng cao
tạo điều kiện thúc đẩy cho Ngân hàng phát triển. Do vậy, đối với các Ngân hàng
thương mại, tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng nói riêng, và sự phát triển của Xã Hội nói chung . Nhờ có
hoạt động tín dụng Ngân hàng mà một Ngân hàng có thể mở rộng mạng lưới hoạt
động kinh doanh, tăng quy mô nguồn vốn huy động và khả năng cho vay của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng, mỗi Ngân hàng cần phải
tìm biện pháp nâng cao chất lượng đối với các khoản cho vay và cho thuê của mình.
Thực tế chất lượng hoạt động tín dụng là một khái niệm tương đối và không có một
chỉ tiêu tổng hợp nào để phản ánh nó một cách chính xác. Nói tóm lại, thông thường
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 16
Chuyên đề thực tập
để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của một Ngân hàng thương mại, người
ta dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau, nhưng về cơ bản chất lư tín dụng của
một Ngân hàng thương mại được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất: Chỉ tiêu tổng dư nợ.
Thứ hai: Chỉ tiêu về nợ quá hạn.
Thứ ba: Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng.
Thứ tư: Đóng góp của hoạt động tín dụng đến sự phát triển kinh tế xã hội
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
1.3.1. Nhân tố chủ quan.
1.3.1.1. Chất lượng cán bộ tín dụng.
Cán bộ tín dụng là những người thay mặt ngân hàng đứng ra tiếp xúc, hướng
dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, thẩm định dự án, ra quyết định cho vay, kiểm tra
giám sát sau vay. Vai trò của cán bộ tín dụng là xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động
tín dụng. Cán bộ tín dụng phải tiếp cận với nhiều dự án thuộc các ngành nghề khác
nhau, thuộc nhiều vùng khác nhau. Để cho vay hiệu quả, nhất thiết cán bộ tín dụng
phải có sự am hiểu nhất định về ngành nghề kinh doanh đó, các điều kiện tự nhiên,

xã hội tại địa bàn doanh nghiệp hoạt động, có hiểu biết và khả năng dự báo được thị
trường đầu ra của sản phẩm cũng như các vấn đề khác liên quan tới tình trạng kinh
tế của người vay. Đối với tín dụng trung và dài hạn, đặc điểm của nó là có rủi ro cao
hơn các loại hình tín dụng khác do dự án triển khai trong thời gian dài, dự án không
thu hồi được vốn nhanh do thường đầu tư vào các dây chuyền máy móc thiết bị đắt
tiền, thời gian triển khai dự án dài, do đó yêu cầu về khả năng dự báo thị trường, dự
báo các thay đổi của nền kinh tế vĩ mô càng trở nên quan trọng. Như vậy, cán bộ tín
dụng phải có trình độ chuyên môn nhất định, phải được đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và
toàn diện. Khi nhân viên tín dụng tiến hành cho vay mà trình độ hiểu biết của họ còn
hạn chế thì đó thực sự là rủi ro lớn cho ngân hàng. Thêm vào đó, các cán bộ tín dụng
có thể móc ngoặc với người vay tiền nhằm chiếm dụng vốn của ngân hàng, hay làm sai
các quy định về quy trình, an toàn bảo đảm tiền vay nhằm mục đích tư lợi.
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 17
Chuyên đề thực tập
Vì vậy, chất lượng của cán bộ tín dụng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới
chất lượng tín dụng nói chung cũng như tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Trong
điều kiện cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng như hiện nay, yêu cầu đặt ra đối
với cán bộ tín dụng không chỉ giỏi chuyên môn, có đạo đức kinh doanh mà còn phải
có tác phong làm việc chuyên nghiệp, nhiệt tình, giúp thu hút thị phần về phía ngân
hàng.
1.3.1.2. Chính sách tín dụng của ngân hàng.
Chính sách tín dụng có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng tín dụng trung
và dài hạn. Nó bao gồm việc lựa chọn mô hình hoạt động, chính sách bảo đảm tiền
vay, lựa chọn chính sách lãi suất…
Việc áp dụng mô hình hoạt động một cửa tạo thuận lợi cho cán bộ tín dụng
nắm bắt rõ về tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, lịch sử quan hệ tín
dụng cũng như tình trạng các khoản nợ đang được cấp. Tuy nhiên, nó cũng là sơ hở
để cán bộ tín dụng có thể lợi dụng khi mà họ có quá nhiều thẩm quyền trong việc
cho vay, dẫn tới chất lượng tín dụng bị suy giảm. Để tránh tình trạng đó, hầu hết các
ngân hàng hiện nay đã chuyển sang mô hình mới, tách biệt giữa bộ phận quan hệ

khách hàng với bộ phận thẩm định dự án, qua đó tạo sự minh bạch hơn trong quá
trình xét duyệt cấp phát tín dụng. Tuy nhiên, quy trình này cũng có nhược điểm là
thường phải qua nhiều công đoạn, phức tạp hơn hơn do vậy có thể xảy ra sai sót,
hiểu lầm, thủ tục cũng phức tạp hơn cho khách hàng.
Chính sách bảo đảm tiền vay cũng đóng vai trò quan trọng tới chất lượng tín
dụng. Như đã phân tích ở phần trên, bảo đảm tiền vay giúp ngân hàng chống đỡ rủi ro
khi có sự kiện bất lợi xảy ra. Vì một lý do nào đó, ngân hàng có thể có chính sách bảo
đảm tiền vay không chắc chắn, như quy định tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản quá cao
dẫn tới thiệt hại khi phát mại tài sản, hay định giá tài sản đặc biệt là các tài sản ít phổ
biến không chính xác…Tất cả những yếu tố đó đều làm tăng các khoản không hồi
được cho ngân hàng khi rủi ro xảy ra, tức là làm giảm chất lượng tín dụng.
Chính vì vậy, ban giám đốc các ngân hàng phải xây dựng cho mình một
chính sách tín dụng hợp lý, chặt chẽ và quán triệt tới từng cán bộ tín dụng, làm định
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 18
Chuyên đề thực tập
hướng cho họ trong quá trình tác nghiệp, qua đó nâng cao chất lượng tín dụng nói
chung, tín dụng trung và dài hạn nói riêng.
1.3.2. Nhân tố khách quan.
1.3.2.1. Môi trường kinh doanh.
Nhiều trường hợp, mặc dù ngân hàng tuân thủ chặt chẽ những quy định về cấp
tín dụng và người vay cũng có năng lực nhất định song rủi ro vẫn xảy ra với các
khoản tín dụng. Đó là do các nhân tố khách quan đến từ môi trường kinh doanh, bao
gồm: môi trường pháp lý, môi trường chính trị xã hội, môi trường kinh tế.
Về môi trường pháp lý, pháp luật đóng vai trò tạo ra môi trường kinh doanh
cho các doanh nghiệp. Nếu hệ thống pháp luật tốt, môi trường kinh doanh của các
chủ thể kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng sẽ trở nên lành mạnh, ổn định, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh. Luật pháp
cũng đóng vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế bằng việc đưa ra các
ưu đãi cho một nhóm ngành nghề nhất định do nhà nước lựa chọn. Ngoài ra, luật
pháp còn là cơ sở để điều tiết các mối quan hệ phức tạp trong nền kinh tế, là cơ sở

để họ giải quyết các tranh chấp phát sinh. Chính vì vậy, môi trường pháp lý ổn định,
minh bạch tạo đà cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, có chiến lược
pháp triển mang tính dài hạn, tránh tình trạng kinh doanh chộp giật, dựa vào kẽ hở
của pháp luật. Điều này làm tăng “sức khỏe” cho nền kinh tế nói chung, cho các
doanh nghiệp nói riêng, và như vậy, nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
Về môi trường chính trị xã hội, đây là yếu tố quan trọng giúp thúc đẩy hoạt
động đầu tư, làm động lực cho nền kinh tế. Môi trường chính trị- xã hội trong sạch,
ít tham nhũng và ổn định là điều kiện để các nhà đầu tư xem xét mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nhà đầu tư sẽ tránh được các rủi ro như thay đổi chính phủ,
bạo động xã hội…làm tổn hại tới tài sản cũng như các cơ hội kinh doanh của họ.
Khi đó, đồng vốn ngân hàng cho vay ra phục vụ các dự án đầu tư cũng trở nên an
toàn hơn, có hiệu quả sinh lời cao hơn đặc biệt trong dài hạn, và như vậy, đã nâng
cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng.
Về môi trường kinh tế, đây là nền tảng hoạt động của mọi thành phần kinh tế.
Nó quyết định tới thị trường đầu ra của sản phẩm, nguồn nguyên liệu đầu vào, chi
phí nhân công của doanh nghiệp, và do đó, ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 19
Chuyên đề thực tập
sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế bất ổn, như tăng trưởng kinh tế thấp, lạm phát
tăng cao, tỷ giá hối đoái biến động thì các doanh nghiệp, sẽ gặp khó khăn lớn trong
việc tiêu thụ sản phẩm, tính toán hoạt động dài hạn, nhất là các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, hoặc các hộ cá thể kinh doanh, những tác động này càng trở nên nghiêm
trọng hơn do họ thường ít có dự báo dài hạn cũng như dòng tiền thường xuyên để
bù đắp.
Tất cả những nhân tố trên sẽ quyết định tới rủi ro hệ thống, một yếu tố mà tự
thân các doanh nghiệp và ngân hàng không thể tránh được, nhưng nó lại là một bộ
phận của rủi ro của doanh nghiệp, được xác định bởi quan hệ:
Rủi ro hoạt động=Rủi ro hệ thống+Phần bù rủi ro
Do vậy rủi ro hệ thống tác động tới hoạt động của các dự án, cũng có nghĩa là
an toàn của các khoản hay bị ảnh hưởng, hay chất lượng tín dụng nói chung và tín

dụng trung và dài hạn nói riêng.
1.3.2.2. Nguyên nhân thuộc về phía người vay.
Ngoài những lý do nêu ở trên, người vay cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín
dụng trung và dài hạn. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với các dự án đầu tư
rủi ro với kì vọng thu được lợi nhuận cao như lướt sóng chứng khoán, đầu tư một
sản phẩm mới trên thị trường…Khi đó, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để chủ định
lừa đảo ngân hàng như có thể đưa ra một “dự án ma”, cung cấp thông tin sai lệch
hoặc thậm chí mua chuộc cán bộ ngân hàng. Người đi vay cũng có thể chây ì không
thực hiện thanh toán theo hạn định đã thỏa thuận nhằm mục đích chiếm dụng vốn
dù kinh doanh có lãi làm cho tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên. Bên cạnh đó, trình độ quản
lý của người đi vay cũng quyết định tới sự thành bại của dự án. Nếu người quản lý
không nhanh nhạy phản ứng khi xu hướng thị trường thay đổi, không khắc phục
được khó khăn trong kinh doanh hoặc không dự tính được những thay đổi xảy ra,
đều dẫn tới kết quả kinh doanh yếu kém. Điều này làm giảm khả năng chi trả các
khoản nợ làm cho chất lượng tín dụng giảm.
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 20
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG
VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
CHI NHÁNH HẢI DƯƠNG.
2.1. Khái quát về ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Hải Dương.
Ngân hàng đầu tư và phát triển chi nhánh Hải Dương là chi nhánh cấp I có quy
mô vốn hạng I trong hệ thống các chi nhánh của Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam. Chi nhánh luôn thể hiện vai trò là một trong những ngân hàng dẫn đầu
trên địa bàn tỉnh Hải Dương về chất lượng và quy mô hoạt động. Chi nhánh hiện
đang thiết lập quan hệ tín dụng với 793 khách hàng, trong đó có nhiều doanh nghiệp
lớn trong tỉnh Hải Dương như Công ty Xi Măng Hoàng Thạch, Gốm sứ Hải Dương,
…cũng như với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân trong địa bàn tỉnh Hải
Dương.
Thị phần tín dụng, huy động vốn của chi nhánh luôn đạt mức cao gần 21,5%,

dẫn đầu trong các chi nhánh các ngân hàng hiện đang hoạt động trên địa bàn tỉnh
Hải Dương kiện phải cạnh tranh với nhiều ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt
động lâu năm trên địa bàn cũng như các ngân hàng thương mại cổ phần mới được
thành lập, nhất là khi các ngân hàng thương mại cổ phần sử dụng công cụ lãi suất
nhằm thu hút thị phần.
Đánh giá về hoạt động trên các mặt của chi nhánh:
•Về công tác tín dụng, chi nhánh đảm bảo tăng trưởng trong giới hạn được
giao, an toàn và hiệu quả. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, nguồn vốn khan hiếm,
cơ chế điều hành tín dụng có nhiều thay đổi nên công tác tín dụng của các TCTD
nói chung và của chi nhánh nói riêng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Cùng với toàn
hệ thống BIDV, chi nhánh Hải Dương vừa phải đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng,
thực hiện mục tiêu kích cầu của chính phủ, vừa phải kiểm soát tăng trưởng tín dụng
để đề phòng lạm phát trở lại, vừa phải tìm kiếm mở rộng khách hàng có tình hình tài
chính mạnh, có dự án hiệu quả để xét duyệt cho vay đảm bảo hiệu quả kinh doanh
của chi nhánh và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội trên địa bàn. Thực
hiện tốt việc hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp, hỗ trợ đúng đối tượng, đúng cơ chế
chính sách, hồ sơ thủ tục. Thực hiện tốt công tác kiểm tra trước trong và sau khi cho
vay đảm bảo vốn vay sử dụng đúng mục đích, đồng thời triển khai tốt các nhóm giải
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 21
Chuyên đề thực tập
pháp hỗ trợ kịp thời các doanh nghiệp khó khăn để phát triển ổn định và bền vững.
Thị phần tín dụng của chi nhánh vẫn giữ thị phần cao trên địa bàn:
Bảng 1: Thị phần tín dụng qua các năm 2008- 2009
( Nguồn: Phòng Nguồn vốn BIDV Hải Dương).
đ/v: tỷ đồng
Danh mục 2008 2009
Tổng dư nợ BIDV HD 2.083 2.478
Tổng dư nợ địa bàn 11.955 15.277
Thị phần tín dụng của chi nhánh trên địa bàn 17.42% 16.22%
•Về công tác nguồn vốn, năm 2009 đã xác định huy động vốn là nhiệm vụ

trọng tâm, ưu tiên hàng đầu, vì thế ngay từ đầu năm ban lãnh đạo đã chỉ đạo triển
khai công tác huy động vốn một cách mạnh mẽ và quyết liệt bằng nhiều giải pháp
linh họat trong huy động vốn, vận dụng sáng tạo chính sách kết hợp giữa phát triển
tín dụng, dịch vụ, tiện ích ngân hàng với việc cung cấp các sản phẩm trọn gói mang
tính cạnh tranh cao cả về chất lượng, loại hình sản phẩm với một đội ngũ cán bộ có
phong cách phục vụ tốt để kích thích nâng cao nguồn tiền gửi của khách hàng, tạo
lập một nguồn vốn ổn định, vững chắc phù hợp với quy mô và cơ cầu dư nợ. Mặc
dù hàng năm trên địa bàn liên tục có sự gia tăng sự có mặt của các chi nhánh, phòng
giao dịch của các NHTMCP nhưng với sự cố gắng nỗ lực đó năm 2009 tốc độ tăng
trưởng huy động vốn chi nhánh (21.01%) cao gấp 2.19 lần tốc độ tăng trưởng huy
động toàn ngành (9.6%), đạt mức tăng trưởng bình quân trên địa bàn (21.4%), thị
phần huy động của chi nhánh vẫn giữ vững tương đối vững, nguồn vốn của chi
nhánh luôn đóng vai trò chủ đạo, giữ vị trí quan trọng trong khối các NHTM trên
địa bàn và là ngân hàng đi đầu trong việc định hướng lãi suất thị trường, cung ứng
nguồn vốn, ổn định sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn.
Bảng 2: Thị phần huy động vốn qua các năm 2008- 2009
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn BIDV Hải Dương).
đ/v: tỷ đồng
Danh mục 2008 2009
Tổng nguồn vốn huy động BIDV HD 1.411 1.707
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn 6.316 8.007
Thị phần vốn của chi nhánh trên địa bàn 22.34% 21.31%
•Về công tác dịch vụ, năm 2009 công tác dịch vụ được xác định là nhiệm vụ
trọng tâm của hệ thống ngân hàng ĐT&PT Việt Nam nhằm chuyển dịch cơ cầu
nguồn thu, mở rộng thị phần, nâng cao năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập
vì vậy BIDV đã đưa ra nhiều cơ chế, chính sách hết sức ưu đãi đối với khách hàng.
Bằng những giải pháp mềm dẻo, linh hoạt và chủ động trong điều hành của ban
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 22
Chuyên đề thực tập
lãnh đạo chi nhánh, hầu hết tất cả các dòng sản phẩm dịch vụ đều có mức tăng

trưởng tốt, thu dịch vụ năm 2009 là 19.1 tỷ, đạt 119.38% kế hoạch TW giao. Nếu
loại trừ phần đột biến của thu từ dịch vụ kinh doanh ngoại tệ, thu dịch vụ ròng tăng
trưởng 52.13% so với năm 2008, cao hơn mức tăng trưởng toàn ngành 15.84%. Đặc
biệt những tháng cuối năm thu từ dịch vụ có bước tăng trưởng đột phá, hết tháng
11/2009, chi nhánh đã hoàn thành kế hoạch thu dịch vụ ròng cả năm 2009.
•Về công tác chăm sóc và phát triển khách hàng. Trong bất kỳ doanh nghiệp
kinh doanh nào, khách hàng luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu , là nền móng để tạo
sự thành công trong hoạt động kinh doanh. Đặc biệt ngày nay khi sự cạnh tranh rên
thị trường ngày càng khốc liệt, khacha hàng càng có nhiều cơ hội lựa chọn những
sản phẩm dịch vụ tốt nhất cho mình thì việc chăm sóc và phát triển khách hàng
ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Với chi nhánh Hải Dương, để có nền
khách hàng như hiện nay, chi nhánh luôn thực hiện tốt công tác chăm sóc khách
hàng với phương châm: “Chia sẻ cơ hội, hợp tác thành công”, mọi hoạt động của
chi nhánh đều hướng tới khách hàng với vị trí các phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm
thuận tiện, công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ được đào tạo bài bản,
tận tâm phục vụ khách hàng, nên số lượng khách hàng của chi nhánh BIDV Hải
Dương ngày càng đông. Tính đến ngày 31/12/2009 tổng số khách hàng của chi
nhánh là 38479 khách hàng, tăng 19.05% so với năm 2008, trong đó khách hàng cá
nhân là 37151 tăng 18.86%, khách hàng doanh nghiệp là 1328 tăng 24.46%
2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng đầu tư
và phát triển chi nhánh Hải Dương.
2.2.1. Thực trạng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển
chi nhánh Hải Dương.
2.2.1.1 . Quy trình tín dụng áp dụng tại chi nhánh.
Trước đây, khi còn áp dụng mô hình cũ, cán bộ tín dụng tại chi nhánh sẽ đảm
nhiệm vai trò hướng dẫn, đánh giá trong tất cả các khâu từ tiếp nhận hồ sơ tới ra
quyết định thẩm định, giải ngân, giám sát sau vay và thu nợ. Tuy nhiên, mô hình
này bộc lộ điểm yếu là phụ thuộc vào nhận định mang tính cá nhân của cán bộ tín
dụng. Trong nhiều quan hệ tín dụng, đặc biệt là quan hệ tín dụng lần đầu thì quan hệ
cá nhân của cán bộ là yếu tố quan trọng. Từ ngày 1/10/2008, ngân hàng đầu tư và

phát triển Việt Nam đã bắt đầu áp dụng chương trình chuyển đổi mô hình hoạt động
TA2 trên toàn hệ thống. Sau một thời gian triển khai, hiện nay chi nhánh đã hoàn
thành cơ bản những yêu cầu đặt ra của dự án, trong đó, hoạt động tín dụng được
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 23
Chuyên đề thực tập
chia thành bộ phận quan hệ khách hàng và bộ phận thẩm định. Các khâu cơ bản của
quy trình mới là:
• Bước 1-Tiếp thị khách hàng và lập đề xuất tín dụng: cán bộ quan hệ khách
hàng sẽ tiếp thị và tiếp nhận các nhu cầu về tín dụng của khách hàng. Nếu các yêu
cầu đó phù hợp với các chính sách và quy định của BIDV thì cán bộ quan hệ khách
hàng sẽ tiến hành thu thập thông tin, thẩm định khách hàng và dự án. Từ đó lập báo
cáo đề xuất tín dụng trình lãnh đạo phòng quan hệ khách hàng hoặc phòng giao
dịch. Bộ hồ sơ cơ bản bao gồm hồ sơ pháp lý của khách hàng, hồ sơ về dự án và hồ
sơ về bảo đảm tiền vay.
• Bước 2-Thẩm định rủi ro: Sau khi bộ hồ sơ được chuẩn bị hoàn tất sẽ được
chuyển sang phòng thẩm định để cán bộ quản lý rủi ro thẩm định rủi ro của dự án.
Cán bộ quản lý rủi ro sau khi thẩm định sẽ lập báo cáo thẩm định rủi ro của dự án
đó. Theo quy định của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam việc đánh giá được
xem xét trên 2 yếu tố:
o Tư cách pháp lý của khách hàng: cán bộ tín dụng sẽ xem xét các yêu tố
chính, bao gồm:
 Năng lực pháp lý của khách hàng.
 Ngành nghề sản xuất kinh doanh của khách hàng.
 Mô hình tổ chức doanh nghiệp, cách bố trí lao động.
 Công tác quản trị điều hành, năng lực ban lãnh đạo doanh nghiệp.
 Quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng.
 Tình hình sản xuất kinh doanh và năng lực tài chính của khách hàng.
o Đánh giá về dự án đầu tư: các nội dung chính phải làm bao gồm:
 Phân tích thị trường và khả năng tiêu thụ của sản phẩm, dịch vụ đầu ra của
dự án, mục tiêu xem xét tới thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh của sản

phẩm, nhu cầu hiện có về sản phẩm đầu ra cũng như các đối thủ cạnh tranh.
 Khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào
 Đánh giá nội dung kĩ thuật của dự án: công nghệ, quy mô, thiết bị
 Các biện pháp bảo đảm tiền vay, hoặc tư cách bên bảo lãnh.
 Tính tổng nguồn và các phương án khả thi sử dụng nguồn vốn.
 Đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
 Đánh giá rủi ro đi kèm.
• Bước 3-Phê duyệt cấp tín dụng: Trong bước này, cấp có thẩm quyền sẽ tiến
hành phê duyệt đề xuất tín dụng và phê duyệt rủi ro. Khi dự án có được đồng ý phê
duyệt, thì nó được phê duyệt cấp tín dụng của chi nhánh.
• Bước 4-Các thủ tục sau phê duyệt: Sau khi dự án được phê duyệt cấp tín
dụng, chi nhánh sẽ thông báo cho khách hàng để thỏa thuận các điều kiện phê duyệt
tín dụng hoặc các điều khoản bổ sung, từ đó 2 bên sẽ tiến tới lập hợp đồng tín dụng
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 24
Chuyên đề thực tập
sao cho phù hợp với quyết định phê duyệt và mong muốn của khách hàng. Khách
hàng trong thời gian này cũng thực hiện các thủ tục liên quan tới đảm bảo tiền vay.
• Bước 5-Giải ngân: Bộ phận quan hệ khách hàng sẽ nhận đề xuất giải ngân
của khách hàng, kiểm tra mục đích và điều kiện giải ngân, từ đó lập đề xuất giải
ngân và chuyển cho bộ phận quản trị tín dụng. Bộ phận quản trị tín dụng sẽ tiến
hành kiểm tra các chứng từ làm căn cứ giải ngân, nếu đạt sẽ lập tờ trình giải ngân
chuyển cho bộ phận dịch vụ khách hàng thực hiện việc giải ngân cho khách hàng.
• Bước 6-Giám sát và kiểm soát sau vay: Trong bước này, các bộ phận quan
hệ khách hàng, quản trị rủi ro và quản trị tín dụng cùng thực hiện việc kiểm tra và
đánh giá các khoản vay, theo dõi, ra soát và phát hiện rủi ro, tiến hành các biện
pháp cần thiết khi xuất hiện rủi ro của khoản vay.
• Bước 7-Điều chỉnh tín dụng: Nếu trong quá trình vay, khách hàng có nhu
cầu vay thêm vốn, thì cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách hàng làm lại theo trình tự
như bước 1 và bước 2.
• Bước 8-Thu nợ, lãi và phí: Cán bộ quan hệ khách hàng tiến hành thông báo

và đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn. Bộ phận quản trị tín dụng tiến hành theo
dõi và đôn đốc việc thực hiện bút toán thu nợ.
• Bước 9-Xử lý thu hồi nợ quá hạn: Nếu khoản nợ của khách hàng không
được trả đúng thời hạn thì cán bộ quan hệ khách hàng thực hiện các nghiệp vụ
chuyển nợ quá hạn. Cán bộ quan hệ khách hàng một mặt vừa đôn đốc khách hàng
trả nợ, mặt khác kết hợp với bộ phận quản lý rủi ro phải tiến hành rà soát, phân tích
nguyên nhân và đề ra các biện pháp xử lý trình lãnh đạo phòng quan hệ khách hàng
phê duyệt phương án thực hiện các biện pháp thu hồi xử lý nợ quá hạn. Các bộ phận
quản lý rủi ro và quản trị tín dụng liên tục theo dõi để đốc thúc việc thực hiện thu
nợ và giám sát nợ. Nếu khách hàng vẫn không thể trả được nợ, khoản nợ sẽ được
chuyển sang tài sản ngoại bảng.
• Bước 10-Thanh lý hợp đồng: Các bộ phận quản trị tín dụng và quan hệ
khách hàng tiến hành ra soát lại nợ gốc, lãi và phí đã thu của khách hàng. Tiến hành
giao lại tài sản đảm bảo và xóa giao dịch bảo đảm, thực hiện thanh lý hợp đồng.
Để làm rõ hơn các bước trong quy trình, ta sẽ xem xét ví dụ cụ thể các bước
tiến hành của bộ phận tín dụng khi xét duyệt một khoản vay trung hạn sau:
Vào ngày 14/04/2007, BIDV Hải Dương nhận được Giấy đề nghị vay vốn có
nội dung chính như sau:
• Tên khách hàng vay vốn: Công ty cổ phần thương mại và phát triển xây
dựng Ngọc Sơn.
Phan Tất Dũng _ Ngân hàng K21 Page 25

×