I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại đoàn kết dân tộc là một nội dung xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận
và cả trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Nó đã trở thành chiến
lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay. Thực hiện tư
tưởng chiến lược đại đoàn kết đó, Đảng ta đã tậphợp phát huy sức mạnh dân tộc và
quốc tế, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết, thành công
thành công đại thành công” vấn đề đoàn kết là một trong những vấn đề quan trọng
trong không chỉ các cuộc kháng chiến giành độc lập mà còn quan trọng cả trong thời
kì phát triển đất nước hiện tại. Và nó cũng là một trong những vấn đề nằm trong hệ tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Vậy những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc như thế
nào, chúng ta hãy cùng tìm hiểu để hiểu rõ hơn những quan điểm cơ bản đó qua việc
“phân tích những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở hình thành quan điểm cơ bản Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc
Thứ nhất, đó là tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết,
dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng ngàn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước của cả dân tộc tạo thành truyền thống vững bền, thấm sâu vào
tư tưởng, tình cảm, tư tưởng của con người Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, lí luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc là những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác –Lê-nin: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, dân tộc, liên
1
minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng đoàn kết dân
tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế.
Thứ ba, tư tưởng về sức mạnh của nhân dân của khối đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách
mạng Việt nam và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới nhất là phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại cảu các
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Người nghiên cứu để rút ra bài
học cần thiết cho việc hình thành tư tưởng về sức mạnh của nhân dân của khối đại
đoàn kết dân tộc.
2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc
Trong những cống hiến vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt
Nam, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của
Người là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lí luận và giá trị thực tiễn hết sức quan
trọng, tư tưởng đó được thể hiện qua những quan điểm cơ bản sau đây:
2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một trong những vấn đề có ý
nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam. Đây là một tư tưởng cơ bản, nhất quán
và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của
cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc và giai cấp qua chiến lược
tập hợp mọi lực lượng nhân dân.
Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thủ đoạn chính trị
nhất thời mà luôn là vấn đề chiến lược lâu dài, có ý nghĩa sống còn của sự nghiệp
cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc, xây dựng lực lượng nhằm hình thành sức mạnh to
lớn trong đấu tranh cách mạng. Người đã nhiều lần nêu ra các quan điểm: Đoàn kết là
sức mạnh; đoàn kết là sức mạnh; đoàn kết là thắng lợi; là then chốt của thành công, là
2
nguồn gốc của thắng lợi. Chiến lước đó còn được tổng kết thành những luận điểm có
tính chân lí như:
“Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta” (11/1954)
“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi” (01/1963)
“Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” (10/1963)
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Tuy nhiên, trong từng thời kì, từng giai đoạn phải điều chỉnh chính sách và
phương pháp tập hợp với những đối tượng khác nhau trong cộng đồng các dân tộc. Có
như vậy, chiến lược đại đoàn kết mới phát huy hết vai trò tích cực của mình.
2.2. Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của Đảng mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc.
Đối với Đảng, đại đoàn kết không đơn thuần là vấn đề tập hợp, tổ chức lực lượng
mà cao hơn, nó là bộ phận hữu cơ, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược.
Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí
Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao
động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “Đoàn kết toàn dân phụng sự Tổ quốc”.
Khi nói chuyện với cán bộ tuyên huấn miền núi (8/1963) Người chỉ rõ: Trước Cách
mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng
bào các dân tộc thiểu số hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng
hay kháng chiên để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên huấn
luyện là: “Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống
nhất nước nhà”. Chỉ có như vậy, mục tiêu , nhiệm vụ của Đảng mới trở thành mục
3
tiêu, nhiệm vụ của cả dân tộc và đại đoàn kết dân tộc mới trở thành một đòi hỏi khách
quan của bản thân quần chúng trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, là sự nghiệp của
quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng.
Đối với dân tộc, đại đoàn kết là sự phản ánh đòi hỏi khách quan của bản thân
phong trào cách mạng do quần chúng tiến hành, vì sự nghiệp giải phóng quần chúng.
Đảng có sức mạnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan,
tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực, có tổ chức, tạo
thành sức mạnh của cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh
phúc cho con người.
2.3. Đại đoàn kết dân tộc để thực hiện khối đoàn kết toàn dân.
Dân và nhân dân là khái niệm có nội hàm rộng, chỉ toàn bộ con dân nước Việt,
“con Lạc, cháu Hồng”, “con Rồng, cháu Tiên”. Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân là
đoàn kết tất cả với nhân dân, không phải phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý,
tiện, tín ngưỡng… Như vậy, đoàn kết với mỗi người dân cụ thể, với toàn thể đông đảo
quần chúng và cả hai đối tượng nêu trên đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, với ý nghĩa
là cần phải huy động và tập hợp được mọi người dân Việt Nam, đang sống ở trong
nước hay đang định cư ở nước ngoài vào khối đại đoàn kết nhằm thực hiện thành công
sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Muốn làm được điều đó phải kế thừa truyền
thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của toàn dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung,
độ lượng với con người và cần xóa bỏ mọi định kiến, cách biệt. “Bất kì ai mà thật thà
tán thành hòa bình , thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây
chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng vẫn thật thà đoàn kết với họ”. Đại đoàn kết dân
tộc mở rộng cửa để đón tiếp những người lầm đường, lạc lối mà biết hổi cải.Theo
Người, “ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải
4
đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc
và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn một cách rộng rãi như trên là
vì Người có lòng tin ở dân, tin rằng trong mỗi người “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng
yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi mờ che mắt, chỉ cần
làm thức tỉnh lương tri thì lòng yêu nước lại bộc lộ dân tộc, toàn dân thì là một khối
rất rộng lớn gồm hàng chục triệu con người, vì vậy cần phải xác đĩnh rõ đâu là nền
tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên nền tảng đó. Về
điều này người ta đã chỉ rõ: “đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân công nhân, nông dân và các tần lớp nhân dân lao động
khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây.
Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết phải đoàn kết các tầng lớp nhân
dân khác”. Người chỉ rõ: “lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công
nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trân Dân tộc Thống nhất” về
sau Người có nêu thêm rằng lấy liên minh công nông – lao động trí óc làm nền tảng
cho khối đại đoàn kết toàn dân.
2.4. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là
Mặt trận dân tộc Thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở tư tưởng; ở những lời kêu gọi mà phải
trở thành một chiến lược cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh
vật chất, thành lực lượng vật chất tổ chức. Tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt
trận dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô
địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối
vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không, hàng triệu
người chỉ là số đông không có sức mạnh.
5
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức cá nhân và cá nhân yêu
nước, mọi người dân Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài. Tùy theo từng thời kì,
Mặt trận có thể có những tên gọi khác nhau nhưng thực chất là một tổ chức chính trị
rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, đảng phái các tổ
chức và cá nhân yêu nước đấu tranh vì mục tiêu độc lập, thống nhất, ấm no, hạnh
phúc của nhân dân.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ của từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc: Mặt trận
được xây dựng trên nền tảng liên minh công – nông – lao động trí óc, từ đó mở rộng
Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc thành một khối vững chắc.
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi
ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và
mở rộng. Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập và thống nhất của Tổ quốc, là ấm no,
hạnh phúc của nhân dân. Phải làm cho mọi người đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên
trên hết, trước hết. Bởi vì, lợi ích tối cao của dân tộc có được đảm bảo thì lợi ích của
mỗi người mới được thực hiện. Mỗi người lại có lợi ích riêng khác nhau. Mặt trận
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ, cùng nhau bàn bạc để đi đến
thống nhất, chống mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng.
Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Tại Đại hội thống nhất Việt Minh và Liên Việt tháng 3/1951, Người nêu rõ: trong đại
hội này, chúng ta có đại biểu đủ các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc, già có, trẻ có,
nam có, nữ có thật là một gia đình tương thân tương ái. Chắc rằng sau cuộc đại hội,
mối đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân. Trong bài nói chuyện tại
lớp bồi dưỡng cán bộ Mặt trận tháng 8/1962, Người nói: chúng ta phải đoàn kết chặt
6
chẽ các tầng lớp nhân dân, phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ
trong Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến
bộ. Phải đoàn các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc. Phải đoàn kết chặt
chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa
thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc bên cạnh những điểm tương
đồng vẫn có những điểm khác biệt. Do đó, một mặt là thực hiện phương châm cầu
đồng tồn dị, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Mặt khác đoàn kết phải
gắn với đấu tranh, khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều. Người chỉ rõ: Đoàn kết
thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực
sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những
cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân.
Trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo.
Quyền lãnh đạo Mặt trận của Đảng không phải do Đảng tự phong cho mà mình phải
được nhân dân thừa nhận: Đảng không hề đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo
của mình, mà phải tỏ ra là bộ phận trung thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác
hàng ngày, khi quần chúng thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của
Đảng thì Đảng mới giành quyền lãnh đạo. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc
đề ra chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, thời kì cách mạng.
Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt trận.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua những phân tích trên ta có thể thấy rằng quan niệm Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết có một vai trò cực kì quan trọng. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những
bài toán của cách mạng vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn
nguyên giá trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh hung hồn sức sống kì
diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn
7
kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của Hồ Chí Minh đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt
đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đó đã thấm sâu vào
tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến nó thành hành
động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người tạo thành sức mạnh vô địch
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB
Chính Trị quốc gia, Hà Nội, 2005
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo - biên soạn giáo trình Quốc gia cán bộ
môn khoa học Mác – Lê-nin , Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2003
3. Ts. Nguyễn Mạnh Tường, Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, NXB
Chính trị - Quốc gia, Hà Nội 2001
4. Ts. Nguyễn Mạnh Tường, Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nhận thức
cơ bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011
5. Ts. Trần Thị Huyền – Phạm Quốc Thành, Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí
Minh (Hỏi – Đáp), NXB Giáo dục.
8