Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

VĂN HOÁ CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.62 KB, 16 trang )

VĂN HOÁ CỒNG CHIÊNG TÂY NGUYÊN
I. LỜI MỞ ĐẦU
Tây Nguyên - gồm 5 tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng -
không chỉ là địa bàn chiến lược về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng mà còn là vùng
văn hoá dân gian đa dạng và đặc sắc của Việt Nam. Cùng với việc đầu tư phát triển kinh
tế-xã hội, nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc, công tác bảo tồn và phát huy những
giá trị của văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, một trong bảy vùng văn hóa lớn của đất nước,
cũng đang ngày càng được quan tâm.
Ngành văn hóa thông tin các tỉnh Tây Nguyên đang từng bước phục hồi lễ hội cồng
chiêng và các lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số như lễ đâm trâu, mừng lúa mới,
cúng bến nước, bỏ mả, mừng sức khỏe và cầu mưa, đồng thời tiến hành bảo tồn, sưu tầm,
lưu giữ và phổ biến những tư liệu khảo cứu và các hiện vật đặc thù của văn hóa Tây
Nguyên. Những lễ hội đua voi, lễ hội cồng chiêng, lễ hội văn hóa Trường Sơn-Tây Nguyên
đã trở thành lễ hội truyền thống thường niên của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
Hai di sản văn hóa vô cùng quý giá của các dân tộc Tây Nguyên, sử thi và cồng
chiêng, đã được ngành văn hóa thông tin đặc biệt quan tâm. Không ai xác định được niên
đại của cồng, chiêng Tây Nguyên, chỉ biết rằng nó tồn tại song hành với đời sống nhân dân
các dân tộc này từ lâu. Mỗi một dàn cồng, chiêng là tiếng nói tâm linh, tâm hồn của người
Tây Nguyên, để diễn tả những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống lao động và sinh hoạt
hàng ngày của họ.
Trong kho tàng di sản văn hóa của các thế hệ tộc người Nam Tây Nguyên, cồng
chiêng là một dạng "của cải" nổi trội cùng với kho tàng văn học dân gian, nghệ thuật điêu
khắc dân gian và tri thức dân gian. Có thể nói, hầu như không có nhạc khí nào và không có
nhiều những sinh hoạt văn hóa truyền thống nào có được vai trò như nhạc khí cồng chiêng
và sinh hoạt văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói chung và Nam Tây Nguyên nói riêng.
1
II. NỘI DUNG
1.Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là gì ?
Từ ngàn xưa, vùng đất Tây Nguyên - Việt Nam đã là cái nôi của nhiều nhóm sắc tộc
thiểu số, như: Jrai, Bahnar, Ê-đê, Giẻ, Raglai, Sê-đăng, Xtiêng, Mạ, Brâu, Churu, Mnông...
Nói đến Tây Nguyên - Việt Nam, người ta sẽ nghĩ ngay đến những bản trường ca hào


hùng, đến những lễ hội còn ít nhiều nét lạ thường, đến những ngôi nhà sàn, những bức
tượng, những lán nhà mồ, nhưng đặc biệt là nghĩ đến nhạc cồng chiêng với một không gian
văn hóa vừa được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa của nhân loại..
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau:
cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội
có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức
các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các
buôn làng Tây Nguyên,...), v.v.
Nhạc cồng chiêng Tây Nguyên đã gắn liền với đời sống của người dân nơi đây.
Thực vậy, tiếng cồng chiêng vang lên từ lúc mỗi người dân Tây Nguyên còn nằm trong nôi
cho đến tận khi được đưa xuống mồ: tiếng cồng chiêng trong lễ Bluh tongia momuai (Lễ
thổi tai) của một đứa trẻ như để khẳng định sự tồn tại của thành viên mới này trong cộng
đồng; cồng chiêng vang lên trong Bông hua pơdo (lễ cưới) là để chúc mừng đôi bạn trẻ
được sống mãi mãi hạnh phúc và nhắc nhớ cho họ về truyền thống của cha ông; tiếng nhạc
cồng chiêng trong hơmech kơtec (Lễ chúc sức khỏe) của một người già để mừng thọ và
chúc cho người đó được sức khỏe dồi dào; và cồng chiêng lại vang lên để nói lời tiễn biệt
với những thành viên đã khuất trong cộng đồng; và cuối cùng, tiếng cồng chiêng chỉ dứt
khỏi một người, từ sau lễ Pơthi (Lễ bỏ mả) thường diễn ra ba năm sau khi chết, để xóa đi
sự hiện diện của thành viên ấy trong cộng đồng.
Trong cuộc sống đời thường, tiếng cồng chiêng ngoài việc vang lên để cổ vũ những chiến
binh trong các trận đánh chống lại quân thù hay thú dữ đến phá hoại buôn làng, còn được
trỗi vang lên để thể hiện niềm vui sau những vụ mùa bội thu hay những trận chiến thắng
2
lợi. Tuy nhiên, cũng không ít lần, cồng chiêng lại vang lên với một nhịp điệu não nề, buồn
tẻ. Đó là những lúc mà cộng đồng đang phải đối mặt với những tai họa như: dịch bệnh,
thiên tai, mất mùa...
Ngoài vai trò là những nhạc cụ, cồng chiêng còn là phương tiện giao tiếp của người
miền núi giữa họ trong cộng đồng và ngay cả với thần linh. Theo quan niệm của người Tây
Nguyên, mỗi cái cồng con chiêng đều mang trên mình một vị thần, họ cũng có đời sống
tình cảm và gia đình riêng. Đó là những vị thần có sức mạnh, và những vị thần linh này có

thể mang đến niềm hạnh phúc, sự thịnh vượng nhưng cũng kéo đến những sự bất hạnh cho
buôn làng khi bị làm cho nổi giận.
Với tất cả những giá trị lịch sử, nghệ thuật, xã hội và âm nhạc, ngày 25 tháng 11
năm 2005, không gian văn hóa nhạc cồng chiêng của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, ngày nay, kiệt tác
văn hóa này đang bị đe dọa nghiêm trọng do sự giảm sút về số lượng của những nghệ nhân
và nhạc sĩ cồng chiêng chuyên nghiệp trong các buôn làng; do các giai điệu và bản nhạc
chiêng cổ cũng bị thất truyền; nhưng nghiêm trọng hơn là do sự thu hẹp của không gian
văn hóa, nơi mà nhạc cồng chiêng vẫn hằng ngày được tấu lên.
2. Đặc điểm không gian văn hoá cồng chiêng:
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt
tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15 tháng 11 năm 2005. Sau Nhã nhạc
cung đình Huế, đây là di sản thứ hai của Việt Nam được nhận danh hiệu này.
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải dài trên 5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum,
Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ thể của không gian văn hóa này gồm
nhiều dân tộc khác nhau: Ê đê, Ba Na, Mạ, Lặc...
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau:
cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội
có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...), những địa điểm tổ chức
các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các
buôn làng Tây Nguyên,...), v.v.
3
Hiện tại, ở các vùng có cồng chiêng như ở Tây nguyên, Lễ hội Cồng chiêng được tổ
chức hàng năm là một hoạt động vừa có ý nghĩa bảo tồn bản sắc văn hóa vừa là một sản
phẩm du lịch ăn khách. sản phẩm du lịch
Theo GS TS Nguyễn Thuyết Phong, cồng chiêng Tây Nguyên được bắt nguồn từ
nền văn minh Đông Sơn cổ đại- một nền văn hóa trống đồng nổi tiếng ở Đông Nam Á.
Nghệ thuật cồng chiêngTây Nguyên từ xưa đến nay đã phát triển đến một trình độ cao so
với các nước trong khu vựcĐông Nam Á. Giá trị văn hóa của cồng chiêng ở Tây Nguyên
từ xa xưa mang đén cho văn hoá việt nam những vị thế đặc biệt nổi bật trong hệ nhạc khí

cổ truyền, bởi nó bắt nguồn từ sự tổng hòa các giá trị văn hóa rất đa dạng như: giá trị biểu
thị đặc trưng và bản sắc văn hóa tộc người hoặc nhóm tộc người; giá trị phản ánh đa chiều;
giá trị nghệ thuật; giá trị cố kết cộng đồng và giá trị văn hóa lịch sử của cộng đồng.
Từ cơ tầng văn hoá Đông Nam Á thời tiền sử, vào khoảng cuối nửa đầu thiên niên kỷ thứ
nhất trước Công nguyên, trên đất nước Việt Nam ngày nay đã hình thành và phát triển 3
trung tâm văn hoá lớn thuộc thời đại đồ đồng (Bronze Age): Văn hoá Đông Sơn ở miền
Bắc; văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung; văn hoá Đồng Nai ở Nam Bộ. Các cộng đồng dân
cư của 3 trung tâm này có những mối giao lưu văn hóa thường xuyên và nhiều chiều với
nhau. Cả 3 trung tâm đều có kỹ nghệ đúc đồng đặc biệt phát triển, sáng tạo nên những
công cụ, vũ khí, đồ trang sức, đặc biệt là các loại nhạc cụ bằng đồng rất độc đáo. Các hiện
vật khảo cổ của văn hoá Đông Sơn như trống đồng, cây đèn Lạch Trường có
Những hình chạm khắc cách chơi các loại nhạc cụ đó.
Khu vực Tây Nguyên hiện nay nằm trong các tuyến văn hoá truyền thống giao thoa
và phát triển của 3 trung tâm đó, đồng thời cũng nằm trong bối cảnh chung của khu vực
Đông Nam Á. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy di chỉ khảo cổ Lung Leng (tỉnh Kon Tum),
cũng như ở các di chỉ khảo cổ khác tại Tây Nguyên nhiều hiện vật đồ đồng, đồ sắt, nhất là
khuôn đúc rìu đồng (Nguyễn Khắc Sử, Thông báo khảo cổ học, 2004). Điều đó có nghĩa là,
cư dân cổ xưa ở Tây Nguyên đã từng có một kỹ nghệ Đúc đồng , một nền văn hoá thoời
kim khí. Điều đáng nói là tất cả các nhạc cụ trên, nhất là cồng chiêng, đều tiếp tục được sử
dụng và tồn tại đến ngày nay như một thành tố hữu cơ trong nền âm nhạc của các dân tộc
Việt Nam, dù là họ sinh sống ở phía Bắc hay ở duyên hải miền Trung.
4
Tồn tại trên mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ đã hàng ngàn đời nay, nghệ thuật cồng
chiêng ở đây đã phát triển đến một trình độ cao. Cồng chiêng Tây Nguyên rất đa dạng,
phong phú. Hiện nay, tại hầu hết các buôn làng Tây Nguyên đều có những đội cồng chiêng
phục vụ đồng bào trong sinh hoạt cộng đồng, trong dịp hội hè. Vào ngày lễ tết, hình ảnh
quen thuộc ''bên ngọn lửa thiêng, những vòng người say sưa múa hát trong tiếng cồng
chiêng vang động núi rừng'' lại xuất hiện trên khắp các buôn làng. Các nghệ nhân dân gian
diễn tấu cồng chiêng kết hợp với nhau rất hài hòa, tạo nên những bản nhạc với các tiết tấu,
hòa thanh rất phong phú, mang sắc thái riêng với muôn vàn cung bậc. Mỗi dân tộc đều có

những bản nhạc cồng chiêng riêng để diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên, khát vọng của con
người... Người Giarai có các bài chiêng Juan, Trum vang... Người Bana có các bài chiêng:
Xa Trăng, Sakapo, Atâu, Tơrơi... Âm thanh của cồng chiêng còn là chất men lôi cuốn gái
trai vào những điệu múa hào hứng của cả cộng đồng trong những ngày hội của buôn làng.
Đây là sinh hoạt văn hóa dân gian nổi bật nhất ở nhiều dân tộc Tây Nguyên.
Âm nhạc của cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện trình độ điêu luyện của người chơi
trong việc áp dụng những kỹ năng đánh chiêng và kỹ năng chế tác. Từ việc chỉnh chiêng
đến biên chế thành dàn nhạc, cách chơi, cách trình diễn, những người dân dẫu không qua
trường lớp đào tạo vẫn thể hiện được những cách chơi điêu luyện tuyệt vời. Với người Tây
Nguyên, cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng là tài sản vô giá. Âm nhạc cồng chiêng Tây
Nguyên không những là một giá trị nghệ thuật đã từ lâu được khẳng định trong đời sống xã
hội mà còn là kết tinh của hồn thiêng sông núi qua bao thế hệ. Cồng chiêng Tây Nguyên
không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất cũng như những giá trị về nghệ thuật đơn thuần mà
nó còn là "tiếng nói" của con người và của thần linh theo quan niệm "vạn vật hữu linh".
Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của
tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên... âm thanh khi ngân nga sâu lắng, khi
thôi thúc trầm hùng, hòa quyện với tiếng suối, tiếng gió và với tiếng lòng người, sống mãi
cùng với đất trời và con người Tây Nguyên. Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho
trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm
trâu.. . hay trong một buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng. Tiếng chiêng dài hơn đời
người, tiếng chiêng nối liền, kết dính những thế hệ.
5
Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một
vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng chiêng còn là tài
sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã có thời một chiếc chiêng giá trị
bằng hai con voi hoặc 20 con trâu. Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy
múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi
rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp
phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn,
vừa hùng tráng.

 Bản chất văn hoá nghệ thuật cồng chiêng Tây Nguyên:
Đồng bào Tây Nguyên quan niệm rằng: cuộc sống luôn có hai thế giới sống, chết cùng
song song tồn tại. Đó là cuộc sống thực mà họ đang sống và cuộc sống của các vị thần linh.
Chính vì vậy, cồng chiêng là ngôn ngữ của con người giao tiếp với thế giới siêu nhiên.
Trong tất cả các phong tục tập quán, cồng chiêng đã giữ một vai trò cực kỳ quan trọng, như
chế độ nhà dài, chế độ già làng, nhà rông, việc cưới hỏi ma chay, lễ bỏ mả, phạt vạ, ma
lai…đến các ngày lễ hội, như lễ sắm rang đầu năm, lễ ăn cơm mới, lễ thần đất, thần núi,
thần sông, thần trời, lễ chúc sức khoẻ, lễ đâm trâu, thần cây đa, tế Yang… là những biểu
hiện sống động cho sự gắn bó giữa nghệ thụât với cuộc sống.
Dân tộc Tây Nguyên có hai loại nhạc cụ chính là cồng và chiêng. Cồng làm bằng đồng
có núm ở giữa, còn nếu phẳng không có núm thì gọi là chiêng. Cồng chiêng là nhạc cụ bởi
nó đưa ra tiếng nhạc, nhưng không phải chỉ nhằm để giải trí, tiêu khiển mà còn gắn liền với
một lễ hội hay một sự kiện quan trọng. Vì vậy cồng chiêng được xem như một vật thiêng,
là phương tiện để con người giao lưu với những bậc vô hình, là sợi dây nối kết giữa người
trần và các đấng linh thiêng. Do đó âm nhạc ở đây không đơn thuần là nghệ thuật mà có
chức năng phục vụ một sự kiện đặc biệt trong xã hội hoặc trong đời sống hàng ngày của
dân gian. Hầu như mỗi sinh hoạt trong bộ tộc đều dính liền với nét nhạc.
Cồng chiêng không do cư dân Tây Nguyên tự đúc ra mà xuất phát từ một sản phẩm
hàng hoá (mua từ các nơi khác về) được nghệ nhân chỉnh sửa thành một nhạc cụ. Phương
pháp chỉnh sửa chiêng cộng với tai âm nhạc nhạy cảm của nghệ nhân sửa chiêng đã thể
hiện trình độ thẩm âm tinh tế và hiểu biết cặn kẽ về chế độ rung và lan truyền âm thanh
6

×