Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tìm hiểu về Hợp đồng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.18 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu………………………………………………………………… ……2
Nội dung………………………………………………………………………3
1. Hợp đồng dân sự:……………………………………………………….3
1.1. Khái niệm:……………………………………………………….3
1.2. Đặc điểm:……………………………………………………… 4
2. Hình thức hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành:… 6
1.1. Hình thức miệng:……………………………………………… 7
1.2. Hình thức văn bản:………………………………………………8
1.3. Hình thức hành vi cụ thể:………………………………………10
1.4. Hình thức bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử):……… 10
3. Thực trạng và giải pháp:………………………………………………11
1.1. Thực trạng:…………………………………………………… 11
1.2. Giải pháp:………………………………………………………17
Kết luận………………………………………………………………………19
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………… 20
MỞ ĐẦU
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham
gia nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với
nhau những quan hệ, để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất như
chuyển giao tài sản, quyền tài sản hoặc một nghĩa vụ nào đó nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng,…Quan hệ đó được gọi là hợp đồng dân sự. Sự
chuyển giao đó thường được hình thành thông qua sự thỏa thuận giữa các bên,
trên cơ sở đó pháp luật buộc các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đó.
Theo Điều 388 Bộ luật dân sự 2005 quy định “Hợp đồng dân sự là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ dân sự”. Như vậy, cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng dân sự là
việc thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng chỉ
được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí các bên phù hợp với quy định
của nhà nước, một trong các điều kiện đó là quy định về hình thức của hợp
đồng.


NỘI DUNG
1. HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
1.1. Khái niệm:
Khái niệm hợp đồng dân sự cần phải xem xét theo nhiều phương diện
khác nhau. Theo phương diện khách quan, thì hợp đồng dân sự là do các quy
phạm pháp luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với
nhau.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự
mà trong đó các bên tự do trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận
cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định. Theo phương diện
này hợp đồng dân sự vừa được xem xét ở dạng cụ thể vừa được xem xét ở
dạng khái quát. Nếu định nghĩa ở dạng cụ thể thì hợp đồng dân sự là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền nghịa vụ
của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc
hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một
hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng (Điều 1 Pháp lệnh
hợp đồng dân sự). Sự liệt kê bao giờ cũng rơi vào tình trạng không đầy đủ và
để quy định của pháp luật có thể bao trùm được toàn bộ các hợp đồng dân sự
xảy ra trong thực tế, BLDS đã định nghĩa nó ở dạng khái quát hơn: “Hợp
đồng dân sự là sử thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự” – Điều 388 BLDS năm 2005. Như vậy,
hợp đồng dân sự không chỉ là sự thỏa thuận để một bên chuyển giao tài sản,
thực hiện một công việc cho bên kia mà còn có thể là sự thỏa thuận để thay
đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ đó. Hợp đồng dân sự và pháp luật về hợp đồng
dân sự là hai khái niệm không đồng nhất với nhau.
1.2. Đặc điểm:
Theo Điều 388 Bộ luật dân sự 2005 định nghĩa về hợp đồng dân sự thì
hợp đồng dân sự có hai nét cơ bản đó là : Sự thỏa thuận giữa các bên và làm
phát sinh hậu quả pháp lý.

Hợp đồng dân sự trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp đồng
phải chứa đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự trùng hợp ý chí
của các bên. Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do giao kết
hợp đồng, nhưng không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Thỏa thuận theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là: Đi tới sự đồng ý sau khi
cân nhắc, thảo luận. Thỏa thuận cũng có nghĩa là sự nhất trí chung (không bắt
buộc phải được nhất trí hoàn toàn) được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến
đối lập của bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những
vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua một quá trình mà mọi quan điểm của
các bên liên quan đều phải được xem xét và dung hoà được tất cả các tranh
chấp; là việc các bên (cá nhân hay tổ chức) có ý định chung tự nguyện cùng
nhau thực hiện những nghĩa vụ mà họ đã cùng nhau chấp nhận vì lợi ích của
các bên. Sự đồng tình tự nguyện này có thể chỉ được tuyên bố miệng và được
gọi là thoả thuận quân tử (hợp đồng quân tử) hay được viết thành văn bản gọi
là hợp đồng viết hay hợp đồng thành văn. Tuỳ theo từng trường hợp được gọi
là hợp đồng hay hiệp định; vd. hiệp định mua bán, hợp đồng đại lí. Yếu tố
thỏa thuận đã bao hàm trong nó yếu tố tự nguyện, tự định đoạt và sự thống
nhất về mặt ý chí. Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đặc trưng của hợp
đồng so với các giao dịch dân sự khác, đây cũng là yếu tố làm nên bản chất
của luật dân sự so với các ngành luật khác.
Về chủ thể tham gia hợp đồng dân sự : Chủ thể giao kết, thực hiện hợp
đồng dân sự phải có ít nhất từ hai bên trở lên, vì hợp đồng dân sự là một giao
dịch pháp lý song phương hay đa phương. Các chủ thể khi giao kết, thực hiện
hợp đồng đều phải có tư cách chủ thể tức là phải đáp ứng các điều kiện theo
quy định của pháp luật đối với một chủ thể của quan hệ dân sự (ví dụ: nếu chủ
thể là cá nhân thì phải đáp ứng được các yêu cầu về năng lực pháp luật, năng
lực hành vi dân sự…).
Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để xác lập
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ trong

phạm vi hợp đồng có phạm vi rất rộng, trước đây trong Pháp lệnh hợp đồng
dân sự ngày 29-4-1991 (Điều 1) quy định hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận
của các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của
các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một hoặc
không làm công việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc
các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì không liệt kê cụ thể các
quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể đó tuy nhiên về bản chất thì các quyền và
nghĩa vụ mà các bên hướng tới khi giao kết, thực hiện hợp đồng là những
quyền và nghĩa vụ để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng,
đó cũng chính là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt giữa hợp
đồng dân sự và các hợp đồng kinh tế, thương mại. Yếu tố này giúp phân biệt
hợp đồng dân sự với hợp đồng kinh tế : Mục đích của hợp đồng kinh tế khi
các bên chủ thể tham gia là mục đích kinh doanh (nhằm phát sinh lợi nhuận)
trong khi đó hợp đồng dân sự các bên tham gia nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng. Chủ thể tham gia hợp đồng kinh tế phải là các thương nhân,
các công ty, đơn vị kinh doanh (nếu chủ thể là cá nhân thì phải có đăng ký
kinh doanh)
2. HÌNH THỨC HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH:
Những điều khoản mà các bên đã cam kết thỏa thuận phải được thể hiện
ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định. Hay nói cách khác hình thức của
hợp đồng là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định.
Tùy thuộc vào nội dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy thuộc vào
độ tin tưởng lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định
trong việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
Để đảm bảo được tính thống nhất và mối quan hệ liên thông, bổ trợ lẫn
nhau trong hệ thống các quy định pháp luật về hợp đồng, chế định hợp đồng
trong Bộ luật Dân sự 2005 được xây dựng theo hướng là nền tảng chung cho
pháp luật về hợp đồng, có hiệu lực điều chỉnh đối với tất cả các quan hệ hợp

đồng trong mọi lĩnh vực. Về hình thức hợp đồng, Điều 401 Bộ luật Dân sự
2005 quy định :
“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng
đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể
hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc phải
xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức,
trừ trường hợp có quy định khác.”
Theo Khoản 1 Điều 124 BLDS 2005 quy định về hình thức giao dịch
dân sự: “1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới
hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản.
2.Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể
hiện bằng văn bản, phải có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc
xin phép thì phải tuân theo quy định đó.”
Như ta đã biết, hợp đồng dân sự cũng là một loại gia dịch dân sự nên nó
có đầy đủ các đặc điểm về hình thức của giao dịch dân sự như. Từ những căn
cứ trên ta thấy, hình thức hợp đồng gồm: bằng lời nói, bằng văn bản, bằng
hành vi cụ thể và bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử). So với quy định
về hình thức hợp đồng dân sự của Bộ luật Dân sự 1995 tại Điều 400 thì quy
định về hình thức của hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005 được bổ sung thêm
một hình thức mới: hình thức thông điệp dữ liệu.
1.1. Hình thức miệng:
Thông qua hình thức này, các bên chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau
về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi
nhất định với nhau. Hình thức miệng được coi là có độ xác thực thấp nhất.
Khi có tranh chấp giữa các bên về một hợp đồng đã được giao kết miệng với
nhau, bất cứ bên nào cũng có thể phủ nhận tất cả những cam kết trước đây của

mình. Tuy nhiên, đối với tất cả các quốc gia trên thế giới thì hình thức miệng
vẫn được coi là hình thức hợp đồng có lịch sử lâu đời và được áp dụng phổ
biến nhất trong các giao dịch dân sự. Trước đây điều đó được lý giải là do số
lượng những người biết đọc, biết viết còn rất ít. Ngày nay, hình thức miệng
vẫn giữ nguyên được vai trò to lớn của nó. Các trường hợp cơ bản phổ biến áp
dụng hình thức miệng là:
- Hình thức miệng được áp dụng trong những trường hợp các bên tham
gia giao kết hợp đồng đã có độ tin cậy lẫn nhau. Độ tin cậy giữa các chủ
thể thường được xác lập thông qua các quan hệ ruột thịt, quan hệ hàng
xóm láng giềng, quan hệ bạn bè, đồng nghiệp, cùng học tập … Sự tin
tưởng giữa các chủ thể ở đây đóng vai trò như là một nhân tố chủ quan
bổ xung thêm cho sự xác thực của hình thức miệng. Trong nhiều trường
hợp do thiếu độ tin cậy nên các chủ thể không thể áp dụng được hình
thức miệng.
- hình thức miệng được áp dụng với những hợp đồng có giá trị nhỏ. Đối
với những hợp đồng có giá trị quá nhỏ ( ví dụ: mua mớ rau, bao diêm,
mượn cái bút chì,…) thì các bên không có cách nào khác ngoài cách áp
dụng hình thức miệng, nếu áp dụng các hình thức khác sẽ có thể tạo nên
những chi phí quá lớn, mà giá trị hợp đồng quá nhỏ nên các chi phí đó
làm cho việc ký kết hợp đồng trở nên vô nghĩa.
- hình thức miệng được áp dụng đối với những hợp đồng mà có thể được
thực hiện và chấm dứt ngay sau khi giao kết. Ví dụ như đa số các hợp
đồng bán lẻ đều được thực hiện dưới hình thức miệng. Sau khi thỏa
thuận miệng xong về giá cả, số lượng và chất lượng …thì hai bên thực
hiện ngay thỏa thuận đó ( bên bán cân đong và bàn giao hàng, bên mua
nhận lấy hàng và trả tiền ). Đến đây hợp đồng coi như đã thực hiện
xong và chấm dứt.
1.2. Hình thức văn bản:
Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có
thể ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản. Trong văn bản đó,

các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng kí tên
xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình
thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lí chắc chắn hơn so với hình thức miệng.
Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu
của mình đối với bên kia. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà việc thực hiện
không cùng lúc với việc giao kết thì các bên thường chọn hình thức này.
Thông thường, hợp đồng được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản,
coi như đã có trong tay một bằng chứng, chứng minh quyền dân sự của mình.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản mang tính xác thực hơn so với hình
thức hợp đồng miệng. Trong văn bản đó các bên ghi đầy đủ những nội dung
đã thỏa thuận, cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Văn bản hợp đồng thường
được soạn thành hai hay nhiều bản gốc giông nhau, đều phải có chữ ký của
các bên, mỗi bên được giữ một bản. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các
bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia. Các trường
hợp cơ bản áp dụng hình thức văn bản này là :
- Đối với hợp đồng có giá trị lớn.
- Đối với hợp đồng mà việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp đồng có
thể diễn ra trong một thời gian dài không cùng lúc với việc giao kết (ví
dụ : hợp đồng gia công xây dựng nhà…)
- Khi giữa các bên chưa đạt được sự tin cậy nhất định.
Tại Khoản 2 Điề 401BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp
luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng
hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc phải xin phép thì phải tuân theo các quy
định đó”. Thông qua chỉ dẫn này ta thấy rằng hợp đồng bằng văn bản được
chia tiếp ra làm hai loại là : hợp đồng bằng văn bản thông thường và hợp đồng
bằng văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của
Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Hợp đồng bằng văn bản có chứng nhận,
chứng thực được coi là hình thức mang tính xác thực cao nhất và thường được
pháp luật quy định đối với các trường hợp như đối với các hợp đồng có tính
chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp hoặc với hợp đồng có đối tượng là những

tài sản mà nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát. Những trường hợp đó được
quy định cụ thể cho từng loại hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, trong trường hợp
pháp luật không có quy định thì các bên vẫn có thể thỏa thuận với nhau áp
dụng hình thức văn bản có chứng nhận, chứng thực đó để giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên nếu có vi phạm về hình thức thì cũng không bị coi là vô hiệu, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.3. Hình thức hành vi:
Đối với hình thức này thì chỉ cần các bên thực hiện một hoặc một vài
(không bắt buộc phải tất cả) hành vi là nghĩa vụ của hợp đồng thì hợp đồng đã
được coi là giao kết. Ví dụ như: hợp đồng tặng cho tài sản như việc bỏ tiền
vào hòm công đức, như người tiêu dùng mua nước tại các máy bán nước tự
động, hợp đồng được coi là ký kết khi người tiêu dùng thả tiền vào máy tự
động và thực hiện một số các động tác cần thiết để nhận chai nước.
1.4. Hình thức bằng thông điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử):
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, việc giao kết hợp đồng
dưới hình thức văn bản giấy không còn là hình thức thích hợp khi các bên có
khoảng cách xa về mặt địa lý. Chủ thể ở một quốc gia này có thể ký kết hợp
đồng với chủ thể của một quốc gia khác mà không phải đi đến tận nơi gặp
nhau trực tiếp để thương thảo hợp đồng. Thông qua mạng Internet, các doanh
nghiệp ở các địa phương khác nhau, ở các quốc gia khác nhau có thể nhanh
chóng tìm kiếm được bạn hàng để thiết lập mối quan hệ làm ăn, mở rộng thị
trường. Với chiếc máy tính nối mạng Internet, ngồi ở nhà chúng ta có thể dạo
quanh thị trường một cách thoải mái vào bất cứ thời điểm nào trong ngày. Khi
cần mua một món hàng, chúng ta chỉ cần liên lạc với cửa hàng qua hệ thống
mạng, sau đó sẽ có người mang món hàng đó đến tận nơi theo yêu cầu. Sự
phát triển mạnh mẽ của giao dịch điện tử kéo theo sự ra đời một hình thức hợp
đồng mới: hợp đồng điện tử- hợp đồng được giao kết thông qua phương tiện
điện tử.
3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP:
1.1. Thực trạng:

Có thể nói, các quy định về hình thức hợp đồng trong Bộ Luật dân sự
2005 là đầy đủ, phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay, nó thúc đầy quá
trình phát triển trong nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, cũng như trong
cuộc sống hàng ngày. Những quy định chi tiết và hợp lý đó đã giúp ích rất
nhiều cho các cá nhân, pháp nhân hay tổ chức trong các mối quan hệ nhật
định. Bằng việc coi trọng yếu tố hình thức trong các hợp đồng dân sự là điều
kiện có hiệu lực đã tạo ra cơ chế đảm bảo về quyền lợi của bên yếu hơn trong
quan hệ hợp đồng, sự tồn tại của hợp đồng đã được chứng minh bằng pháp lý,
từ đó đảm bảo trật tự công cộng cũng như an toàn pháp lý cho các bên và cả
người thứ ba.
Một trong những quy định mới về hình thức hợp đồng trong Bộ luật
dân sự 2005 đã đem lại hiệu quả cao là quy định định về hình thức bằng thông
điệp dữ liệu (hợp đồng điện tử). Để tạo cơ sở pháp lý cho giao dịch điện tử
phát triển, Bộ luật Dân sự năm 2005 được thông qua tại Kỳ thứ 7 Quốc hội
khoá XI, lần đầu tiên đã ghi nhận hình thức hợp đồng điện tử thông qua việc
thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu: “Giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu cũng được coi là giao
dịch bằng văn bản” (khoản 1 Điều 124). Cũng tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội
Khoá XI, Luật Thương mại năm 2005 được thông qua, trong đó Điều 15 ghi
nhận nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt
động thương mại: “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp
ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được
thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản". Và đặc biệt, tại kỳ họp
thứ 8 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Giao dịch điện tử 2005. Luật này
công nhận giá trị pháp lý của giao dịch điện tử, giá trị pháp lý của thông điệp
dữ liệu, chữ ký điện tử được sử dụng trong các giao dịch điện tử; cụ thể hoá
quy định về hợp đồng điện tử trong Bộ luật Dân sự 2005, tạo môi trường pháp
lý nhằm thúc đẩy việc sử dụng các giao dịch điện tử, giao kết hợp đồng bằng
phương tiện điện tử góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội và
hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Giao dịch điện tử 2005 dành một chương (từ

Điều 33 đến Điều 38) quy định về việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện
tử.
Xét về bản chất, hợp đồng điện tử cũng là sự thoả thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ như các hình thức hợp
đồng phổ biến mà chúng ta đang áp dụng, chỉ khác là chúng được xác lập
thông qua các phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Một hợp
đồng điện tử có thể được giao kết dưới nhiều dạng khác nhau, từ các phương
thức trao đổi hiện đại như trao đổi dữ liệu điện tử, E-mail, tới các phương tiện
thông tin liên lạc đã tồn tại từ nhiều năm nay như điện tín, điện báo, fax và các
hình thức tương tự khác. Các bên có thể sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến
hành một bước hay toàn bộ các bước trong quá trình giao kết hợp đồng điện
tử. Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được
thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu. Việc trao đổi, thoả thuận đó sẽ tạo ra
hiệu lực pháp lý của hợp đồng mà không cần hai bên phải thực hiện thêm bất
kỳ một thủ tục nào khác (trừ trường hợp pháp luật đòi hỏi hợp đồng phải được
lập theo một hình thức và trình tự cụ thể). Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử
không thể bị phủ nhận chỉ vì nó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu
(Điều 34 Luật Giao dịch điện tử 2005). Nó có giá trị làm chứng cứ, khi các
bên có tranh chấp khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết (Điều 14 Luật Giao dịch
điện tử 2005.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam còn có những bất cập, hạn chế trong
những quy định về hình thức hợp đồng.
Tại Khoản 2, Điều 122 về “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự”
quy định như sau: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” Khoản 2, Điều 401 về
“Hình thức hợp đồng dân sự” cũng quy định: “Trong trường hợp pháp luật có
quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc
chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định
đó” và “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình
thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Theo các quy định này, thì

hợp đồng vi phạm về hinh thức chỉ vô hiệu khi không đáp ứng đủ 2 điều kiện
sau:
- Thứ nhất, hợp đồng bắt buộc phải được lập bằng văn bản, phải có công
chứng hoặc chứng thực, phải xin phép hoặc phải đăng ký theo quy định
của pháp luật;
- Thứ hai, có quy định của pháp luật về việc hợp đồng bị vô hiệu nếu vi
phạm vào ít nhất một trong 4 hình thức trên.
Như vậy, không phải hợp đồng cứ vi phạm về hình thức là bị vô hiệu,
mà phải có những quy định cụ thể của pháp luật về việc hợp đồng sẽ bị vô
hiệu khi không đáp ứng được các điều kiện này. Cho đến nay, liên quan đến
hình thức của hợp đồng, pháp luật mới chỉ quy định một số trường hợp phải
được làm thành văn bản, phải được công chứng, chứng thực và phải được
cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hoặc đăng ký, mà chưa thấy quy định nào
của pháp luật về việc phải làm như vậy thì mới có hiệu lực, cũng không có
quy định nào của pháp luật khẳng định việc tuân thủ các hình thức đó là điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Tuy nhiên, trên thực tế, thì gần như 100% hợp đồng không tuân thủ về
hình thức văn bản, công chứng, xin phép và đăng ký trong trường hợp đã có
quy định bắt buộc của pháp luật, thì sẽ đều bị Toà án tuyên vô hiệu, do
đánh đồng giữa quy định của pháp luật về hình thức cũng chính là“điều kiện
có hiệu lực của giao dịch”. Theo đó, thì Toà án chỉ còn mỗi việc: Tuyên tất cả
cả hợp đồng vi phạm về hình thức là vô hiệu theo quy định tại Điều 134 về
“Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức”: “Trong
trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu
lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc
các bên, Toà án,cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các
bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá
thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.”. Hay nói cách khác,
quy định tại đoạn 2, khoản 2, Điều 401 “Hợp đồng không bị vô hiệu trong
trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định

khác” đã bị “vô hiệu toàn bộ”, trở thành thừa và hoàn toàn vô nghĩa trên thực
tế.
Cũng có những trường hợp Toà án quyết định rắc rối hơn về việc vi
phạm về hình thức, như 2 ví dụ sau:
- Năm 2009, xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp về hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là Công ty TNHH
Sản xuất, Thương mại, Dịch vụ Đông Nam Việt và bị đơn là Công ty TNHH
Hoàng Gia, TAND huyện Đức Hòa, Long An đãtuyên hợp đồng đặt cọc (đặt
chỗ) để chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai công ty, ký ngày 18-7-
2006 là vô hiệu, do không có chứng nhận của công chứng. Xét xử phúc thẩm,
TAND tỉnh Long An đã tuyên huỷ bản án sơ thẩm, với nhận định TAND
sơ thẩm đãsai phạm, vì hợp đồng đặt cọc theo quy định tại Điều 358 về “Đặt
cọc” của Bộ luật Dân sự năm 2005 không bắt buộc phải có công chứng. Trong
trường hợp này, Toà sơ thẩm đãnhầm lẫn hợp đồng đặt cọc cũng phải đòi hỏi
về hình thức công chứng như với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất.
- Năm 2010, xét xử vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp hợp đồng
tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) và bị đơn là
Công ty Cổ phần Hàng không Đông Dương (Indochina Airlines), TAND TP
Hồ Chí Minh đã tuyên hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất của bà Phùng Trịnh Thị Vinh, ký năm 2010, để bảo đảm
cho nghĩa vụ trả nợ mở thư tín dụng của bị đơn là vô hiệu, vì không được
công chứng và không đăng ký giao dịch bảo đảm. Nhưng sau đó, Toà Phúc
thẩm TAND Tối cao tại TP HCM đã công nhận hợp đồng thế chấp này là hợp
pháp, vì người thế chấp là người có lỗi trong việc không chịu hoàn thiện thủ
tục công chứng hợp đồng theo yêu cẩu của bên nhận thế chấp. Trong trường
hợp này, khác với nhiều vụ án tương tự, Toà án đã không thực hiện quy định
tại Điều 134, “quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của
giao dịch trong một thời hạn”. Và gần như trong tất cả các vụ án, một khi
đã đưa tranh chấp ra Toà án, nếu có yêu cầu các bên hoàn tất về hình thức, thì

kết quả đều gần như 100% sẽ là vô hiệu, vì “quá thời hạn đó mà không thực
hiện thì giao dịch vô hiệu.”
Một điểm bất cập nữa về hình thức hợp đồng dân sự
trong các quy định của pháp luật hiện hành đó là về mối quan
hệ giữa hình thức với hiệu lực của hợp đồng được quy định tại
khoản 2 Điều 122 BLDS 2005: “hình thức giao dịch dân sự là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật
có quy định”, Điều 134 BLDS 2005: “trong trường hợp pháp
luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu
lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu
cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về
hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó
mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”, khoản 2 Điều 401:
“trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được
thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải
đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về
hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Các quy định nói trên cho thấy, mặc dù pháp luật có quy
định một loại hợp đồng nào đó phải được ký kết bằng văn bản,
văn bản có chứng thực, tuy nhiên hợp đồng sẽ không bị coi là
vô hiệu nếu các bên không tuân thủ hình thức, trừ trường hợp
pháp luật có quy định. Pháp luật quy định như vậy, tuy nhiên
khi nghiên cứu các quy định của Bộ luật Dân sự và các văn
bản pháp luật khác thì không thể tìm thấy bất kỳ quy định
nào, theo đó hợp đồng không tuân thủ hình thức văn bản, văn
bản có chứng thực thì vô hiệu, mà trong nhiều trường hợp
pháp luật chỉ quy định hợp đồng phải được ký kết bằng văn
bản. Ví dụ, theo Điều 450 BLDS 2005, hợp đồng mua bán nhà

ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng
thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, hay theo
Điều 492, hợp đồng thuê nhà ở phải được lập thành văn bản,
nếu thời hạn thuê từ sáu tháng trở lên thì phải có công chứng
hoặc chứng thực và phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác…
Với cách quy định về hình thức của hợp đồng là điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng trong pháp luật Việt Nam nói chung
và BLDS nói riêng là không rõ ràng. Sự không rõ ràng này
được hợp thức hoá bởi Nghị quyết số 01/2003 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 01/2003).
Cụ thể, hợp đồng mua bán nhà ở không được công chứng và
một trong các bên yêu cầu Toà án tuyên bố vô hiệu, thì Tòa án
áp dụng Nghị quyết số 01/2003, sẽ bị tuyên bố vô hiệu, nếu
hợp đồng không được công chứng, chứng thực trong thời hạn
một tháng (thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở
ngại khách quan không tính vào thời hạn một tháng đó) kể từ
ngày có Quyết định của Toà án (Quyết định yêu cầu thực hiện
công chứng, chứng thực).
Cách giải quyết các tình huống nói trên là quá máy móc
và không hợp lý. Bởi lẽ, thứ nhất, như đã phân tích ở trên, hợp
đồng là sự thoả thuận và hình thức của hợp đồng chỉ là hình
thức thể hiện ý chí của các bên ra bên ngoài; thứ hai, rõ ràng
hợp đồng không được công chứng, chứng thực là do một trong
các bên không muốn, vậy thì Quyết định của Toà án cũng
không thể thay đổi được ý chí của họ. Mặt khác, theo quy định
của Điều 126 và Điều 409 BLDS 2005, khi hợp đồng có điều
khoản không rõ ràng thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp
đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí chung của các bên để giải
thích điều khoản đó. Rõ ràng, ý chí chung của các bên được

đánh giá cao hơn hình thức biểu hiện ra bên ngoài. Ý chí của
các bên được hiểu là ý chí được biểu hiện tại thời điểm ký kết
hợp đồng. Trong khi đó, nếu theo Điều 134 BLDS 2005 và Nghị
quyết số 01/2003 thì pháp luật có vẻ như tôn trọng ý chí được
biểu hiện sau thời điểm hợp đồng được ký kết. Điều này có vẻ
trái với lý thuyết về tự do ý chí cũng như nguyên tắc giải thích
hợp đồng.
1.2. Giải pháp:
Từ thực trạng trên ta thấy, các quy định của pháp luật
Việt Nam liên quan đến hình thức là điều kiện để hợp đồng có
hiệu lực cần phải được quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn. Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có sự giải thích
việc áp dụng các quy định về hình thức là điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng tương tự án lệ và thực tiễn giải quyết tranh
chấp của các nước trên cơ sở nguyên tắc trung thực thiện chí.
Hơn nữa, trong các quy định về hình thức hợp đồng nhà làm luật cần có sự
thống nhất, rõ ràng và cụ thể hơn để bảo vệ quy định tại Điều 401 “Hợp đồng
không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”. Các bên đã hoàn toàn tự do ý chí thoả thuận hợp
đồng, kể cả về hình thức, thì cần hạn chế tối đa việc vô hiệu do không tuân thủ
về hình thức. Ví dụ, theo quy định tại Điều 30 về ”Nguyên tắc quản lý”, Quy
chế Quản lý vay và trả nợ nước ngoài. Ban hành kèm theo Nghị định số số
134/2005/NĐ-CP ngày 01-11-2005 của Chính phủ, thì tất cả các khoản vay
nước ngoài của doanh nghiệp phi nhà nước phải đăng ký với Ngân hàng Nhà
nước. Tuy nhiên, không thể vin vào lý do, các hợp vay vốn nước ngoài không
đăng ký với Ngân hàng Nhà nước là vô hiệu (không được chuyển ngoại tệ ra
nước ngoài trả nợ lãi).
KẾT LUẬN
Đồng hành cùng với sự phát triển của xã hội, hợp đồng dân sự ngày
càng phát triển đa dạng. Hình thức của hợp đồng dân sự là một điều kiện

không thể thiếu đối với tính hợp pháp của một hợp đồng. Đặc biêt, hình
thức của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng. Nó
là chứng cứ xác nhận các quan hệ đã, đang tồn tại giữa các
bên, từ đó xác định trách nhiệm dân sự khi có vi hợp đồng
phạm xảy ra. Việc quy định hình thức hợp đồng để bảo đảm
được quyền lợi của các bên khi giao kết hợp đồng và không
xâm phạm tới nguyên tắc “tự do thỏa thuận” khi giao kết hợp
đồng là một việc thiết yếu đối với nhà làm luật. Với các quy
định về hinh thức hợp đồng dân sự trong Bộ luật dân sự thì đã
phần nào giải quyết được vấn đề đó, có thể đánh giá các quy
định về hình thức trong Bộ luật dân sự 2005 là khá tiến bộ,
đầy đủ và phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt
Nam, Tập 2, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt
Nam, Tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009.
3. Học viện tư pháp, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân. Hà Nội, 2008.
4. Trương Anh Tuấn, Bình luận khoa học bộ luật dân sự
(phần nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự). Nxb Lao
động.
5. Bộ luật dân sự năm 2005.
6.
7. o

×