TUYỂN CHỌN
80 BÀI VĂN HAY LỚP 12
NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
ÔN THI THPT QUỐC GIA
Đề bài: CÁI TÔI CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG TRONG
TÁC PHẨM “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG”
1. Một cái tôi dạt dào cảm xúc:
1.1. Tư thế và tâm thế:
+ Tư thế: Một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh,vừa
bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh
hùng,một tư thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy của
lịch sử dân tộc để khẳng định sức sống, sức mạnh của nó.
+ Tâm thế: Một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho mình một
điểm nhìn thật đặc biệt về con sông.Chất lãng mạn, nghệ sĩ thể hiện ở sự lựa chọn thời
gian mùa thu và không gian khu vườn cổ sầm uất, một khu vườn mùa nào cũng có hoa
nở.và trái chín mà vẫn thể hiện một “thần thái yên tĩnh và khoáng đạt giống như một
sự tự do nội tâm”- một không gian vừa cổ kính, vừa thắm tươi, vừa phóng khoáng.
Trong không gian ấy, tâm thế của nhà văn trở nên thư thái, có sự tự do nội tâm để cảm
nhận một cách tinh tế và có chiều sâu về đối tượng. Sự thư thái biểu hiện trong những
hoạt động cụ thể: vừa ăn trái hồng ngọt và thanh để cảm nhận hương vị thực, vừa đọc
Kiều để đắm mình trong thế giới tưởng tượng của thơ ca. Đi giữa cõi thực và cõi thơ,
sống trong sự giao thoa của những rung động với khung cảnh thiên nhiên và những
rung động trước một mối tình say đắm trong những trang Kiều để từ đó nhà văn có
một phát hiện độc đáo về mối liên hệ giữa những câu Kiều với âm hưởng sâu thẳm của
Huế: “dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u
hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san,
những vầng trăng thắm thiết…” và quan trọng nhất là nhận ra rằng sông Hương và
thành phố của nó như một vang bóng trong thời gian hình tượng cặp tình nhân lý
tưởng của Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”.
Có thể thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ những rung động
của tình yêu- một thứ tình yêu rất sâu và rất đắm say của nhà văn với con sông xứ
Huế.
1.2. Cảm hứng và cảm xúc:
+Cảm hứng: niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến
rũ riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và
văn hoá. Cả bài tuỳ bút dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc
khoải “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông
đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo
hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên
trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà
là một sinh thể, một con người “sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều” vừa xinh đẹp,
vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền
văn hoá riêng của nó.
2
+ Cảm xúc: vô cùng phong phú. Có khi nó đựơc bộc lộ trực tiếp với các trạng thái nội
tâm: vừa thích thú, vừa lơ đãng , miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc
không ngừng, nhớ da diết điệu chảy lặng lờ của con sông khi ngang qua thành phố, cái
điệu chảy như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn ánh hoa
đăng; thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu bởi hiểu sâu sắc
rằng nền âm nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn của con
sông nên chỉ là chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước từ những
mái chèo khuya. Có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại đượcbộc lộ gián
tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện: Cái “tôi”
tác giả khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã chợt nhận ra
khúc nhạc Huế trong những trang Kiều “Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng
suối mới sa nửa vời”, khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con
sông và con người ở “nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”; có khi lại
cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hiệp quốc về Huế bằng sự rung động thẩm
mỹ của tâm hồn để “thấy hiện bóng khuôn mặt quyến rũ và tươi trẻ của dòng sông
thành phố giữa lòng thế giới hiện đại ”; đồng thời cũng hoài niệm đến khắc khoải khi
phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất xưa “màu áo
lục điều với loại vải…ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện” để từ cái sắc màu
văn hoá ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới “màu của sương khói
trên sông Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt
thực của dòng sông”
Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm
xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản
đàn lòng để tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương.
2. Một cái tôi nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện
2.1. Kiến thức và ý thức
+ Kiến thức: phong phú và có chiều sâu. Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ bút này,
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông
Hương từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái
hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa…Đọc bài viết có thể thấy công phu nghiên cứu,
tìm hiểu của nhà văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét diện mạo của
con sông trong từng khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy mối liên hệ
giữa đặc điểm địa lý với đặc điểm dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông
trong từng thời kỳ lịch sử, vừa thâm nhập thực tế để nhận biết một cách cụ thể những
nếp sinh hoạt, những cách thức lao động, những hương vị riêng của cỏ cây, hoa trái,
đất đai, vừa đọc tư liệu, sách vở để hình dung ra quá khứ một thời vang bóng trong
những dấu tích còn lại của thành quách, đình đền. Trong khối lượng kiến thức được
huy động, đáng kể nhất là kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá. Các mặt kiến thức này
không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành một
điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.
+ ý thức: Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất
nghiêm túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi “Ai dó đặt tên cho dũng sụng”. Đây là
câu hỏi ngỡ như bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một
câu hỏi đầy ngụ ý của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập
3
mối quan hệ giữa dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn,
cách nghĩ và những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên trong khi
tìm hiểu về sông nhà văn cũng rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên
dòng sông ấy. Nghĩa là con sông đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với
con người. Trong mối liên hệ ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và
không gian, văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới
tinh thần…Và trong quá trình tìm hiểu “Ai đó đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà
còn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những khám phá, tìm
hiểu những chiều sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của sông Hương cũng là của con
người xứ Huế.
2.2. Con đường và đích đến;
+ Con đường: Đọc bài tuỳ bút dễ thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường rất tinh tế khi lắng
nghe và chiêm nghiệm những cảm xúc, cảm giác phong phú và những ý nghĩ sâu xa.
Vì thế cái dễ nhận thấy từ những trang văn là chất trữ tình đậm đà đằm thắm. Song nếu
chỉ đào sâu vào những cảm xúc, cảm giác của mình hoặc lục tìm trong sách vở thì thế
giới của một cái tôi dẫu phong phú rộng mở đến mâý cũng chỉ là giới hạn. Thành công
của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tuỳ bút này không chỉ do nhà văn biết lắng nghe và
xúc động, biết nghiên cứu, tìm hiểu và suy ngẫm mà còn bởi người nghệ sỹ ấy có thực
tế từ những chuyến đi. Đọc bài tuỳ bút cũng rất dễ để thấy rằng Hoàng Phủ Ngọc
Tường rất hay đi: “Xuân hạ thu đông tôi vẫn thường lên thăm vườn An Hiên của bà
Tùng ở Kim Long ” để từ đó “từ mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay ra mặt sông”
mà cảm nhận cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trêm mỗi trang Kiều. Song nhà văn lại
cũng ý thức sâu sắc rằng “Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành của nó,
người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình
gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó”. Vì thế
nhà văn đã thực hiện một cuộc hành trình theo suốt chiều dài của con sông từ nơi khởi
nguồn giữa lòng Trường Sơn với rừng già, ghềnh thác, vực xoáy để rồi chuyển dòng
liên tục mà hoà mình với cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại và bắt đầu hành trình tìm
kiếm thành phố tương lai của nó. Và bởi cũng đã từng biết đến sông Xen của Pari,
sông Đanuyp của Buđapet, sông Nêva của Nga mà Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể
nhận ra nét riêng của Sông Hương trong nhịp điệu, trong sắc thái văn hoá và trong
quan hệ của nó với thành phố của mình. Trong những chuyến đi dọc sông Hương,
chuyến đi về làng Thành Trung có một vai trò quan trọng đặc biệt bởi nó cho nhà văn
không chỉ những thông tin, dấu vết về một khu thành cổ, một vùng đất chiến lược thuở
xa xưa mà còn là một cơ hội để nhận rõ bản lĩnh Việt sâu sắc, một sức sống Việt thật
mãnh liệt, một tâm hồn Việt thật giàu có phong phú, một khí đất thật hùng hậu và
hương đất thật nồng nàn…
+ Đích đến: đi suốt dọc sông Hương để trải nghiệm bao nhiêu cảm xúc, cảm giác để
hiểu thấu bao nhiêu giá trị, nhận ra bao nhiêu vẻ đẹp của địa lí và văn hoá, đời sống và
lịch sử, cuối cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi đầy
khắc khoải vẫn luôn vang vọng trong suốt bài tuỳ bút: “Con người đã đặt tên cho dòng
sông như nhà thơ chọn bút hiệu cho mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem
cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hoá và lịch sử”
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương không chỉ bằng cảm nhận và hiểu biết
4
về dòng sông mà còn bằng cảm nhận và hiểu biết về con người Huế để từ đó mà thấy
một cách sâu sắc và thấm thía rằng, không chỉ đặc điểm địa lý mà quá trình lịch sử
cùng với diện mạo văn hoá do con người tạo nên đã hình thành cho sông Hương một
diện mạo, dáng vẻ và cả một tâm hồn.
3. Một cái tôi tài hoa và vô cùng lãng mạn.
+ Giàu tưởng tượng (quá trình tâm lý xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở
kinh nghiệm của cá nhân và thực tiễn của đời sống): Sở dĩ bài bút ký này của
Hoàng Phủ Ngọc Tường được cho là có nhiều chất tuỳ bút có lẽ một phần vì nhà văn
không thuần tuý chỉ ghi chép một cách chính xác khách quan mà còn biết tạo cho mình
rất nhiều cơ hội để tưởng tượng: Viết về con sông song lại không bắt đầu từ việc quan
sát thực tế, từ việc đi thực địa mà lại bắt đầu từ việc đọc Kiều để cảm nhận văn chương
hoà quyện với cảm nhận về con sông xứ Huế. Và phút nhận ra cuộc gặp gỡ giữa âm
hưởng sâu thẳm của Huế với cảnh sắc thiên nhiên qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn
Du trên mỗi trang Kiều cũng chính là lúc nhà văn tưởng tượng về mối quan hệ giữa
sông Hương và thành phố của nó là mối quan hệ của một cặp tình nhân lý tưởng với
tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc. Cũng trong trí tưởng
tượng bay bổng của nhà văn, sông Hương khi là một dòng nhạc đa âm sắc (bản trường
ca rầm rộ của rừng già, điệu slow của tình cảm, bản đàn lúc đêm khuya với tiếng nước
rơi bán âm của những mái chèo), khi là một con người giàu nữ tính và có đủ sức mạnh
để trưởng thành dần trong cuộc hành trình (cô gái Digan phóng khoáng và man dại
giữa rừng Trường Sơn, người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu
Hoá đầy hoa dại, người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với sắc đẹp dịu dàng
và trí tuệ giữa chốn kinh thành). Song có một điều quan trọng là, trong cuộc hành trình
dù không ít những gian truân và cũng không hề ngắn ngủi ấy phẩm chất nữ tính của
sông Hương khiến nó luôn tự bộ lộ mình là một người con gái rất mực đa tình: dù với
tâm hồn tự do và trong sáng hay sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ thì hành trình của sông
cũng là hành trình tìm kiếm người tình mong đợi để khi gặp được rồi, sông Hương trở
nên mềm hẳn đi “như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”, rồi cũng như Kiều
khi gặp chàng Kim, sông Hương gặp Huế đã trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya để rồi khi phải lưu luyến ra đi, sông Hương như chưa nỡ rời xa thành phố mà cố
ý đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông – tây để gặp lại thành phố lần cuối trong “nỗi
vương vấn” “chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” như nàng Kiều trong đêm tình tự đã
chí tình trở lại cùng Kim Trọng để nói một lời thề mà sự vang vọng của lời thề ấy,
trong tưởng tượng và sự hình dung của nhà văn chính là giọng hò dân gian “Còn non-
còn nước- còn dài -còn về- còn nhớ…”
Trí tưởng tượng mạnh mẽ và phong phú khi kết hợp với cái kho vốn cảm xúc, cảm
giác rất dồi dào mà cũng vô cùng tinh tế sâu sắc đã tạo nên một chất thơ chan chứa
trên mỗi trang văn và một sức lôi cuốn khó cưỡng lại đối với người thưởng thức.
+ Vốn chữ nghĩa và sức sáng tạo: Thông thường người ta chỉ nói “Thi trung hữu
hoạ” “Thi trung hữu nhạc”. ở đây ta có thể hoàn toàn tự tin mà nói về chất nhạc, chất
hoạ, thậm chí là sự hoà quyện lý tưởng giữa chất nhạc, chất hoạ và chất thơ trong chữ
nghĩa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hãy nghe nhà văn diễn tả cảm giác của mình
“Mùa thu tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay mái ra sông
ăn trái hồng ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã
tan ra thành dư vang của một tiếng chim”. Chỉ có ăn một trái hồng thôi mà thấy đủ cả
5
hương vị, thanh sắc của đất trời, huống hồ là khi đối diện với với một con sông của
một miền đất mà mình yêu mến, tự hào và gắn bó. Dường như có bao nhiêu góc nhìn,
điểm nhìn về con sông thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để diễn tả cho
thật riêng, thật sắc, thật tinh góc nhìn, điểm nhìn ấy: Cần đặt con sông trong không
gian địa lí thì nó là “một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn,
mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào dưới đáy vực bí
ẩn, dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đổ quyên rừng,
dịu dàng và trí tuệ khi trở thành bà mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở, mơ màng
giữa cánh đồng Châu Hoá, trầm mặc như triết lí, như cổ thi gữa đám quần sơn lô xô,
đền đài lăng tẩm và rừng thông u tịch , vô tư giữa những biền bãi xanh biếc, yên tâm
kéo một nét thẳng khi nhìn thấy chiếc cầu của thành phố in ngầm trên nền trời…” Cần
đặt con sông trong tổng thể những sắc màu văn hoá thì nó trở thành một “vang bóng
trong thời gian hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều”, lập loè trong
đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”, điệu chảy lặng
lờ như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế có thể cảm nhận được bằng thị giác
qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy. Cần đặt
sông Hương trong dòng chảy lịch sử thì sông Hương lại là “dòng sông của thời gian
ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc ”, khi “tự biến đời mình thành một
chiến công ”, khi lại trở về “làm một người con gái dịu dàng của đất nước ”.Đây
không phải thứ chữ nghĩa mà ta quen gặp trong văn xuôi thông thường.Lối chữ nghĩa
giàu hình ảnh và thấm đượm cảm xúc đó là kiểu chữ nghĩa thường chỉ thấy nhiều trong
thi ca, nó khiến người đọc không chỉ tiếp nhận được những thông tin cần thiết mà còn
có thêm hứng thú và nguồn mĩ cảm dồi dào.
4.Đánh giá:
Với kho vốn cảm xúc, kiến thức, tưởng tượng và trải nghiệm thực tế lại cộng thêm vốn
chữ nghĩa dồi dào mà rất đẹp, rất thơ, rất công phu, trau chuốt thậm chí đôi khi còn hơi
làm dáng điệu đà, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự mê hoặc được người đọc để
hoàn toàn chủ động trong việc dẫn dắt người đọc đi theo nhà văn để hào hứng thưởng
thức vẻ đẹp của một dòng sông không phải như con sông địa li vô tri mà như một con
người- một người con gái có nhan sắc, có tâm hồn, có sức sống và cũng đầy sức mạnh
để đi hết cuộc hành trình, sống trọn vẹn đời sống và khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh và
lý tưởng của nó.
CẢM NHẬN VỀ AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
Ai đã đặt tên cho dòng sông? ban đầu có tên là Hương ơi, e phải mày chăng? là bài bút
kí do nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào ngày 4 ngày 1 năm 1981, và
được in trong tập sách cùng tên vào năm 1984.
Một phần bài bút kí[1] đã được đưa vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục ở Việt
Nam, và được đánh giá là một đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông
Hương[2]
Giới thiệu
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút kí đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên
bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương
6
như một biểu tượng của Huế.
Trong sách Tuyển chọn & giới thiệu Ngữ văn [3] có đoạn phân tích, tóm tắt như sau:
Vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một
thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt
như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù
sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như
một mặt hồ yên tĩnh v.v Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với
một vốn văn hóa phong phú và một vốn ngôn từ giàu có và đậm chất thơ của tác giả.
Đọc những trang viết về Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường (trong đó có bài Ai đã đặt
tên cho dòng sông?), nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, đã nhận xét:
Nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu Huế và hiểu Huế, thì đó là một lẽ đương nhiên.
Tôi muốn đi xa hơn, tìm một căn nguyên thấm kín để cắt nghĩa cho sự thành công mỹ
mãn của những trang viết ấy: phải chăng ở đây đã có một sự hòa hợp, tương giao, linh
ứng giữa cảnh sắc Huế, lịch sử Huế, văn hóa Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung
động, nhạy cảm, tinh tế. Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh
ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế. Ngỡ như
không khác được: viết về sông Hương là phải vậy, viết về “văn hóa vườn” ở Huế là
phải vậy. Đó là những áng văn, câu chữ được chọn lựa cân nhắc kỹ càng, vì hình ảnh
được sáng tạo đẹp đẽ, vì cảm xúc phong phú bất ngờ, mới mẻ [4]
Và theo Lê Uyển Văn, thì:
Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh
lên vẻ đẹp của con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái
thuyền xuôi ngược, những người con anh dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những
Bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng
mây trời. Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc
Tường với sông Hương cũng là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính
mình [5]
Trích tác phẩm
Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của
nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng.
Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu
đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc Ðại Việt qua những thế
kỷ trung đại. Thế kỷ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của người anh
hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của những
cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng
những chiến công rung chuyển.
Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá
xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự biến đời mình làm một chiến công, để rồi
nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước.
7
Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nàng đem áo ra phơi, một sắc áo cưới
của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo lục điều với loại vải vân thưa màu xanh tràm ***g
lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng
người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Ðấy cũng chính là màu
của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó
ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông
Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về
nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các
nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó
bỗng thay màu thực bất ngờ, "dòng sông trắng - lá cây xanh" trong cái nhìn tinh tế của
Tản Ðà, từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên "như kiếm dựng trời xanh"
trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bãng lãng
trong hồn thơ bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm
hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều rất Kiều,
trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả "Từ ấy".
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẫu
thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: - Ai đã đặt
tên cho dòng sông?
ĐỀ BÀI: VÀO ĐẠI HỌC CÓ PHẢI LÀ CON ĐƯỜNG TIẾN
THÂN DUY NHẤT CỦATHANH NIÊN HỌC SINH HIỆN NAY
KHÔNGVào đại học
Mở bài
Ngày nay, mỗi năm cứ vào kì thi tuyể sinh Đại học (vào đầu khoảng tháng bảy), cả
nước lại rộn ràng háo hức không khí thi cử, hàng triệu người đi thi, liên quan đến hàng
triệu gia đình. Cứ như thế vào Đại học là con đường tiến thân duy nhất của thanh niên
ngày nay vậy? Điều ấy đúng chăng?
Thân bài
1. Ý kiến đồng tình
a. Trước hết phải khẳng định vào Đại học là con đường tiến thân rất quan trọng và đẹp
đẽ, xứng đáng là mơ ước không chỉ của tuổi trẻ nước ta mà còn là của nhân loại. Qua
không khí học, thi cử của Hàn Quốc và Nhật Bản cũng đủ hiểu được tầm quan trọng
của việc lập nghiệp tuổi trẻ qua con đường đại học. Vì đã qua rồi cái thời tuổi trẻ trở
thành những con mọt sách thuần túy.
b. Thời đại của chúng ta là thời đại của khoa học kĩ thuật, thời đại của công nghệ thông
tin, thời đại của những con người chinh phục khoảng không vũ trụ. Nền kinh tế thế
giới cơ bản là nền kinh tế tri thức, phát triển từ nền tảng của tri thức hiện đại về mọi
phương diện. Những quốc gia có tổng thu nhập hàng năm lên đến hàng nghìn ty đô la,
GDP bình quân đầu người lên đến hàng chục nghìn tỷ đô la như Mỹ, Anh, Thụy Điển,
8
Đức. Chẳng phải chủ yếu nhờ vào sự đóng góp của tầng lớp thanh niên, nhất là thanh
niên tri thức có trình độ kĩ sư, thạc sĩ, tiến sĩ, những chuyên gia khoa học kĩ thuật đó
sao? Tri thức tạo ra những năng suất khổng lồ cho sản xuất. Tri thức tạo ra những
phương tiện phương thức quản lí mới đưa lại hiệu quả kinh tế tối ưu. Phải có tri thức
thì các chuyên ngành mới có thể tham gia vào hệ thống sản xuất và dịch vụ xã hội. Bác
Hồ đã từng khẳng định: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ.
Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”.
c. Đai học mở ra cho chúng ta một chân trời bao la của sự học, học nữa, học mãi. Ở
đại học, nơi tập trung những giảng viên giáo sư giỏi, những nhân tài “nguyên khí quốc
gia” – những người thầy, những trí thức ưu việt đó sẽ là người hướng đạo tốt nhất, có
ý nghĩa như những chìa khóa thần diệu giúp tuổi trẻ mở thẳng cánh của vào lâu đài
khoa học kĩ thuật và trí tuệ.
d. Mặt khác, dân tộc ta là một dân tộc có truyền thống hiếu học, giàu khát vọng trí tuệ.
“Những người học trò nghèo đã đóng góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên”.
Những địa phương còn nghèo nhưng con em vẫn có rất nhiều người đậu đại học. Họ
đã nêu một triết lí có ý nghĩa như đạo lí của dân tộc “không sợ nghèo tiền, bạc tài sản,
chỉ sợ nghèo chữ”. Họ luôn luôn tâm niệm một điều “để chữ lại cho con” như để lại
một tài sản vô giá.
Như vậy, rõ ràng cần phải coi việc vào đại học là một con đường tiến thân đẹp đẽ,
xứng đáng là một giấc mơ tốt đẹp. Phải dồn mọi tâm huyết thơi gian, sức lực để đạt kết
quả tốt trong kì thi đại học này.
2. Ý kiến không đồng tình, ý kiến phản đối
a. Tuy nhiên, vào đại học hoàn toàn không phải là con đường duy nhất. Con đường vào
đời, vào chân trời hạnh phúc ngày nay của tuổi trẻ cũng đã từng mở ra rất nhiều cánh
của. “Có cửa sơn xanh, có cửa màu ghi nhạt”. Cha ông ta bảo “Nhất nghệ tinh, nhất
thân vinh”. Làm công nhân, làm người thợ lành nghề, có thu nhập cao, đời sống no đủ,
gia đình yên ấm, vật chất dồi dào, tinh thần phong phú… chẳng phải là giấc mơ đẹp đó
sao? Nhà nước ta cũng đã mở ra các trường dạy nghề, đào tạo công nhân có kĩ thuật
cao. Các trường ấy cũng mở rộng của để đón chào các bạn trẻ.
b. Nếu hoàn cảnh gia đình còn khó khăn, trình độ học lực hiện tại còn có hạn thì hãy
tạm gác giấc mơ xa vào đai học, mà hãy thực hiện giấc mơ gần. Chọn ngay một nghề
chuyên môn, học tốt nghề nghiệp của mình. Đây là một con đường không kém triển
vọng và đặc biệt nó sẽ giải quyết được một nghịch lí đáng buồn ở nước ta hiện nay:
“thầy nhiều thợ ít”, số công nhân lành nghề, lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật
chất lại ít hơn số kĩ sư, cử nhân tốt nghiệp từ các trường đại học.
c. Các bạn hãy xem cuộc đời là một trường đại học. Đại văn hào nước Nga Goocki
xem đó là “trường đại học của tôi”. Dù tiến thân bằng con đường nào cũng phải không
ngừng học, học trong thực tế, học trong sách vở, bạn vẫn có thể leo lên được đỉnh vinh
quang (Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng chỉ học hết tiểu học mà trở thành nhà văn nổi
tiếng, nhiều người dân trở thành nhà phát minh sáng chế và được vinh danh là “giáo sư
thông minh”; Bills Gates – Chủ tịch tập đoàn Microsft, chưa hề qua một trường đại
9
học chính quy nào mà vẫn trở thành chuyên gia máy tính và tỉ phú bậc nhất của nhân
loại…).
Kết luận
Đừng nên xem vào đại học chỉ là con đường “chỉ có một và chỉ có một mà thôi” để đạt
bằng mọi giá như quay cóp trong thi cử, chạy bằng, chạy điểm. Và khi không được vào
đại học thì có những ý nghĩ tiêu cực.
Giáo viên: Nguyễn Quang Ninh.
Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo
Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Chí Phèo có lẽ là tác phẩm thành
công hơn cả trong việc đem lại cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ, không thể
quên về bức tranh đen tối ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám, đồng thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy
lòng căm ghét cái xã hội vạn ác đã chà đạp lên nhân phẩm con người, thương xót, cảm
thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa trong chế độ cũ.
Căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị
xã hội, trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng con người, nhất là những con
người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán
giai đoạn 30-45. Tuy nhiên, trong tác phẩm Chí Phèo,Nam Cao đã khám phá hiện thực
ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình bần cùng,
đói cơm, rách áo dù đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm
nhiều hơn đến một hiện thực con người: con người không được là chính mình, thậm
chí, không còn được là con người mà trở thành một con “quỉ dữ”, bởi âm mưu thâm
độc và sự chà đạp của một guồng máy thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy
tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lý giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống
dồi dào và trái tim nhân ái, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với những giá trị
hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể tìm thấy ở các nhà văn đương thời.
Thật ra trong bất cứ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực bao giờ cũng
đi liền với giá trị nhân đạo. Tác phẩm càng xuất sắc, những giá trị ấy càng thẩm thấu,
thống nhất với nhau, khó tách rời. Chí Phèo của Nam Cao cũng không nằm ngoài quy
luật ấy. Bởi vì nội dung phản ánh (và tiếp nhận) - yêu thương, trân trọng hay căm ghét,
khinh bỉ? Tách riêng ra hai giá trị là làm phá vỡ sự gắn liền hữu cơ của một chỉnh thể
nghệ thuật vốn dĩ thống nhất.
Đọc xong tác phẩm Chí Phèo ta thấy gì? Mở đầu tác phẩm là cảnh Chí Phèo ngật
ngưởng trên đường đi vừa chửi, từ trời đến người, tiếng chửi hằn học, cay độc và chua
xót. Kết thúc là cảnh Chí Phèo giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi. Bao trùm
lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một không khí ngột ngạt, bế tắc đến khủng khiếp, đầy
những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng quê Việt Nam trước Cách mạng,
với bao cảnh cướp bóc, dọa nạt, giết chóc, ăn vạ, gây gổ… trong đó Chí Phèo hiện lên
như một biếm họa tiêu biểu. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Bây giờ thì hắn trở thành
10
người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay là ngoài bốn
mươi. Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người: nó là
mặt một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?. Sau khi ở tù về, hắn
đã trở thành một con quỉ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có
ngày tháng bởi những cơn say triền miên. Hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say,
đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say
nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ hắn có ở
đời. Có lẽ
hắn cũng biết rằng hắn là quỉ dữ của làng Vũ Đại để tác quái cho bao nhiêu dân làng.
Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ
bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu nước mắt của bao nhiêu người lương thiện… Tất
cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua…”
Đoạn văn chất chứa bao nhiêu nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn được
cuộc sống của một con người. Những năng lực vốn có của một con người - năng lực
cảm xúc, nhận thức - hầu như bị phá hủy, chỉ còn lại năng lực đâm chém, phá phách.
Chí Phèo bị phá hủy nhân tính lẫn nhân hình như thế bởi đâu? Nhà văn không tập
trung miêu tả dông dài quá trình tha hóa ấy. Ông thiên về lí giải phân tích cái cội
nguồn sâu xa dẫn đến kết cục bi thảm của nó, chỉ bằng một số phác thảo đơn sơ về Bá
Kiến, về nhà tù, về bà cô Thị Nở, về dư luận xã hội nói chung… Trong hàng loạt mối
liên kết ấy, người đọc dễ dàng nhận ra: sở dĩ Chí Phèo (và không chỉ Chí Phèo mà cả
những Năm Thọ, những Binh Chức - cả một tầng lớp được nhà văn cá thể hóa qua
nhân vật Chí Phèo) từ một thanh niên lành như cục đất hoá thành con quỉ dữ là bởi vì
Chí, ngay từ thuở lọt lòng đã thiếu hẳn tình ấp ủ yêu thương, và đặc biệt khi lớn lên,
chỉ được đối xử bằng rẻ khinh, thô bạo và tàn nhẫn. Thủ phạm trực tiếp là Bá Kiến
được nhà văn miêu tả là một con cáo già “khôn róc đời”, “ném đá giấu tay”, “già đời
trong nghề đục khoét”, biết thế nào là “mềm nắn rắn buông”, “Hay ngấm ngầm đẩy
người ta xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hay đập bàn đập ghế đòi cho
được 5 đồng, nhưng được rồi lại vứt trả lại 5 hào vì thương anh túng quá!”. Chính hắn
đã lập mưu đẩy Chí Phèo vào chỗ tù tội oan uổng và sau đó sử dụng Chí Phèo như một
tay sai đắc lực phục vụ cho lợi ích và mưu đồ đen tối của mình. Không có Bá Kiến thì
không có Chí Phèo, nhưng Chí Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm
chí là phương tiện tối ưu để thống trị: “không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị
mấy thằng đầu bò”. Chính Bá Kiến đã rút ra cái kết luận mà theo hắn rất chí lí ấy. Là
một tội nhân, nham hiểm, nhẫn tâm, nhưng Bá Kiến lại hiện ra bề ngoài như một kẻ ôn
hòa, xởi lởi, biết điều, khiến người đời phải nhìn bằng cặp mắt “kính cẩn”… Vì thế mà
hắn đã lường gạt được bao nhiêu dân chất phác lương thiện.$pageOut $pageIn Chí
Phèo trở thành tay chân đắc lực của hắn; thật sự biến thành công cụ, phương tiện thống
trị cho kẻ thù của mình mà không tự biết. Bá Kiến hiện ra trong tác phẩm Chí Phèo
như một nhân vật điển hình, sống động và cá biệt, tiêu biểu cho một bộ phận của giai
cấp thống trị, được miêu tả, khám phá dưới một ngòi bút bậc thầy. Cùng với hắn là Lý
Cường, là chánh Tổng, là đội Tảo… Chính bọn chúng đem lại không khí ngột ngạt
khó thở cho nông thôn Việt Nam thành cái thế “Quần ngư tranh thực” (bọn đàn anh
chỉ là một đàn cá tranh mồi, chỉ trực rình rập tiêu diệt nhau). Chính chúng là thủ phạm
gây ra bi kịch của những Chí Phèo… Số phận của Năm Thọ, Binh Chức, tuy chỉ được
nhắc qua tác phẩm, nhưng cũng góp phần chỉ ra tính hệ thống và phổ biến của phương
cách tha hóa người dân trong sự thống trị của chúng. Đằng sau những Bá Kiến, Lý
11
Cường, Chánh Tổng… như một sự hỗ trợ gián tiếp nhưng tích cực là hệ thống nhà tù
dã man, bẩn thỉu - cả một điều kiện môi trường bất hảo. Quá trình Chí Phèo ở tù không
được miêu tả trực tiếp, chỉ biết rằng khi vào tù Chí Phèo là người hiền lành lương
thiện. Ra khỏi tù, hắn trở về với cái vẻ hung đồ, cái thói du côn ương ngạnh học được
từ đấy. Nhà văn chỉ nói có thế. Nhưng như thế với bạn đọc thông minh cũng đã quá
đủ!
Bằng bút pháp độc đáo, tài hoa linh hoạt, giàu biến hóa, Nam Cao khi tả, khi kể theo
một kết cấu tâm lý và mạch dẫn dắt của câu chuyện với một cách thức bề ngoài tưởng
chừng như khách quan, lạnh lùng và tàn nhẫn, nhưng chất chứa bên trong biết bao nỗi
niềm quằn quại, đau đớn trước thân phận đau đớn của kiếp người. Lồng vào bức tranh
hiện thực trên kia là thái độ yêu ghét, là cách phân tích và đánh giá những vấn đề về
hiện thực mà nhà văn đặt ra. Ngay việc lựa chọn một nhân vật cùng đinh thống khổ
nhất của xã hội làm đối tượng miêu tả và gởi gắm biết bao thông cảm, suy tư thương
xót… tự nó đã mang nội dung nhân đạo. Nhưng giá trị
nhân đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn đối với
nhân vật bị tha hóa đến tận cùng. Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật
bản tính tốt đẹp vốn dĩ, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy
mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa
thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng
duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính
người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi,
hất hủi. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn
ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền
chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh
ấy bao giờ chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn, trong cái phút
tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này
còn sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may Thị Nở mang bát cháo hành tới. Nếu không,
hắn đến khóc được mất trong tâm trạng như thế… Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí
Phèo xao xuyến bâng khuâng: Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng
với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền! “Hắn thèm lương thiện – Hắn khát
khao làm hòa với mọi người”… Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình
thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn
có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô
kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới
biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ –
Nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh phúc
thật hiếm hoi của Chí Phèo…
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với
Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và
thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu
rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí
quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả
của bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ… đã bẻ gãy chiếc cầu
12
nối Chí với cuộc đời. Và, như Đỗ Kim Hồi nói, “một khi người được nếm trải chút ít
hương vị làm người thì cái xúc cảm người sẽ không thể mất… Đấy là mối bi thảm tột
cùng mà cách giải quyết chỉ có thể là cái chết”. (Tạp chí Văn học số 3-1990)
Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng
kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách: Hãy cứu lấy con
người! Hãy yêu thương con người!
Đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc
rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá
trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử,
mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm
hồn người đọc mọi thời đại.
Giá trị văn chương của "Bình ngô đại cáo"
Đã nhiều thập kỷ nay, Bình Ngô đại cáo được đưa vào chương trình dạy-học môn Văn
(sau gọi là môn Ngữ văn) ở cấp cuối trường phổ thông.
Thường thì người ta cứ mặc nhiên dạy- học nó như một văn bản văn chương mà không
mấy người đặt ra vấn đề phải chăng nội dung dạy- học đó phù hợp với tính chất môn
học hay đã lấn sân sang môn học khác, môn Lịch sử chẳng hạn, và cùng với điều đó lại
có thể bỏ sót một số giá trị văn chương nào đó bởi trước tác này mang tính chất
nguyên hợp, không chỉ là “văn sử bất phân” mà ngay ở phần văn cũng là tổng hoà của
nhiều loại văn: văn nghị luận, văn tự sự, văn trữ tình… Và mặc dầu bản hùng văn này
đã được nhiều người nghiên cứu dưới các góc độ, đạt được nhiều thành tựu, song vẫn
có những vấn đề cần phải nhận thức lại.
Bình Ngô đại cáo trước hết là một văn kiện lịch sử. Cuối năm 1427 (cũng có những tài
liệu cổ cho rằng đầu năm 1428) được lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại
cáo và văn bản này được công bố tháng 4 năm 1428 bố cáo cho toàn quân dân biết sự
nghiệp bình Ngô đã hoàn toàn thắng lợi, quân thù đã thảm bại và phải cút khỏi nước
ta, một vận hội mới đã mở ra cho giang sơn xã tắc. Chỉ với tư cách văn bản quan
phương Bình Ngô đại cáo mới được đưa vào bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư(1)
chứ không phải vì nó là tác phẩm văn chương xuất sắc của một bề tôi. Tuy nhiên, các
thể loại văn chương Việt Nam thời trung đại-như viện sĩ Đ.X. Likhatsôp nhận thấy ở
thể loại văn học Nga cổ- “là để phục vụ nhằm thoả mãn cả một kết hợp phức tạp
những nhu cầu xã hội và tồn tại gắn liền với điều đó trong một sự lệ thuộc với nhau rất
chặt chẽ”(2), nên từ khi ra đời, Bình Ngô đại cáo không phải chỉ được tiếp nhận chủ
yếu như một văn bản hành chính mà còn như một kiệt tác văn chương.
Cáo là một thể trong loại văn chiếu lệnh, loại văn được người xưa coi trọng nhất. Luận
ngữ ghi lời của đức Khổng Tử khen nước Trịnh cẩn trọng khi soạn thảo loại văn bản
này: Tử viết: “Vi mệnh, Tỳ Thầm thảo sáng chi. Đông Lý Tử Sản nhuận sắc chi Thế
Thúc thảo luận chi. Hành nhân Tử Vũ tu sức chi” (Đức Khổng Tử nói rằng: “Khi nước
Trịnh làm tờ từ mệnh gửi cho nước khác, ông Tỳ Thầm khởi thảo, ông Thế Thúc khảo
cứu bàn bạc, quan hành nhân là ông Tử Vũ sửa chữa thêm bớt, ông Tử Sản ở đất Đông
Lý trau chuốt lại”). Tỳ Thầm, Thế Thúc, Tử Vũ, Tử Sản là những người tài nổi tiếng
đương thời, cả bốn người hợp sức lại để viết cho thấy thái độ của người đương thời về
loại văn liên hệ trực tiếp với chính sự này. “Chính giả, chính dã” (Chính trị là chính
nghĩa - Luận ngữ). Một phương tiện để làm rõ chính nghĩa của các đế vương và các
13
triều đại chính là văn chiếu lệnh. Văn chương thẩm mỹ để ngâm ngợi, chỉ cho thấy tài
năng của cá nhân trong khi văn chiếu lệnh phục vụ đắc lực cho chính sự, gắn bó với sự
hưng vong của vương triều và quốc thể. Văn chương thời trung đại khác văn chương
hiện nay ở nhiều phương diện, trong đó bộ phận khác biệt lớn nhất là những thể loại
chức năng, bởi như Đ.X. Likhatsôp đã chỉ rõ những thể loại này nhằm đáp ứng đồng
thời nhiều nhu cầu xã hội, khác với hiện nay đã có sự khu biệt về thuộc tính và chức
năng của các hình thái ý thức. Tìm hiểu những văn bản loại này cần kết hợp linh động
giữa tư duy lịch đại và tư duy đồng đại. Hiển nhiên người ngày nay tiếp nhận chúng
không giống người thời trung đại, nếu không có quan điểm lịch sử cụ thể sẽ bỏ qua
hoặc không đánh giá đúng những giá trị đặc thù, mà đây lại là một trong những
nguyên cớ để chúng có mặt trong chương trình dạy-học ngữ văn ngày nay.
Cáo là một thể của loại văn học chức năng, loại trước tác có yêu cầu đầu tiên và cao
nhất là “từ nghiêm nghĩa chính” (ngôn từ chuẩn mực, ý nghĩa chính đáng). Bình Ngô
đại cáo là một tác phẩm đỉnh cao nên nó mang thuộc tính phổ quát của các hiện tượng
điển hình, là nghiên cứu nó sẽ không chỉ biết về một cá thể mà còn nhận thức được
một phạm vi rộng hơn thuộc cấp độ loại - ở đây là loại văn học chức năng. Trước tác
này ra đời cách đây đã năm thế kỷ, khi ấy các thể loại văn học chức năng còn mang
đậm tính chất nguyên hợp, bởi vậy bản đại cáo còn tích hợp nhiều giá trị khác, mà ở
đây chúng ta quan tâm tìm hiểu là giá trị văn chương. Với đặc điểm của tư duy người
đương thời, giá trị văn chương không ngăn trở, chế ước giá trị hành chính của văn bản,
trái lại, như thực tế cho thấy, đã tạo thêm sức sống cho văn bản quan phương này.
Giá trị của Bình Ngô đại cáo trước hết là ở phương diện một trước tác chính luận, loại
văn bản được đánh giá cao khi có hệ thống lập luận chặt chẽ, thể hiện sâu sắc và sinh
động những vấn đề có ý nghĩa trọng đại của quốc gia dân tộc. Với Bình Ngô đại cáo,
không phải nhà chuyên môn cũng dễ nhận ra được lôgic lớn của toàn bài và sự thứ lớp
trong lập luận của từng phần. Tiêu biểu cho tầm khái quát của văn bản là đoạn đầu
(Nhân nghĩa chi cử… quyết hữu minh trưng). Đoạn này như một định nghĩa rất tiêu
biểu về quốc gia phong kiến, được đánh giá là cống hiến có ý nghĩa thế giới, khiến cho
các thế hệ sau thán phục, tự hào. Đây là thành tựu đột xuất của lịch sử tư tưởng Việt
Nam thời ấy, nhưng với Nguyễn Trãi, là thành tựu tất yếu vì tất cả mọi ý niệm đó đều
đã có trong Quân trung từ mệnh tập, đây chỉ là tập đại thành. Thành quả đó do ba
nguyên nhân. Trước hết do tài năng siêu việt của nhà trí thức-người anh hùng Nguyễn
Trãi vì chính ông chứ không ai khác đã từ tầm cao thời đại, khái quát những giá trị to
lớn của đất nước và đồng bào, của văn hoá Việt. Nguyên nhân thứ hai thuộc thời đại
đầy biến động to lớn, khiến vấn đề dân tộc dân chủ được đặt ra cực kỳ gay gắt. Người
trí thức Nguyễn Trãi đã được tôi luyện trong hoàn cảnh đó, ông nhìn thấy giang sơn và
dân nước mình trong máu và nước mắt trước khi thấy họ trong hào quang chiến thắng.
Với một chút hài hước có thể nói nguyên nhân thứ ba thuộc “công” của giặc Minh.
Chính vì trong thời gian dài phải thường xuyên đương đầu với kẻ thù mạnh, thâm độc
và gian xảo như giặc Minh khiến tư duy Nguyễn Trãi thêm sắc sảo. Chẳng hạn luận
điểm vĩ đại của ông Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân chính là để phản bác luận điệu
xảo trá của quân Minh, vạch rõ bộ mặt thật của chúng đằng sau chiêu bài nhân nghĩa
“hưng diệt kế tuyệt”, tư tưởng này đã được bộc lộ cụ thể hơn ở Hựu đáp Phương
Chính thư (số 5)(3), Tái phục Phương Chính thư (số 8).
Giá trị văn chương của Bình Ngô đại cáo thấm nhuần ở toàn bộ tác phẩm do người
14
viết luôn nhìn nhận sự vật, hiện tượng cùng với một trí tuệ sắc sảo là một tâm hồn tinh
nhạy, con tim giàu cảm xúc. Điều này thể hiện kín đáo nhưng mạnh mẽ ở ngay cả
đoạn đầu, đoạn chứa đựng những khái quát về lịch sử dài lâu và quang vinh của đất
nước, đoạn chứa đựng những tư tưởng lớn của một bản tuyên ngôn độc lập. Niềm tự
hào to lớn, kiêu hãnh vì được làm con dân của một dòng giống anh hùng và văn hiến
được tác giả thể hiện cô đúc qua những phó từ ngắn gọn: thực (Ngã Đại Việt chi quốc,
thực vi văn hiến chi bang = Nước Đại Việt ta thật là nước văn hiến)(4), ký (Sơn xuyên
chi phong vực ký thù = Núi sông bờ cõi đã chia), diệc (Nam Bắc chi phong tục diệc dị
= Phong tục Bắc Nam cũng khác). Ở những đoạn sau, khi lên án tội ác quân xâm lược,
kể lại những khốn khó của nghĩa quân buổi đầu dựng nghiệp, miêu tả những bước
đường thắng lợi của quân dân, đặc biệt đoạn bố cáo kết thúc chiến tranh… thì cảm xúc
càng có điều kiện biểu lộ mạnh mẽ, phong phú.
Giá trị văn chương còn biểu hiện ở sự sáng tạo hình tượng và hình ảnh, điều này liên
quan, hay nói đúng hơn là hệ quả của đặc điểm trên. Từ những năm tuổi trẻ đến những
ngày tháng cuối đời, Nguyễn Trãi luôn biểu hiện một cốt cách nghệ sĩ lớn, chỉ có
những điều kiện nào đó buộc ông phải tiết chế phẩm chất đẹp đẽ này, còn khi tình
huống cho phép, ông tự bộc lộ một cách tự nhiên sinh động. Chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần nhân văn sâu sắc của Bình Ngô đại cáo có sức tác động mạnh mẽ, có sự
trường tồn một phần lớn là do điều này. Nguyễn Trãi diễn tả tư tưởng bằng những hình
tượng sinh động, thật khó phân định đâu là từ nguồn sách vở, đâu là sáng tạo riêng.
Biểu hiện sức mạnh to lớn của nghĩa quân, ông không liệt kê số liệu mà dựng hình ảnh
Ẩm tượng nhi hà thuỷ can; Ma đao nhi sơn thạch khuyết (Gươm mài đá, đá núi cũng
mòn; Voi uống nước, nước sông phải cạn). Diễn tả sự đồng tâm nhất trí trong quân
ngũ vì nghĩa lớn, tác giả mô tả cảnh Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm
(Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào). Chú dẫn câu này có
người đưa ra điển tích Trung Hoa thời Chiến Quốc, còn người đi thực địa cho biết
ngày nay ở miền tây Thanh Hoá còn di tích hòn đá Khao và suối Rượu, cũng là nêu
những sự thực hiển nhiên.
Nguyễn Trãi vâng mệnh của đấng chí tôn, soạn một văn bản hành chính, điều đó đã rõ
ràng, nhưng cũng không kém phần hiển nhiên là trong tâm thế tác giả có cả hai mục
đích đều lớn và không mâu thuẫn: soạn một văn bản hành chính và sáng tạo một công
trình văn chương. (Ăngghen, trong Thư gửi Stáckenbua có viết rằng con người sáng
tạo ra lịch sử của mình, nhưng là sáng tạo trong những điều kiện thực tế đương tồn tại
và những quan hệ mà người ta phải thích ứng). Điều này biểu hiện ở chỗ ông sử dụng
nhiều thủ pháp tu từ, nhiều chất liệu văn chương điển phạm và nhất là rất có ý thức, có
năng lực tạo nên tính nhạc cho ngôn từ. Văn biền ngẫu chỉ yêu cầu cơ bản là mỗi câu
gồm hai vế cân xứng còn độ dài câu văn, sự ngắt nhịp là do cảm quan của từng người
viết. Có người chỉ thấy thuận lợi (do “có khuôn”) mà không thấy khó khăn đối với tác
giả xưa. Trong cái khuôn chung ấy mà biểu lộ được thần thái riêng của từng nội dung
và từng cá tính là điều khó khăn, tài năng lớn cộng với bản lĩnh cao mới tạo nên được.
Nguyễn Trãi rất linh hoạt chính ở chỗ đầy bó buộc này. Nhạc tính của câu văn Bình
Ngô đại cáo đa dạng, phù hợp với nội dung câu văn tự sự, trữ tình hay nghị luận. Ông
tuyên ngôn bằng câu súc tích, chắc nịch Ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi
bang. Miêu tả tội ác quân thù, ông lại sử dụng thủ pháp trùng điệp, như cố ghi hết tội
ác to lớn, trời không dung, đất không tha của chúng.
15
Chúng tôi quả rất băn khoăn trước nhận định: “Cáo thường được viết bằng văn biền
ngẫu”(5). Nhận định này có thể làm cho người dạy- học Bình Ngô đại cáo ở trường
phổ thông trung học hình dung theo hai hướng. Một là cho rằng ở nước ta, ngoài
“thiên cổ hùng văn” này còn có những bản cáo khác nữa, thực ra, trong những bộ quốc
sử hiện còn đều không nói tới các bản đại cáo nào khác. Đọc sử sách cũ đôi khi chúng
ta gặp cụm từ “đại cáo thiên hạ” thì chỉ với ý nghĩa là nhà vua hoặc triều đình, hoặc
người đứng đầu một phong trào ban bố rộng rãi điều gì đó, còn không dễ mà có được
những bản đại cáo như thời kỳ đầu của nhà Hậu Lê. Phải có điều kiện song hành, bên
cạnh một chiến công chính nghĩa lừng lẫy còn phải có một thiên tài văn chính luận.
Ngoài thời Lê Lợi và Nguyễn Trãi, chúng ta thấy còn có thời Quang Trung Nguyễn
Huệ và Ngô Thì Nhậm. Biết đâu vị hoàng đế anh hùng và thiên tài họ Ngô từng nghĩ
đến điều này, nhưng đứng trước Bình Ngô đại cáo các vị lại có cảm nghĩ như Lý Bạch
xưa lên lầu Hoàng Hạc cảm xúc dồi dào mà ngần ngại không đề thơ vì có thơ Thôi
Hiệu trên đầu! Ngoài ra người dạy- học Ngữ văn ở phổ thông trung học có thể sẽ hình
dung rằng trước Bình Ngô đại cáo, ở Trung Quốc thể văn này đã được viết bằng văn
biền ngẫu và cùng với nó, đã có hình thức hoàn chỉnh, và theo cách ứng xử của văn
chương thời trung đại, Nguyễn Trãi chỉ còn “lắp” câu chữ của mình vào.
Thực ra, cho đến nay khi nói về thể cáo, ngoài Bình Ngô đại cáo các chuyên gia văn
học trung đại Việt Nam cũng chỉ nhắc đến các bài cáo trong Thượng Thư. Các văn bản
trong Thượng Thư ra đời trước công nguyên nhiều thế kỷ(6) còn văn biền ngẫu xuất
hiện thời Hán, Ngụy và thịnh hành thời Lục triều. GS. Mai Quốc Liên cho rằng:
“Nguyễn Trãi đã với tay ra hàng hai mươi thế kỷ để dùng lại một thể loại cổ xưa hầu
như đã chết trong văn học Trung Quốc- cáo- và đưa vào đó một nội dung hoàn toàn
mới”(7). Thật vinh dự cho Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo vì đã làm nên sự độc đáo
trong văn học trung đại Việt Nam là chỉ một tác phẩm làm nên một thể loại, và nhìn
trong sự liên thông thể loại văn học Việt-Trung thời trung đại, đã làm nên đỉnh cao của
một thể loại. Với những gì chúng ta đã biết, có thể nói rằng Nguyễn Trãi chỉ kế thừa
tên gọi và chức năng thể loại của thể cáo Trung Hoa.
Bình Ngô đại cáo được viết để bố cáo việc hoàn tất một chiến công vệ quốc vĩ đại, bởi
vậy đương nhiên phần lớn ngôn từ sẽ dành cho việc ghi chép lại quá trình chiến đấu
gian khổ và chiến thắng của quân dân ta và quá trình thất bại dẫn đến thảm bại hoàn
toàn của quân Minh. Giá trị sử học của đoạn văn này rất nổi bật thể hiện ở sự ghi chép
trung thực nhiều sự kiện lịch sử và khái quát sâu sắc nhiều chân lý lớn của thời đại.
Bên cạnh đó nghệ thuật sáng tạo văn chương của tác giả cũng hết sức xuất sắc. Những
chặng đường chính của quá trình chinh chiến hàng chục năm được kể lại tường tận mà
không bề bộn vì bút pháp của tác giả rất linh hoạt: vừa kể lại những chiến thắng của
quân ta, vừa đúc kết những nguyên lý quân sự và những chân lý nhân sinh; vừa tự sự
về những thất bại liên tiếp của quân giặc vừa kết hợp luận tội chúng, đặt chúng trong
sự tương phản với quân ta. Sự lúng túng, thất bại của quân xâm lược không chỉ thấy
qua những sự kiện mà còn thể hiện bằng những bức biếm họa từ vua quan đến tướng sĩ
phương Bắc.
Cho đến gần đây quả là vẫn còn có vấn đề trong cách ứng xử với một câu văn của
Bình Ngô đại cáo, câu Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu nhi
trí nhiên dã (Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như
16
vậy). Bản chữ Hán trong Nguyễn Trãi toàn tập tân biên (in theo Hoàng Việt văn tuyển
của Bùi Huy Bích) có câu này, bản phiên âm Hán- Việt cũng có. Toàn tập sử dụng hai
bản dịch, bản dịch thứ hai không dịch nghĩa câu này. Trước đây ba thập kỷ, cuốn Lịch
sử Việt Nam tập I, do Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam biên soạn (Nxb. KHXH
1976) in gần như toàn bộ bản dịch Bình Ngô đại cáo (tr.258-261) chỉ lược bỏ câu trên,
thay bằng dấu ba chấm (…). Một chuyên gia văn học Việt Nam trung đại coi câu văn
này là “một tỳ vết nhỏ”(8). Những cách nhìn nhận như vậy cách đây hai, ba thập kỷ có
thể hiểu được nhưng ngày nay thiết tưởng cần thay đổi cho tương xứng với các thành
quả của khoa học xã hội và mặt bằng dân trí. Chúng ta cùng nhìn lại xem trong bản đại
cáo, Nguyễn Trãi thể hiện lực lượng siêu hình như thế nào. Kết thúc bản cáo trạng
quân xâm lược, tác giả viết:
Thần nhân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
(Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần nhân chịu được).
Khi nhìn lại khó khăn chồng chất của buổi đầu khởi nghĩa, Nguyễn Trãi cho rằng: Cái
thiên dục khốn ngã, dĩ giáng quyết nhiệm/ Cố dư ích lệ chí, dĩ tế vu gian (Trời thử
lòng giao cho mệnh lớn, Ta gắng chí khắc phục gian nan). Ở đoạn miêu tả cảnh hai
bên giao tranh đẫm máu, tác giả viết: Phong vân vị chi biến sắc/ Nhật nguyệt thảm dĩ
vô quang (Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải
mờ).
Còn câu văn bị đánh giá tiêu cực, thậm chí bị lược bỏ là ở đoạn cuối, cắt nghĩa nguyên
nhân của chiến công bình Ngô vĩ đại. Chúng ta đã thấy ở cảm nhận của Nguyễn Trãi
thể hiện trong suốt bản đại cáo, lực lượng siêu hình luôn song hành, tương giao với
con người. Ở thế kỷ XV mà không thụ cảm thế giới như vậy thì mới là lạ. Xoá bỏ hoặc
đánh giá tiêu cực câu văn đó là chỉ phủ nhận một khâu trong cả chuỗi mắt xích, hơn
nữa theo chúng tôi, đây lại là trường hợp dễ được người ngày nay cảm thông nhất.
Suốt bản đại cáo Nguyễn Trãi đã trình bày một cách hệ thống và biện chứng những
yếu tố vật chất và tinh thần đưa đến toàn thắng của quân ta, thảm bại của kẻ thù, bởi
vậy câu văn này không nhằm phủ nhận sự nỗ lực chiến đấu hy sinh để chiến thắng của
quân dân ta trong hàng chục năm trời, nó chủ yếu biểu lộ lòng tri ân tổ tiên, là một
cách khẳng định chính nghĩa tất thắng (những điều đã trở thành nội dung đạo lý Việt
Nam). Ngày nay tất nhiên các văn bản quan phương không còn viết như thế nhưng
trong rất nhiều tình huống của đời sống, người Việt Nam thuộc nhiều tầng lớp còn trữ
tình theo cách đó. Câu văn làm cho tính chất biểu cảm của văn bản thêm đậm đà, giá
trị văn chương càng nổi bật.
Đã có mấy cách giải thích về chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo, trong đó có người cho
rằng Nguyễn Trãi sử dụng cách gọi của dân gian, “Nguyễn Trãi đã dùng một từ mà
nhân dân quen dùng”, “để chỉ quân Trung Quốc, người Trung Quốc xấu xa, tàn ác, với
hàm ý khinh bỉ, phê phán”(9). Cách hiểu này đầu tiên do một nhà nghiên cứu văn học
dân gian nêu lên trong dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi (1980) và được
một số nhà nghiên cứu tán đồng. Bản thân chúng tôi cũng có lúc tin như thế nhưng về
sau, khi có điều kiện đọc trước tác của Nguyễn Trãi nhiều hơn, kết hợp với ngẫm nghĩ
thêm thấy rằng cách giải thích đó chưa hợp lý. Trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi
gọi kẻ thù bằng hai cách, Ngô và Minh, mỗi cách dùng một lần, Ngô dùng ở nhan đề
17
và Minh ở câu Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân (Giặc Minh thừa dịp tàn hại
dân ta- Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Sđd, tr.37). Chỉ căn cứ vào Bình Ngô đại cáo thì
sự đối lập về sắc thái ý nghĩa của hai cách gọi chưa rõ, chưa đủ để kết luận, bởi vậy
cần nhìn nhận thêm hai cách gọi này trong các trước tác khác của Nguyễn Trãi, có ý
nghĩa nhất là những văn bản viết trước bản đại cáo, trong Quân trung từ mệnh tập.
Chúng tôi đã khảo sát tỷ mỉ và trình bày trong một tiểu luận(10), ở đây chỉ nêu vắn tắt
một số kết luận. Trong Quân trung từ mệnh tập cả hai cách gọi đều được sử dụng
nhiều lần (Những văn bản sưu tập được có lẽ chưa đầy đủ - có một khoảng trống mấy
năm không thấy có văn bản nào- bởi vậy thống kê số lần sử dụng hai từ này không
phản ánh đúng tình hình). Tình trạng một văn bản dùng cả hai tên gọi hoặc chỉ dùng
một trong hai đều phổ biến. Có những trường hợp rất đáng lưu ý. Chẳng hạn nếu cách
gọi là Ngô mang ý nghĩa trên thì trong văn bản có tính chất đối nội như Tấu cáo văn
(số 22) hẳn sẽ dùng cách định danh này, nhưng không, ở đây chỉ dùng cách gọi Minh
(hai lần: Minh tặc, cường Minh). Tuy nhiên trường hợp có sức nặng nhất để phản bác
ý kiến cho rằng đương thời cách gọi Ngô đã mang ý khinh bỉ chính là văn bản Tái dụ
Vương Thông thư (số 35). Trong thư này Nguyễn Trãi chỉ dùng cách gọi Ngô, ba lần:
Kim Ngô chi cường bất cập Tần (Nay Ngô mạnh không bằng Tần), phi Ngô quốc sở
năng đoạt dã (thì Ngô làm sao có thể cướp được), cập Ngô quốc chi nhân (cũng như
người Ngô). Vương Thông là tổng binh, là viên quan có quyền cao nhất trong đám
tướng lĩnh viễn chinh ở nước ta, là võ tướng nhưng y thuộc loại thông hiểu chữ nghĩa.
Đối với tên này, Nguyễn Trãi luôn chủ trương binh vận (thư cho Vương Thông nhiều
nhất, xưng hô nhã nhặn, viết dài, dùng nhiều tri thức kinh điển để bàn bạc, thuyết
phục). Bức thư này viết lúc thế thắng đã thuộc về ta, nhưng Nguyễn Trãi vẫn giữ cách
ứng xử lịch sự với một đại quan của thiên triều- một kiểu “lạt mềm buộc chặt”, là cách
khéo léo nhắc nhở hắn cách hành xử cho hợp với một đại nhân, đề phòng “chó cùng
rứt dậu”. Là người hiểu sâu sắc nhân tình thế thái, lẽ nào Nguyễn Trãi hành xử bằng
cách miệt thị tổ tiên kẻ mà mình đang áp dụng chiến thuật “tâm công”? Trong Ngữ
văn 10, bức thư này được in gần kề Bình Ngô đại cáo, nếu giải thích chữ Ngô trong
bản đại cáo là cách định danh biểu thị sự khinh bỉ thì không thuyết phục được người
dạy- học.
Tóm lại, chỉ căn cứ vào Bình Ngô đại cáo thì sự đối lập sắc thái ý nghĩa giữa hai cách
gọi Minh và Ngô không rõ, và tìm hiểu những văn bản trước đó được tập hợp trong
Quân trung từ mệnh tập thì chưa có sự đối lập này.
Ngoài những trường hợp đã được các nhà nghiên cứu dẫn ra, chúng tôi thấy thêm vài
trường hợp gọi người phương Bắc là Ngô với ý khinh thị. Đây là một câu trong bài
Dăn đời phú (khuyết danh):
Báng đầu thằng trọc, không nể đầu ông sư; cứng cổ cứng đầu, ai xá những ngu dại -
Vắng mặt thằng Ngô, lúc có mặt ông sứ, sấp mày sấp mặt vẫn nghe nhời nói xưa nay.
Về đoản ngữ Vắng mặt thằng Ngô, lúc có mặt ông sứ, soạn giả Vũ Khắc Tiệp giải
thích: “Khi trước nước ta phải phục về nước Tàu, khi có quan sứ ở nước Tàu sang, thì
ta phải chiều chuộng rất cung kính, nhưng khi vắng mặt thì lại gọi đó là thằng
Ngô”(11). Và đây là câu mà theo tác giả Thượng Chi văn tập, là một câu ca dao:
Ba mươi tết, tết lại ba mươi,
Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú Khách(12).
Ở một số nước, Trung Quốc chẳng hạn, sáng tác dân gian được văn bản hoá rất sớm
18
(ví dụ Kinh Thi), còn ở ta những ghi chép văn học dân gian xuất hiện muộn, tạo nên
một khó khăn khi nghiên cứu mối quan hệ giữa hai bộ phận văn chương dân tộc-văn
chương bác học và văn chương dân gian, là có những giá trị rất gần gũi, có thể khẳng
định được rằng có sự tiếp thụ, nhưng không thể chỉ rõ được tác giả văn học viết sử
dụng của dân gian hay sáng tác của họ được dân gian hoá. Riêng trường hợp chữ Ngô
đang bàn, có thể phân định được bằng phép loại trừ. Chúng tôi đã chứng minh, trong
trước tác Nguyễn Trãi chữ Ngô chưa đối lập với chữ Minh về sắc thái ý nghĩa, điều
này chỉ xuất hiện về sau, bởi vậy nên khẳng định trên cơ sở những chứng cớ khách
quan, “chính những trước tác của Nguyễn Trãi mà tiêu biểu là Bình Ngô đại cáo đã
góp phần quan trọng đối với việc lưu giữ ký ức lịch sử về quân Minh xâm lược thâm
độc, tàn bạo và tư thế vĩ đại của nước Việt thời ấy góp phần hình thành trong tâm thức
dân gian Việt Nam cách gọi người phương Bắc bằng từ Ngô với ý nghĩa như chúng ta
đã thấy”(13). Chúng ta đều biết có nhiều cách để lưu giữ ký ức lịch sử trong đó tác
phẩm văn chương đích thực có ưu thế các lĩnh vực khác khó bì, vì ở đây có sự hài hoà
giữa nhận thức và cảm xúc, là “hình thức nhuần nhị nhất của tư tưởng”. Sức sống của
chữ Ngô cũng là một cứ liệu khẳng định giá trị văn chương xuất sắc của Bình Ngô đại
cáo.
Trước tác này của Nguyễn Trãi đã trở thành một giá trị cổ điển, gắn với nó có một
nhận định cũng đã trở thành cổ điển, rằng đây là một “thiên cổ hùng văn” (Vũ Khâm
Lân, thế kỷ XVII). Nhận định này rất tiêu biểu cho sự thụ cảm của người xưa về Bình
Ngô đại cáo, xem nó như một sáng tác văn chương.
Bình Ngô đại cáo đã được nhiều dịch giả thuộc nhiều thế hệ chuyển ra quốc ngữ và
nhìn chung có thể thấy rằng người dịch đến với nguyên tác trước hết cũng không phải
như một văn kiện lịch sử, qua việc theo các chuẩn mực tín, đạt, nhã của một văn bản
văn chương. Điều này thấy rõ ở xu hướng triệt để bảo lưu tính chất biền ngẫu và nhạc
tính của câu văn, ngay cả ở những trường hợp để đạt được điều đó phải dịch đảo câu
trong nguyên tác (các câu Nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh; Ẩm tượng nhi hà thuỷ
can, Ma đao nhi sơn thạch khuyết). Có những câu dịch so với nguyên tác đã được hình
tượng hoá (Tuấn sinh linh chi huyết, dĩ nhuận kiệt liệt chi vẫn nha được dịch thành
“Thằng há miệng đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”).
Chỉ với Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã xứng đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất,
song ông còn có Quân trung từ mệnh tập- tập văn chính luận quy mô đầu tiên của
nước ta. Những trước tác này cùng với thơ của thi hào đã làm nên một hiện tượng độc
đáo trong văn học trung đại Việt Nam: Nguyễn Trãi là tác gia duy nhất có sự tương
xứng kép, ở bậc cao, tương xứng giữa văn chính luận và văn chương thẩm mỹ, tương
xứng giữa trước tác bằng chữ Hán và bằng quốc âm.
Hình tượng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông
1. Dòng sông xinh đẹp và đa cảm
1.1. Vẻ đẹp đa dạng và đầy quyến rũ
+ Luôn được nhìn nhận và khẳng định trong mối quan hệ với không gian địa lí. Dường
như chính sự phong phú của đặc điểm địa lí ở vùng đất mà sông Hương đi qua đã góp
phần hình thành nên vẻ đẹp của dòng sông. Vì vậy để thấy được vẻ đẹp phong phú của
sông Hương cần xem xét nó trong sự gắn bó với không gian, với địa hình và cảnh
19
thiên nhiên trong từng khoảng thời gian cụ thể
+ Không gian núi rừng Trường Sơn
- Đặc điểm và cấu trúc địa lí: vô cùng phong phú với bóng cây đại ngàn, ghềnh thác,
vực sâu, dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng…Tất cả tạo nên một môi
trường để thử thách, rèn luyện và hình thành tính cách, tâm hồn cho sông Hương.
- Đặc điểm của sông Hương trong môi trường địa lí ấy: dòng chảy khi rầm rộ, khi
mãnh liệt, khi cuộn xoáy, khi lại dịu dàng và say đắm. Phần hồn riêng của sông được
bộc lộ trong hành trình và qua đặc điểm dòng chảy là phần hồn của một con người đã
trải qua cả một quá trình trưởng thành từ con gái trở thành bà mẹ: vừa mang sức sống
mãnh liệt và hoang dại, vừa có diện mạo dịu dàng trí tuệ, vừa có tâm hồn trong sáng
thẳm sâu lại vừa dạt dào một khát vọng tự do.
+ Không gian châu thổ vùng Châu Hoá
- Đặc điểm địa lí: là sự chuyển tiếp từ vùng đồi núi sang vùng đồng bằng nên rất đa
dạng về địa hình: có vực sâu, có đồi núi trùng điệp, có thềm đất bãi, có vùng lăng tẩm
giữa mây trời và rừng thông.
- Đặc điểm của dòng sông: Như một người con gái đẹp vừa tỉnh giấc mộng đã bộc lộ
tính cách riêng, tâm hồn riêng- chuyển dòng liên tục, uốn khúc quanh co để tự tìm
kiếm và bộc lộ vẻ đẹp riêng của nó. Dòng chảy của sông phẳng lặng, hiền hoà, trầm
mặc “như triết lí, như cổ thi”, sắc nước của sông xanh thẳm khi qua lòng vực, phản
chiếu màu sắc của đồi núi, mây trời khi qua những quả đồi “sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím”, hình thế của sông thay đổi theo hình thế của địa hình, lúc uốn khúc quanh
co, lúc lại mềm như tấm lụa.
+ Không gian kinh thành Huế:
- Đặc điểm địa lí: Huế trong tổng thể là một đô thị cổ nằm suốt dọc 2 bờ sông-nhiều
biền bãi, nhiều cồn đảo và những nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp
đô thị.
- Đặc điểm của sông: càng trở nên mềm mại, gợi cảm và đa cảm hơn. Dòng chảy hiền
hoà, chậm rãi và yên tĩnh như mặt nước hồ. Diện mạo vô cùng xinh đẹp, lộng lẫy với
trăm nghìn ánh hoa đăng. Tâm hồn đa cảm: vừa vui tươi khi gặp vùng biễn bãi xanh
biếc của vùng ngoại ô Kim Long, vừa hiền hoà trong những đường cong qua vùng
không gian nhiều cồn đảo, vừa ngập ngừng muốn đi muốn ở khi gặp được nét riêng
văn hoá Huế, vừa sâu lắng trong những khúc nhạc đêm khuya, vừa mơ màng lưu luyến
khi phải rời xa thành phố, vừa vương vấn quyến luyến đến độ phải tạo nên 1 khúc
quanh để vòng lại thành phố thân thương .
1.2. Vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình:
+ Nữ tính: Đây là nét riêng của sông Hương trong cái nhìn riêng của Hoàng Phủ Ngọc
Tường (Sông Đà cũng được nhìn như một con người nhưng là con người với những
tính cách hoàn toàn đối lập, vừa hung bạo, vừa trữ tình, lúc như một hung thần, lúc
20
như một mĩ nữ xinh đẹp và gợi cảm). Sông Hương cũng có một đời sống và tính cách
phong phú song trong sự phong phú ấy có thể thấy 1 nét thống nhất là chất nữ tính rất
đậm: Khi là một cô gai Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn
tự do và trong sáng, khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng, khi là người con gái
dịu dàng của đất nước, khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với một
sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ. Dù ở bất kỳ trạng thái tồn tại nào, sông Hương trong cảm
nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn đầy nữ tính. Nữ tính không chỉ ở vẻ ngoài xinh
đẹp hiền hoà hay ở tâm hồn trong sáng mạnh mẽ. Chất nữ tính đậm đà nhất của sông
Hương nằm trong chính đời sống tình cảm rất riêng của nó để trở thành 1 con sông rất
mực đa tình.
+ Đa tình: Ngay từ đầu bài tuỳ bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có một cảm nhận rất
độc đáo về sông Hương trong mối quan hệ với thành phố của nó-đó là quan hệ của một
cặp tình nhân lý tưởng trong Truyện Kiều “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê,
thi ca và âm nhạc”. Sông Hương sau đó vẫn được nhà văn khẳng định “là Kiều, rất
Kiều”- nghĩa là không chỉ xinh đẹp, tài hoa mà còn đa tình và say đắm. Từ góc nhìn
mang tính phát hiện này, nhà văn đã hình dung ra cuộc hành trình của sông Hương là
cuộc hành trình tìm kiếm người tình mong đợi- một cuộc hành trình gian truân và cũng
không hề ngắn ngủi, một cuộc hành trình tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành
phố tương lai của nó. Trong cuộc hành trình ấy, sông Hương có lúc trầm mặc, có lúc
dịu dàng, cũng có lúc mãnh liệt mạnh mẽ…Song nó chỉ thực “vui tươi” khi đến ngoại
ô thành phố, chỉ yên tâm khi nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền
trời. Gặp được thành phố người tình mong đợi rồi, con sông trở nên duyên dáng ý nhị
trong cái cách “uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến ”, cái đường cong “như một
tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Cũng như Kiều khi gặp chàng Kim ở hội Đạp
Thanh, sông Hương qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở để ánh hoa đăng
chao nhẹ trên mặt nước “như những vấn vương của một nỗi lòng”. Và cũng như Kiều
trong đêm tự tình với Kim Trọng, sông Hương đã rời khỏi kinh thành lại đột ngột đổi
dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông- tây để gặp lại thành phố 1 lần cuối. Cái khúc quanh
bất ngờ ấy, trong cảm nhận đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành nỗi
vương vấn, thành chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu, là hành động chí tình của người
con gái để gặp lại người tình, nói lời thề chưa kịp nói mà âm vang lời thề ấy cho đến
giờ vẫn ngân nga vang vọng trên mặt sông thành những câu hò “Còn non, còn nước,
còn dài, còn về, còn nhớ…”. Cần hiểu đây không thuần túy chỉ là tưởng tượng lãng
mạn của một tâm hồn nghệ sĩ vốn rất say những trang Kiều, đây còn là cách nhìn của
một trí thức vốn hiểu thấu cả dòng sông và con người của xứ sở mình. Khi con sông
được hiểu là mang trong nó linh hồn của con người thì lời thề của dòng sông với thành
phố chính là tấm lòng của người dân châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương
xứ sở.
b. Dòng sông đằm thắm, lắng sâu:
b.1. Cốt cách văn hóa rất riêng:
+ Cũng như nàng Kiều không chỉ có nhan sắc mà còn rất mực tài hoa, sông Hương
trong cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là một “người tài nữ đánh đàn lúc
đêm khuya”. Cái nhìn này trước hết có cơ sở từ thực tế: Sông Hương là dòng sông âm
nhạc, đây cũng là nét riêng không thể lẫn của sông Hương với các dòng sông khác của
đất nước. Trên đất nước Việt Nam tuy dòng sông nào cũng gắn với điệu hò, câu hát,
song có được sự tồn tại song song của hai dòng nhạc cung đình và dân gian như sông
21
Hương thì không thể có hai. Dòng nhạc cung đình rất trang nhã, rất sang trọng và cũng
rất đặc sắc. Dòng nhạc dân gian cũng rất đằm thắm, da diết ân tình. Điểm gặp gỡ của
cả nền âm nhạc cổ điển cũng như những câu hò dân gian là đều đã được sinh thành
trên mặt nước sông Hương nên nó chỉ vang lên hay nhất trong những khoang thuyền,
chỉ bộc lộ trọn vẹn sức lay động của nó với những ai từng lênh đênh trên sông nước
trong những đêm khuya.
+ Dòng sông thi ca: ở điểm này, người con gái đẹp, người con gái đa tình, người tài nữ
đã thực sự trở thành nàng thơ trong những tâm hồn thi sĩ. Sự phong phú của diện mạo
và cốt cách văn hóa đã khiến sông Hương trong thơ ca được khám phá và rung động
theo một cách rất riêng, không bao giờ lặp lại: “Từ xanh biếc … trong thơ Tố Hữu”.
Và tuy có vẻ như Nguyễn Du và Tố Hữu có một chút gặp gỡ trong cảm hứng(Nguyễn
Du lênh đênh trên những con thuyền với phiến trăng sầu nên những bản đàn đã đi suốt
đời Kiều, còn Tố Hữu cũng đã thấy bóng dáng những nàng Kiều trên sóng nước
Hương Giang ) song Tố Hữu lại chủ yếu hướng tới khẳng định sức mạnh phục sinh
trong tâm hồn những người con gái ấy bằng một cái nhìn thắm thiết tình người
+ Ngay cả đến cái tên của dòng sông Hương cũng có một vẻ rất riêng của con gái để
làm bâng khuâng một tâm hồn thi sĩ và gợi nguồn thi cảm trong chính hồn văn của
Hoàng Phủ Ngọc Tường để trong suốt quá trình tìm hiểu về con sông, không ít lần nhà
văn bày tỏ niềm xúc động và những suy nghĩ chủ quan đậm đặc chất nghệ sĩ: không
chỉ nhớ thương, nhà văn còn vô cùng xao xuyến mà liên tưởng mùi đất thơm với mùi
da thịt, không chỉ hình dung sông Hương là người con gái mà còn thấy sông Hương
hiện lên thành người con gái thần tiên.Và khi ấy cái tên của dòng sông lại gắn với một
huyền thoại đẹp, để dòng sông trở thành con sông huyền thoại được yêu quý bởi người
của đôi bờ: “Vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu
nước trăm loài hoa đổ xuống lòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”
Như vậy, nhìn từ góc độ kết tinh văn hóa, con sông của xứ Huế vốn đã rất đẹp ở diện
mạo, dáng vẻ lại càng đằm thắm và đầy sức mê hoặc ở chiều sâu tâm hồn. Nó khiến
mỗi người khi đến với con sông không thể lấy cái tôi của mình mà áp đặt cảm nhận,
chỉ có thể tìm sự hòa hợp với linh hồn của con sông để cùng sống và cùng rung động
trong nỗi bâng khuâng.
b.2. Sức sống mãnh liệt.
+Bản năng: Dòng sông Hương, ngay từ điểm khởi nguồn giữa lòng Trường Sơn đã là
“một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại” với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và
trong sáng. Và cho dù sức mạnh bản năng của người con gái ấy đã được chế ngự bởi
người mẹ rừng già, thì nó vẫn đủ cho sông Hương đi hết cuộc hành trình của riêng nó-
một cuộc hành trình đầy gian truân qua cả ghềnh thác, vực thẳm, cồn đảo, quần sơn lô
xô, đền đài, lăng tẩm, biền bãi, thành phố, xóm làng…Và không chỉ đi hết cuộc hành
trình, bản năng sống đã khiến cô gái sông Hương sống trọng vẹn cuộc sống của riêng
mình: từ cô gái trở thành bà mẹ, từ say mê tìm kiếm người tình đến hào phóng nuôi
dưỡng và đắp bồi một nền văn hóa.
+ Khả năng: Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mượn chính văn kiện của Liên Hiệp quốc để
nói về khả năng tạo lập, hình thành và hoàn thiện nền văn hóa Huế của sông Hương.
“Dòng sông và những đầm phá của nó, những dòng kênh uốn lượn qua thành phố cũng
22
với tư thái của những ngôi nhà giữa những khu vườn xanh tươi, tất cả mang lại cho
Huế một vẻ trong sáng và thư thái, giành riêng cho cảm hứng nghệ thuật và tri thức”.
Chính sông Hương đã nuôi dưỡng nguồn cảm hứng nghệ thuật, bồi đắp cho những tâm
hồn nghệ sĩ để Huế có dòng thi ca và âm nhạc của riêng mình. Song cũng chính sông
Hương đã bồi đắp nguồn sức sống cho đôi bờ để bốn mùa hoa trái thắm tươi, bồi
dưỡng và rèn luyện bản lĩnh cho con người của một vùng đất để nhờ có bản lĩnh Việt
sâu sắc mà sông Hương và con người của nó mới không bị thu hút trước sự gặp gỡ với
nền văn hóa hải đảo từ Nam Thái Bình Dương, để trong đánh giá của nhà văn, chính
vùng đất hạ lưu sông Hương là cái nôi của truyền thống văn hóa Phú Xuân.
c. Dòng sông kiên cường mạnh mẽ.
c.1. Kiên trì và kiên cường
- Sông Hương trong sự khám phá của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ được đặt
trong mối quan hệ với không gian địa lý, với các giá trị văn hóa mà còn được soi ngắm
từ góc độ lịch sử. Có rất nhiều khoảng thời gian được nhắc tới ở đây: thời các vua
Hùng, sông Hương là một dòng sông biên thùy xa xôi, thế kỉ 15 là dòng sông viễn
châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc, thế kỉ 18 soi bóng
kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, thế kỉ 19 sống hết lịch sử bi
tráng của những cuộc khởi nghĩa, thời đại cách mạng tháng Tám lại đem đến cho con
sông những chiến công rung chuyển, thời chống Mĩ, sông Hương tuy bị tàn phá nặng
nề song vẫn kiên trinh với lời thề sắt đá…Cách nhìn và cách dùng từ ngữ của Hoàng
Phủ Ngọc Tường ở đây đã làm bật sự vận động của hình tượng sông Hương từ một
con sông địa lí thành một con sông lịch sử, từ một người con gái đẹp và tài hoa trở
thành người con gái kiên cường của đất nước. Sông Hương không chỉ in dấu lịch
sử,song hành cùng lịch sử mà còn chứa đựng lịch sử của riêng nó- một lịch sử hào
hùng và dữ dội,bất khuất và đớn đau.
Chỗ tinh tường của nhà văn là đã tìm thấy chất thơ trong sử để chưng cất thành sử thi
như một vẻ đẹp riêng của sông Hương: sông Hương trong lịch sử và trong cảm nhận
của nhà văn đã trở thành “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ
lá xanh biếc”.Trong dòng chảy thời gian, sông Hương đã đI trọn vẹn cuộc sống và lịch
sử của dân tộc, của đất nước. Chính diện mạo và chiều sâu của lịch sử dân tộc khi in
bóng xuống dòng sông dã mang lại cho sông Hương một tầm vóc kì vĩ, lớn lao, một ý
nghĩa thiêng liêng và một tinh thần bất diệt.
c.2. Anh dũng và bất khuất:
Trong quá trình khảo cứu về lịch sử của sông Hương, cũng là lịch sử của dân tộc, của
đất nước, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất chú ý làm bật cốt cách anh hùng của dòng
sông xứ Huế và của con người ở miền đất Hóa Châu.Mảnh đất Hóa Châu trong cách
nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trở thành “cái vũ đài quyết liệt” dựng lên để
chứng tỏ “bản lĩnh đánh cận chiến của những dũng sĩ đứng trấn miền cửa khẩu chuyên
đánh địch trong những khoang thuyền”. Với thế đứng sinh tử, với tầm vóc uy nghi, với
mũi giáo của những người dũng sĩ, Hóa Châu đã trở thành một cửa ải Chi Lăng ở phía
Nam Tổ quốc, trở thành nỗi khiếp sợ của bọn xâm lược qua các thời đại: từ tên tướng
Hán Mã Viện kéo rê lưỡi gươm bình định tắm máu khắp Giao Chỉ cho đến tên tướng
Minh Trương Phụ, Mộc Thạch đều phải cúi đầu lui bước, khiếp sợ khi đến đất Hóa
Châu. Cho đến lúc bờ biển châu á rầm rộ tàu đồng phương Tây vào giữa thế kỉ 17,
chính ngôi thành gan góc này đã dạy cho chúng bài học đầu tiên về sức mạnh Việt
23
Nam bằng việc tiêu diệt cả một hạm đội của thực dân Hòa Lan.Đến thời chóng Mĩ,
phẩm chất anh hùng và tinh thần bất khuất của người dân Hóa Châu lại một lần nữa
được bộc lộ ra trong một tuyên ngôn ngỡ như giản dị mà sâu sắc vô cùng: “Tụi bây có
sức thì cứ đào cho hết đất làng, xúc xuống hạm đội chở về đổ bên Mĩ. Làm cho được
rồi hãy nói tới chuyện bình định cái đất Hóa Châu này”.Xưa và nay, cổ và kim hòa
quyện, quấn quýt thành những kỉ niệm, ai người xưa,ai bây giờ thì lịch sử vẫn tươi rói
những khuôn mặt của người cùng thời. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ nói về
lịch sử của đất và người bên dòng Hương giang mà còn nghiền ngẫm sâu xa và xúc
động thấm thía với những giá trị lịch sử đọng lại như lớp trầm tích của sông để con
sông xứ Huế không chỉ xinh đẹp thơ mộng trong dáng vẻ mà còn rất thiêng liêng vĩ đại
trong tầm vóc. Nghĩa là, đặt con sông trong dòng chảy của lịch sử cũng là thêm một
thứ thước đo để Hoàng Phủ Ngọc Tường làm nổi bật vẻ đẹp riêng,sức sống riêng, linh
hồn riêng của con sông quê hương.
d. Đánh giá:
Trong bài tùy bút này sông Hương đã được đặt trong một cái nhìn tổng thể và toàn
diện: Lịch sử và văn hóa, sinh hoạt và phong tục, văn chương và đời sống, con người
và thiên nhiên …Trong các mối liên hệ ấy, sông Hương vừa tươi đẹp, vừa thơ mộng
và quyến rũ trong các sắc thái thiên nhiên vừa sâu lắng trong các giá trị văn hóa, vừa
phong phú đến bất ngờ trong khả năng gợi hứng thú sáng tạo cho những người nghệ sĩ,
vừa kiên cường bất khuất trong thế đứng và tinh thần khi đối diện với giặc ngoại
xâm…Song dường như sau tất cả những điều đó, sông Hương vẫn mãi còn những điều
bí ẩn chưa được khám phá hết nên vẫn mãi gợi niềm bâng khuâng trong tâm hồn con
người.
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI - SỐNG LÀ CHO ĐÂU CHỈ
NHẬN RIÊNG MÌNH
Trong bài thơ “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu có viết:
…“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”
( Thơ Tố Hữu _ trang 532)
A. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
-Đề này cần
1.Nội dung ý nghĩa về lẽ sống “vay trả, nhận - cho”, sống phải có ích.
24
Đã là chiếc lá thì phải làm xanh cho đời. Đã là con chim thì phải dâng cho đời tiếng ca
lảnh lót, “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”.Đã là người thì phải có lẽ sống.Lẽ sống
của con người là phải sống có ích, sống có nhận, có cho, có vay, có trả.
2.Thế nào là lẽ sống đẹp “Có vay có trả,có ích cho đời”
Sống ở đời là đã, mắc nợ. Cha mẹ cho ta cuộc đời, nhân dân đất nước cho ta cho ta nơi
ở thanhbình,cuộc sống bình an, để ta học hành, vui chơi, ăn mặc, chữa bệnh v v Ta
phải trả cho đời bằng cuộc sống có ích, cống hiến
3.Chứng minh bằng thực tế và hình tượng văn học
Các anh hùng liệt sĩ Hoàng Văn Thụ,Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng, Nguyễn Văn Trỗi,
Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc v v là những tấm gương có lẽ sống đẹp.
Hình tượng cô thanh niên xung phong trong thơ Phạm Tiến Duật, “Người mẹ cầm
sung” của Nguyễn Thi về hình tượng người mẹ, chị Sứ v v
4.Phê phán lối sống chưa đẹp của một số bộ phận thanh niên
Một bộ phận thanh niên ngày nay chưa có lẽ sống đẹp, dẫn tới lối sống chưa đẹp. Họ
đua đòi, ăn chơi, lười học, lười làm việc, xa hoa, lãng phí. Họ nhận nhiều hơn cho, vay
mà không trả. Nhiều khi họ trở thành người bất hiếu, vô ơn bạc nghĩa, huỷ hoại cuộc
đời họ và phá hoại xã hội
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
I/ Mở bài
“Cái quý giá nhất của con người là đời sống. Vì đời người chỉ sống có một lần”. Vậy
phải sống sao cho “khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho
khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn?”. Để trả lời với tất cả chúng ta câu hỏi đó,
trong bài “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu đã tâm sự bằng những câu thơ giản dị mà rất
sâu sắc:
…“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
25