Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÍNH CHẤT TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ DÂNG CỦA TAGORE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.17 KB, 25 trang )

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
---------------
NIÊN LUẬN
TÍNH CHẤT TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ DÂNG
CỦA TAGORE
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Phương Liên
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Thu
Lớp : K50-Văn học

Hà Nội -2007
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Sau khi tập “thơ dâng” (gitanjali) đat giải nobel (1913), tên tuổi
Tagore bắt đầu lừng danh và ông trở thành nhà thơ nổi tiếng của thế giới.
từ đó việc nghiên cứu R. Tagore càng trở nên sâu rộng.Vấn đề nghiên cứu
Tagore ở các nước Anh, Pháp, Nga, Ân... hình thành từ đó. Ơ Việt Nam,
đề cập đến Tagore sớm nhắt, có lẽ vào năm 1942 trên báo “Nam phong”
số 81,84.Việc nghiên cứu và giảng dạy thơ Tagore còn mới mẻ và ít ỏi.
Nghiên cứu thi pháp thơ Tagore còn ít, hầu như người ta nói nhiều về thơ
và cuộc đời ông. Như vậy, đứng ở góc độ nghiên cứu thơ Tagore, nhìn
chung các công trình nghiên cứu mới bàn về cái được biểu hiện- thế giới
được miêu tả trong thơ Tagore. Các nhà nghiên cứu khai thác kĩ nội dung
chủ nghĩa nhân đạo, đề cập đến cảm hứng tôn giáo - triết học trong thơ
ông. Những vấn đề nhủ điểm nhìn nghệ thuật của cái tôi trữ tình, bút pháp


hướng nội, thủ pháp nghệ thuật gần như rất ít đề cập đến.
2.Mục đích của đề tài
Với đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ đong góp thêm cho việc tìm
hiểu đặc sắc nghệ thuât trong thơ Tagore nói chung và tập thơ “thơ Dâng”
nói riêng. Đồng thời chúng tôi mong muốn giúp bạn đọc sẽ hiểu sâu hơn
về tập thơ nổi tiếng này của R.Tagore.
3. Phạm vi tài liệu
Tài liệu chính được sử dụng là tập “Thơ Dâng” (bản dịch tiếng anh
và bản dịh tiengs việt của Dặng Anh Đào), Tago văn và người, nhà xuất
bản văn hóa thông tin. Ngoài ra còn sử dụng một số sách lí luận, phê bình,
các tài liệu tạp chí nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát trên văn bản và thống kê so sánh.
5. Kết cấu niên luận
-Phần mở dầu
-Phần nội dung gồm hai chương
- Phần kết luận
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Khái quát chủ nghĩa tượng trưng trong thơ
1. Chủ nghĩa tượng trưng và tượng trưng
Theo từ điển văn học chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa tượng trưng
là một trào lưu nghệ thuật và một quan điểm triết học- mỹ học. ở cuối thế
kỉ XIX nảy sinh như một khuynh hướng văn học ở Pháp những năm 60,
70. Với Bôđơle, Veclen, Lenmo...sau đó lan rộng thành một hiện tượng
văn hóa ở toàn châu Âu. Bao gồm cả sân khấu và hội họa, âm nhạc. Ơ
Nga, chủ nghĩa tượng trưng nảy sinh từ những năm 90 với Mixki,
Merozkopxki và đầu thế kỉ XX với Blok, Belui. Các nhà tượng trưng biểu
hiện một cách độc đáo cảm quan về thời đại khủng hoảng xã hội của tư
sản, khủng hoảng của đời sống văn hóa của tư tưởng, của ngôn ngữ. Nhà
thơ Pháp Moorrea- người đã nêu thuật ngữ “chủ nghĩa tượng trưng” trong

tuyên ngôn tượng trưng khẳng định rằng: Thi ca tượng trưng biểu hiện
trước hết “những tư tưởng nguyên thủy” nó là kẻ thù “sự mô tả khách
quan”. Hình tượng tượng trưng là đa nghĩa bất định, nó ghi nhận sự tồn
tại “của khu vực bí ẩn”, của những cái vô hình, những thế lực định mệnh.
Do chỗ âm nhạc hơn hẳn các nghệ thuật khacstrong việc truyền đạt những
sắc thái, những bán âm, nên tượng trưng nghệ thuật cũng mang nhạc tính.
Chủ nghĩa tượng trưng yêu cầu thơ “ trước hết phải có nhạc
tính”( Veclen). Quan niệm tượng trưng như là hình tượng có khả năng
không chỉ biểu đạt những sự tương hợp của các khách thể và hiện tượng,
mà trước hết có khả năng truyền đạt nội dung thể nghiệm của ý thức, do
vậy ở các tac phẩm của những người theo trường phái này, biểu tượng vật
thể thực được đan bện chặt với các thủ pháp gây ấn tượng. Lối sáng tác
của chủ nghĩa tượng trưng- với tính liên tưởng, lối nói bóng gió với vai
trò đặc biệt của văn cảnh đã góp phần cách tân và mở rộng ý thức nghệ
thuật. Vai trò chủ đạo trong nhận thức và sang tác nghệ thuật của chủ
nghĩa tượng trưng là trực giác- được đồng nhất với sự bừng ngộ thần bí,
với sự khải thị, với trạng thái kích động cao.
Cũng theo Từ điển văn học, tượng trưng là khái niệm vừa mang
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Với nghĩa rộng, tượng trưng là một phạm trù
phổ quát của mỹ học, được xác lập thông qua việc đối chiếu hai phạm trù
kề cận: một phía là hình tượng nghệ thuật, một phía là kí hiệu. Tượng
trưng là hình tượng được hiểu ở bình diện kí hiệu, và là kí hiệu chứa tính
đa nghĩa của hình tượng. Mọi tượng trưng đều là hình tượng (và hình
tượng đều là tượng trưng ở những mức khác nhau) nếu ở hình tượng ấy
luôn luôn hiện diện một nghĩa nào đó, tuy hòa với hình tượng nhưng
không bị đồng nhất hoàn toàn vào hình tượng. Hình tượng khách thể và
hàm nghĩa chiều sâu là hai cực không tách rời nhau của tượng trưng (bởi
vì tách khỏi hình tượng thì nghĩa sẽ mất tính biểu hiện, mà tách khỏi
nghĩa thì hình tượng sẽ bị phân rã thành các yếu tố) nhưng tượng trưng
được bộc lộ chính là qua cả sự phân li lẫn sự liên kết giữa chúng. Nhập

vào tượng trưng, hình tượng sẽ trở nên “trong suốt”, nghĩa sẽ “soi rọi”
qua nó, trở thành nghĩa hàm, có chiều sâu, có viễn cảnh. Nghĩa của tượng
trưng là cái không thể giải mã bằng nỗ lực lí trí, nó đòi hỏi sự thâm nhập.
Đây chính là sự khác biệt căn bản của tượng trưng so với phúng dụ. ở
tượng trưng không tồn tại một nghĩa nào đó dưới một vài định thức duy lí
để có thể đem đặt và sau đó rút ra khỏi hình tượng.Tượng trưng là hình
tượng mà” phải được hiểu như nó vốn là vậy, và chỉ nhờ thế mới nắm bắt
được cái mà nó biểu đạt” (F.WScheking). Cấu trúc của tượng trưng
thường nhằm làm cho mỗi hiện tượng đơn lẻ được thấm nhuần tính chất
“khởi thủy”, thông qua đó đem lại một hình tượng hoàn chỉnh về thế giới.
Cấu trúc của tượng trưng là đa tầng và có dự tính đến nỗ lực của tâm thức
của người tiếp nhận. Hàm nghĩa của tượng trưng không phải là cái có sẵn
mà như một xu thế động. Hàm nghĩa naỳ không thể nắm được nhờ phân
tích, quy thành một định thức đơn trị, chỉ có thể soi rọi đối sánh nó với
những kết hợp mang tính tượng xa hơn, có sự sáng rõ của lí tính hơn,
nhưng không đạt tới khái niệm thuần khiết. Học thuyết tượng trưng của
phái Platon, mô tả mọi thứ nhìn thấy được như là tượng trưng và thực thể
nhìn thấy được như là tượng trưng của bản chất thượng đế vốn sâu kín, vô
định, không hiển thị vì vậy những tầng nấc thấp của trật tự thứ bậc thế
giới tái tạo theo lối tượng trưng hình ảnh của những tầng nấc tối cao,
khiến trí óc có thể đi lên theo thang bậc hàm nghĩa.
Theo nghĩa hẹp tượng trưng là một dạng chuyển nghĩa (cùng loại
với phúng dụ). Sự tiếp hợp của hai bình diện - nội dung “vật thể” của hình
tượng và nghĩa bóng của nó- có thể hoặc là hiển nhiên (khi hai bình diện
đều có mặt trong văn bản).Khi đó sẽ có một đối sánh tượng trưng, hoặc là
ẩn kín. Khi đó sự ám chỉ sẽ nằm ở mạch ngầm văn bản và toàn bộ tác
phẩm sẽ mang ý nghĩa tượng trưng. Ơ mức giới hạn, mỗi yếu tố của hệ
thống nghệ thuật ( ẩn dụ, tỉ dụ, tả cảnh...) đều có thể trở thành tượng
trưng được hay không là do một loạt dấu hiệu :
a. Độ cô đúc của khái quát nghệ thuật

b. Dụng ý của tác giả muốn lộ ra ý nghĩa tượng trưng của các điều
mình muốn miêu tả.
c. Văn cảnh tác phẩm, khi ý nghĩa tượng trưng của một vài yếu tố
hình tượng lộ ra, bất chấp ý định của tác giả, điều này được xác nhận
thêm khi xem xét toàn bộ hệ thống sáng tác của nhà văn. Đôi khi ý nghĩa
tượng trưng của một yếu tố cụ thể lại là tín hiệu về một “lời giải”,được
nhấn mạnh khi đó có thể coi yếu tố này như một mô tip hoặc chủ đạo.
d. Văn cảnh văn học của thời đại và văn hóa
Trong văn xuôi, ta thấy tượng trưng dược thể hiện ở chi tiết truyện,
qua tình tiết truyện, có thể cả tình huống truyện nữa. Thử dừng lại ở tình
huống -tượng trưng trong truyện ngắn. Tình huống tượng trưng là kiểu
tình huống trong đó cái ý nghĩa của hình tượng sự bộc lộ chủ đề rất kín
đáo, thậm chí có khi bị phủ một lớp sương mù huyền hoặc. theo nghĩa
rộng thì tượng trưng là hình tượng được biểu hiện ở bình diện kí hiệu, là
kí hiệu chứa tính đa nghĩa của hình tượng, vừa không đồng nhất hoàn toàn
với hình tượng. Ví dụ trong truyện ngắn “Phiên chợ Giat” của Nguyễn
Minh Châu, có cái nét nhòe mơ hồ, cái không xác định của hình tượng và
là một thế giới quyện nhòe của hư và thực, đó là những kí hiệu riêng của
nhà văn. Trong truyện ngắn này “giấc mơ” như là hình tượng chính “thức
giấc vì một giấc mơ”, “trong cơn mơ ngủ”, “thức giấc vì một giấc mơ”.
như thế giấc mơ đã trở thành một tình huống tượng trưng trong thiên
truyện này.
Như vậy, tượng trưng trong văn học rất đa dạng nó như một
phương tiện để tác giả truyền tải ý đồ nghệ thuật của mình. Tượng trưng
trong thơ càng phong phú hơn, hầu hết các nhà thơ đều coi thủ pháp nghệ
thuật như một thành công cho tác phẩm, vì đặc trưng của thơ là gợi nhiều
hơn tả nên các nhà thơ sử dụng hình ảnh càng cô đọng càng súc tích thì
tính biểu trưng càng cao. Ví dụ trong thơ Hàn Mặc Tủ hình ảnh “ánh
trăng” dường như tượng trưng cho cả con người cũng như phong cách
sáng tác của nhà thơ.

Trong thơ Tagore ta thấy thủ pháp tượng trưng dường như có trong
mọi bài thơ, mọi hình ảnh thơ.
2.Tượng trưng trong quan điểm sáng tác của Tagore
Tagore cho rằng “mọi ý tưởng trừu tượng đều không có chỗ trong
nghệ thuật thật sự nơi mà muốn được chấp nhận thì phải dưới dạng ngụy
trang nhân cách hóa. Đó là lí do vì sao thơ ca đã cố chọn từ ngữ có các
phẩm chất sống động- những từ ngữ không chỉ để thông tin thuần túy, mà
đã biến nhập trong tim ta, mà hình dáng chưa bị mài mòn vì đã thường
xuyên trên thị trường”(Nghệ thuật là gì?, trích từ tuyển tập văn học Ân
Độ, tr.384). Tagore khuyến khích việc lựa chọn từ ngữ vì việc lựa chọn
từ ngữ sống động sẽ tạo được thông tin tối đa của tác phẩm, ông viết:
“trong thi pháp, trong từ ngữ và ý nghĩ của tôi, tôi buông thả theo lối tự
do phóng túng”(My life).Nhưng về chất liệu trong tác phẩm, ông cho rằng
phải bắt nguồn từ hiện thực, từ cái “có” của thế giới: “nhiệm vụ của người
nghệ sĩ là nhắn nhủ với thế giới rằng chúng ta lớn lên trong hiên thực,
bằng các hiện thực mà chúng ta thể hiện”(Tôn giáo của nhà thơ). BằNG
các tác phẩm của mình Tagore đã chứng minh cho quan điểm trên, các tác
phẩm văn xuôi của Tagore đều xuất phát từ đất nước ấn Độ, đó là những
người phụ nữ, hay là thiên nhiên của Ân Độ “nhiệm vụ của người nghệ sĩ
là tuyên bố lòng tin của mình vào cái có vĩnh cửu để nói: “tôi tin có một lí
tưởng quanh quẩn trên trái đất và thẩm thấu vào trái đất cái lí tưởng của
thiên đường kia không phải chỉ là kết quả tượng tượng mà là thực tiễn
cuối cùng trong đó mọi thứ sống và chuyển động”(Tôn giáo của nhà thơ).
Ông còn nhận thấy vai trò quan trọng của nhịp điiệu “có vần, câu thơ
dừng lai mà không chấm dứt, từ ngữ lặng đi mà âm nhạc kéo dài”.Theo
ông, chúng ta cần phải có một thứ trung gian để biểu đạt tình cảm của
mình: “loài người vốn có những chất thơ trong trái tim mình nên họ cần
thể hiện tình cảm của họ càng hoàn chỉnh càng tốt. Muốn như vậy, họ cần
có một thứ trung gian, mềm mại và sinh động, từ thời đại này đến thời đại
khác, trở thành của riêng họ”. nhưng cái trung gian đó phải là cái do mình

tạo ra chứ không phải sao chép hay vay mượn : “không một nhà thơ nào
lại đi vay mượn thứ trung gian làm sẵn từ một cửa hàng đáng kính nào đó.
Anh ta không những có hạt giống riêng của mình mà còn phải làm mảnh
đất của mình nữa”.
Như vậy, Tagore đã kết hợp cả hiện thực lẫn huyền ảo trong thủ
pháp tượng trưng trong sáng tác của mình, ông có nhưng quan niệm đổi
mới so với các nhà tượng trưng trước đó.
CHƯƠNG II. TƯỢNG TRƯNG TRONG “THƠ DÂNG” CỦA
TAGORE.
1. Tượng trưng trong các thể loại của Tagore.
- Trong kịch.
Có nhiều cách để phân loại kịch của Tagore. Có thể chia theo giai
đoạn sáng tác, chia theo ngôn ngữ sáng tác hoặc chai theo hình ảnh của
các lớp nghĩa được chúng biểu đạt. Nếu chia theo hình ảnh và các lớp
nghĩa biểu đạt, ta thấy những vở kịch mang tính tượng trưng cao như
“Post office” - Bưu điện; Theo Cycle of Spring- vòng tuần hoàn hảo của
mùa xuân; Red Orleanders - Trúc đào đủ. Để có thể đánh giá chính xác về
những vở kịch mang tính tượng trưng của Tagore, chúng ta cần phải phân
biệt giữa những biểu tượng thuần túy và những biểu tượng mang tính điển
hình khác. Một tác phẩm tượng trưng gồm có hai lớp nghĩa: Lớp nghĩa
trên bề mặt và lớp nghĩa khác được ngầm ẩn bên trong. Lớp nghĩa trên bề
mặt tương đối rõ ràng trong khi lớp nghĩa ngầm ẩn thường được gợi ý
gián tiếp. Trong những vở kịch tượng trưng thì hai lớp nghĩa này không
hòa lẫn vào nhau mà biểu lộ song song với nhau.
Trong “The Cycle of Sping - Vong tuần hoàn của mùa Xuân” ý
tưởng chính của vở kịch là sự thay đổi của mùa đông. Trong vở kịch ra vẻ
bề ngoài của mùa xuân. Cái cũ biến đổi dần dần để tạo thành cái mới. Tất
cả những nghi lê, những quy luật thiên nhiên, những bài ca điệu vũ của vở
kịch, chúng ta thấy được kết cục tất yếu rằng mùa đông buộc phải chấm
dứt và mùa xuân nhất định phải ra đời. Vở kịch gồm một loạt các nhân vật

mang tính chất biểu tượng. Nhân vật Minstel mù về thể chất thì mù nhưng
ông lại có thể nhìn thấy mọi điều bằng toàn bộ cơ thể và tâm hồn mình.
Còn Chandra là biểu tượng của tuổi trẻ và cuộc sống. Còn ông già mù
Minstel là nhà tiên tri của cái mới đang tới.
Hầu hết trong các vở kịch của Tagore, ông đều lấy nhân vật với
những hành động và tính cách của họ để biểu tượng cho tư tưởng mà ông
muốn chuyển tải lại cho người đọc.
2. Tượng trưng trong “Thơ Dâng” Tagore.
2.1. Hình ảnh “người thầy, Thượng đế…”
Xuất hiện trong Thơ Dâng rất nhiều nhà thơ sử dụng hình ảnh này
như một nhân vật để nói chuyện, gửi gắm tâm tình của mình.
Người đã tạo tôi vô tận; đó là ý thích của người
(Thou host made me endles, such is thy pleasure)
(Thơ Dâng, bài 1).
Nhà thơ đã sử dụng những thuật ngữ của tôn giáo để đưa vào thơ
mình.ất nhiều học giả phương Tây đã hiểu nhầm nhà thơ là một con chiên
sùng đạo. Tiến sĩ A. Aronson viết: “Khi những bài thơ của Tagore” lần
đầu tiên xuất hiện tỏng các bản dịch bằng tiếng Anh, nhiều người tin rằng
triết học hay sự huyền bí của Tagore là kết quả của ảnh hưởng của Thiên
chúa giáo đối với ông cũng như đối với phần lớn nước ấn Độ”. Tuy nhiên,
đây là một sự đánh giá sai về thơ của Tagore. Chính Tagore đã viết: “Tôi
không thuộc về tôn giáo nào cả mà cũng khôgn nghiêng về đức tin đặc
biệt nào. Có điều khi Thượng đế sinh ra tôi, thì chính người đã trở thành
tôi rồi”. Ngày nay, người triển khai con người tôi trong cuộc sống và nâng
niu con người tôi với nhiều sinh lực và vẻ đẹp khác nhau trong thế giới
này. Chính sự kiện tôi hiện hữu đã mang lại trong nó lòng yêu thương
vĩnh cửu rồi”. “Chúa, người’ trong “Thơ Dâng” được Tagore quan niệm
chính là cuộc đời. Thượng đế ở đây chính là vị “chúa Trời”. Nếu như
trong kinh thánh của Thiên chúa giáo, hình ảnh chúa là siêu hình, là tối
cao thì trong thơ Tagore, hình ảnh “chúa, thượng đế” chính là hình ảnh

của niềm vui (Ananda), hình ảnh của tình yêu (Kama), hình ảnh của sự
lao động, hình ảnh của cuộc đời. Vì vậy, màu sắc tôn giáo trong “Thơ
Dâng” chỉ còn tồn tại ở hình thức, ở phương tiện biểu hiện chứ không
phải ở chốn cao xa vĩnh hằng nữa mà “chúa” chính là cuộc sống đang hiện
hữu quanh mỗi con người, là cuộc sống lao động hàng ngày của con
người:

×