Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐƯỜNG THI Ở TRUNG QUỐC TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1949

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.05 KB, 36 trang )

Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sự phát triển của thơ ca cổ điển Trung Quốc, bắt đầu từ Thi kinh, Sở từ, tích
tụ chuẩn bị và diễn tiến qua một thời kì dài, đến thời Đường đã bước lên đỉnh cao
phồn vinh. Tình hình sáng tác thi ca đời đường hưng thịnh chưa từng có, chỉ riêng
sáng tác của thi nhân đời Đường hiện nay còn giữ được, đã có hơn 50 nghìn bài,
những tác giả mà họ tên có thể biết được có tới hơn 2000 thi nhân. Trên thi đàn
đời Đường xuất hiện những nhà thơ lớn mà tên tuổi của họ xưa nay vẫn được tôn
sùng, nổi tiếng trong ngoài nước như: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Hàn Dũ
v.v…Thơ Đường nội dung đề tài phong phú, hình thức thể loại đầy đủ, nghệ thuật
biểu hiện hấp dẫn, lôi cuốn, trường phái phong cách đa dạng, có ảnh hưởng sâu
sắc đến sau này, tất cả những điều đó đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của toàn
bộ nền thi ca. Đường thi trở thành viên ngọc của văn hoá nghệ thuật nhân loại, là
niềm tự hào của dân tộc Trung Hoa.
Thành tựu to lớn của Đường thi đã hấp dẫn người đương thời cũng như các
lớp hậu thế tìm đọc và đi sâu nghiên cứu. Hơn một ngàn năm nay, xoay quanh
những vấn đề về Đường thi, các học giả từ đời này sang đời khác đã đổ biết bao
công sức gian khổ, làm được một khối lượng lớn công việc như sưu tầm, tuyển
chọn, biên soạn, chú giải, khảo chứng, phân tích, bình phẩm v.v…Tất cả đều thu
được những kết quả to lớn, có đóng góp đáng kể trong việc nghiên cứu Đường thi,
góp phần hình thành một môn khoa học chuyên ngành đó là “Đường thi học” 唐诗
诗, với đối tượng nghiên cứu, phạm vi vấn đề, phương pháp làm việc và hệ thống
khoa học riêng.
Ở Việt Nam, việc Đường thi có ảnh hưởng sâu rộng tới văn học Việt Nam là
điều không thể phủ nhận. Đã có một số đề tài nghiên cứu một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp việc tiếp nhận Đường thi trong văn học Việt Nam, nhưng việc giới thiệu
rộng rãi những chuyên luận nghiên cứu có tính chuyên biệt về Đường thi thì còn
hạn chế. Gần đây có cuốn Đường thi học dẫn luận 唐诗诗引诗 của Trần Bá Hải
诗伯海 do Phạm Ánh Sao dịch và giới thiệu, đã mang đến cho người dọc một cái
nhìn tổng quan về những vấn đề bản thể của Đường thi. Cuốn sách đã nghiên cứu


Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
1
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
mang tính tổng hợp đối với các phạm trù đặc trưng: nguồn gốc, lưu phái, thể thức
của Đường từ góc độ vĩ mô tổng thể, đồng thời đề cập tới diễn biến lịch sử của
Đường thi học, cuốn sách là một sự tổng kết khoa học đối với Đường thi. Tuy
nhiên, trước khi bước chân vào việc nghiên cứu Đường thi, chúng tôi thiết nghĩ
cần phải có cái nhìn mang tính khái quát đối với tình hình nghiên cứu Đường thi,
nhất là trong thế kỷ XX. Đương nhiên, việc nghiên cứu Đường thi đã trải qua một
quá trình diễn tiến lâu dài. Làm công việc chỉnh lý, nghiên cứu Đường thi sớm
nhất, đó chính là bản thân người đời Đường, thế nhưng việc bàn luận, phẩm bình ở
đời Đường phần lớn chỉ chú ý tới những vấn đề cụ thể chứ chưa có sự khái quát.
Người đời Tống đã bắt đầu tạo đựơc truyền thống văn học độc lập cho Đường thi,
từng bước xây dựng quan niệm về Đường thi một cách chỉnh thể. Đến Nghiêm Vũ
thời Nam Tống, vì phê phán xã hội mà đã phải gắng hết sức chỉ ra những nét riêng
về nghệ thuật và hình thái diễn tiến của Đường thi. Ông đã đặt cơ sở cho việc xác
lập Đường thi học. Sau này, Dương Sĩ Hoằng, Cao Bỉnh, Hồ Ứng Lân, Hứa Học
Di, v.v… ở đời Minh đã triển khai công việc lí giải và phân tích ngày càng chi tiết
hoá về các mặt tìm hiểu nguồn gốc và lưu phái, vạch những nét cơ bản về sự biến
đổi thể loại của Đường thi. Cuốn Đường âm quý thiêm do Hồ Chấn Hanh cuối đời
Minh soạn, đã có sự phân biệt môn loại với những tư liệu luận bàn, bình phẩm về
Đường thi qua các thời, xứng đáng là cuốn sách tổng kết bước đầu của Đường thi
học cổ điển. Người đời Thanh tiếp tục nghiên cứu và đi sâu lí giải hơn nữa về một
số vấn đề. Nhưng nhìn chung, bàn luận của người đời xưa về Đường thi thiên về
coi trọng mối quan hệ bên trong thi ca, mà coi nhẹ việc tổng hợp vĩ mô. Hơn nữa,
những bình luận phẩm bình đó phần nhiều mang ấn tượng trực quan, nó tản mát ở
trong các trước thuật như thi loại, bút ký, tự bạt, thư tín, bi truyện, tạp thuyết, bình
điểm, luận thi v.v…bới lông tìm vết, đáy bể mò kim, mà ít đem lại cho người ta
một khái niệm hoàn chỉnh.
Từ thế kỷ XX, tình hình nghiên cứu Đường thi bước vào một giai đoạn mới,

ở thế kỷ này, sự du nhập của tư tưởng văn nghệ và phương pháp khoa học phương
Tây đã thúc đẩy, làm cho việc nghiên cứu Đường thi có được bước nhảy vọt mạnh
mẽ. Các tác giả nhanh chóng thoát khỏi mảnh đất phê bình theo kiểu truyền thống,
bắt tay vào việc khảo sát có hệ thống và khái quát kí luận, viết nên những cuốn
sách học thuật có giá trị. Đó chính là lí do tại sao chúng tôi lại đi sâu tổng thuật
tình hình nghiên cứu Đường thi ở thế kỷ XX. Hi vọng sẽ có được cái nhìn khái
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
2
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
quát về học thuật Đường thi thế kỷ XX trước khi bước vào nghiên cứu những vấn
đề cụ thể của Đường thi.
2. Đối tượng, mục đích nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là tình hình nghiên cứu Đường thi ở
Trung Quốc thế kỷ XX, với mục đích có được cái nhìn khái quát về tình hình học
thuật Đường thi trong thế kỷ này. Thiết nghĩ đây là một việc làm ít nhiều sẽ có
đóng góp tích cực hỗ trợ cho việc nghiên cứu những vấn đề cụ thể của Đường thi.
3. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi tư liệu:
Chúng tôi tiến hành lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở Trung Quốc
trong quãng thời gian của thế kỷ XX. Các tác phẩm, các công trình nghiên cứu
được đề cập tới đều là những tác phẩm nghiên cứu được công bố và xuất bản trong
thế kỷ này. Có những nội dung, đề tài đã được nghiên cứu từ rất lâu trong những
giai đoạn trước nhưng chúng tôi cũng hạn chế đề cập đến mà chỉ chú trọng việc
nghiên cứu những nội dung, đề tài này trong thế kỷ XX.
Về phạm vi tư liệu, ngoài những tư liệu bằng tiếng Việt, chúng tôi cũng sử
dụng những tư liệu bằng tiếng Hán. Trên cơ sở việc tiến hành dịch những tư liệu
này để bổ xung lượng thông tin cho bài viết.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Về phương diện lý thuyết, chúng tôi chủ yếu dựa vào những tri thức về mĩ
học tiếp nhận để tổng thuật tình hình nghiên cứu Đường thi thế kỷ XX.
Chúng tôi cũng sử dụng những phương pháp cụ thể như: phương pháp mô tả,

phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phân tích, lý giải…
5. Bố cục Niên luận:
Với khả năng hạn hẹp của mình, chúng tôi trình bày tình hình nghiên cứu
Đường thi ở Trung Quốc thế kỷ XX theo cái nhìn lịch đại, để tiện cho việc trình
bày và theo dõi, chúng tôi chia tình hình nghiên cứu Đường thi thế kỷ XX ở Trung
Quốc làm ba giai đoạn cụ thể như sau:
1. Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1949.
2. Giai đoạn từ năm 1949 đến kết thúc Cách mạng văn hoá (thập niên 70).
3. Giai đoạn từ sau Cách mạng văn hoá (cuối thập niên 70 đến hết thế kỷ
XX).
6. Quy cách trình bày:
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
3
Nguyn Th Thựy Lc thut tỡnh hỡnh nghiờn cu ng thi TQ th k XX
+ i vi tờn tỏc gi, tỏc phm nghiờn cu v ng thi trong th k XX, tụn
trng nguyờn tỏc v tin vic kim tra li, chỳng tụi xin phiờn õm Hỏn Vit, ng thi
s in nghiờng tờn tỏc phm v vit kốm theo nguyờn vn ch Hỏn. Chng hn: Lu
Khai Dng vi cun ng thi lun vn tp ,Trung Hoa
Th Cc, Thng Hi Biờn Tp S, 1961 ,1961.
+ i vi nhng li trớch dn t cỏc tỏc phm v cỏc cụng trỡnh nghiờn cu
nhn mnh v tin vic theo dừi chỳng tụi cng s in nghiờng tờn tỏc phm, thụng tin
v tỏc phm, cụng trỡnh nghiờn cu nh tỏc gi, xut x, tờn cỏc nh xut bn, chỳng
tụi s vit hoa ton b. Chng hn: Chu T Son

vi cun Tu ng Ng i vn
hc s, Phỳc Kin Nhõn Dõn xut bn xó, 1959.
Mt s ký hiu vit tt:
Sđd Sách đã dẫn
NXB Nhà xuất bản
Tr. hoặc tr. Trang

v.v
Niờn lun - Lp Vn K.49 CQ
4
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
B. NỘI DUNG
I. LƯỢC THUẬT TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐƯỜNG THI Ở TRUNG
QUỐC TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1949
Nghiên cứu Đường thi có một vị trí quan trọng trong khoa học về văn học cổ
điển, nó đã được sự tích lũy lịch sử phong phú và thâm hậu qua các thời kỳ. Đặc
biệt, thế kỷ XX là thời kỳ đi sâu nghiên cứu sự sáng tạo của Đường thi trên mọi
phương diện. Nói chung đầu thế kỷ XX, hình thái học truyền thống vẫn rất thịnh
hành. Các tác giả và tác phẩm nghiên cứu thuộc loại hình này như: Trần Diễn 诗
衍 với Thạch di thất thi thoại 石诗室诗诗 và Tục biên 诗編, Vương Khải Vận 玉
诗诗 với Tương ỷ lâu thuyết thi 湘诗诗诗诗, Tương ỷ lâu lão nhân luận thi sách
tử 湘綺诗老人诗诗冊子, Vương Chí luận thi Đường thi tuyển 王志诗诗唐诗诗,
và tuyển tập phê bình Đường thi tuyển;Thẩm Tằng Thực 沈曾植 với Hải nhật lâu
trát tùng 海日诗札诗; Tống Dục Nhân 宋育仁 với Tam Đường thi phẩm 三唐诗
品; Chu Bảo Oanh 朱诗诗 với Thi thức 诗式; Cao Bộ Doanh 高步瀛 với Đường
Tống thi cử yếu 唐宋诗诗要 v.v… Chúng không chỉ nhiều về số lượng mà còn kế
thừa và vận dụng những hình thức thi thoại thi phẩm, bút kí, tuyển chọn phê bình,
lí luận thơ ca của người xưa để giải thích và bình phẩm Đường thi. Tuy nhiên
những kiến giải của các nhà nghiên cứu về nội dung tư tưởng vẫn chưa vượt qua
được những hạn chế của lớp người đi trước, mặc dù trong khi trình bày và phân
tích cụ thể đã có những nhận xét tinh tế và sâu sắc đáng tham khảo. Tuy vậy lúc
này một số quan niệm mới cũng đã bắt đầu nảy nở, Hồ Thích 胡適 năm 1915 đã
xuất bản hai cuốn sách Độc Bạch Cư Dị Dữ Nguyên Cửu thư 诗白居易《诗元久
書》và Độc Hương Sơn thi toả kí 诗香山诗诗诗. Trong hai cuốn sách này, ông đã
dựa vào sự phân chia giữa chủ nghĩa lý tưỏng và chủ nghĩa thực tế (còn viết là chủ
nghĩa hiện thực để giải thích Đường thi, qua đó mở ra một bầu không khí mới thu
hút sự nghiên cứu của các nhà nghiên cứu phương Tây. Từ tháng 9 năm đó trở đi,

trên Thanh Hoa chu san 诗诗周刊,học giả Ngô Mật 吳宓 liên tiếp đăng tải Dư
Sinh tuỳ bút 余生诗诗, trong đó phần nhiều nói về Đường thi. Ông lấy sự biến
thiên của Đường Tống thi để nói về sự chuyển biến từ trường phái quý tộc đến
trường phái bình dân mà Đỗ Phủ là điểm tiếp nối. Ông cho rằng Đỗ Phủ đã “lấy
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
5
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
ngôn từ của tầng lớp quý tộc Trung Quốc để nói về tư tưởng tình cảm của tầng
lớp bình dân”, và đến Bạch Cư Dị thì đã hoàn toàn trở nên bình dân. Quan điểm
này không chỉ trở thành sự mở đường cho chủ trương “bình dân văn học” của thời
kỳ Ngũ Tứ mà còn có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đối với các nhà văn học sử sau
này. Đến năm 1922, Lương Khải Siêu 梁诗超 xuất bản cuốn Tình thánh Đỗ Phủ
情聖杜甫. Danh hiệu Thi thánh 诗聖 vốn đặt cho Đỗ Phủ từ trước đến nay được
ông đổi thành Tình thánh 情聖. Trên thực tế đã thể hiện việc ông không lấy ngôn
chí, tải đạo làm điểm tựa mà lấy “thi vị biểu tình chi cụ” (thơ là công cụ biểu đạt
tình cảm) làm lập trường tư tưởng (Xem Quốc học nhập môn thư yếu mục cập kỳ
độc pháp phụ lục nhị 诗诗入诗诗要目及其诗法附诗). Điều này trong lĩnh vực
nghiên cứu Đường thi đã đưa ra một tư tưởng nhân bản mới mẻ.
Trải qua sự chuẩn bị và phát động của những năm đầu thế kỷ, vào giai đoạn
giao thời của những thập niên 20, 30 một loạt các tác giả, tác phẩm nghiên cứu về
Đường thi có quan niệm mới và hình thức mới lần lượt ra đời. Những cống hiến
về học thuật ở thời kỳ này là khá lớn và vô cùng đặc sắc. Có các tác giả nổi tiếng
như: Văn Nhất Đa 诗一多, Chu Tự Thanh 朱自诗, Trần Dần Khác 诗寅恪, Sầm
Trọng Miễn 岑重勉, Tiền Chung Thư 诗诗诗 v.v… Văn Nhất Đa 诗一多 đã làm
một số lớn công việc khảo đính các tác phẩm và thi nhân đời Đường, đồng thời
thông qua các công trình nghiên cứu của ông đã thể hiện tầm nhìn rộng lớn và tri
thức trác việt của một nhà văn học sử, cuốn Đường thi tạp luận 唐诗诗诗 của ông
tuy là một bộ trước thuật không hoàn chỉnh, nhưng sức nhìn thấu suốt, trên dưới
quán thông, xác thực có cấu tứ mang tính toàn cục biểu hiện trong đó. Sự chuyển
biến thi phong thời sơ Đường mà cuốn sách này bàn luận, từ cung thể thời sơ

Đường phỏng theo Lục Triều, qua Vương, Dương, Lô, Lạc (Tứ kiệt) bắt đầu phá
vỡ thể chế cũ và xây dựng thể chế mới, cho đến Lưu Hy Dy 诗 希 夷 , Trương
Nhược Hư 诗若诗 từng bước hoàn thành sự thăng hoa của cảnh giới thi ca, đã vẽ
nên bức tranh sáng sủa, rõ ràng về quá trình phát triển của Đường thi trong vòng
trăm năm trở lại (Xem các thiên Cung thể thi đích tự độc 诗诗诗的自诗), sự kiến
giải hữu cơ chỉnh thể nhìn diễn tiến thi ca là sự tương ứng đầu cuối, các khâu ăn
khớp nhau khiến người ta khi đọc cảm thấy mới mẻ. Văn Nhất Đa 诗一多 bàn về
thơ Giả Đảo 诗诗, từ sự biến chuyển của bối cảnh xã hội, ngoài tìm ra căn nguyên
xuất hiện và lưu hành thi phong thanh tĩnh, tác giả còn liên hệ một cách đặc biệt
với Tứ linh 四诗 xuất hiện những năm cuối thời Nam Tống: Phái Cảnh Lăng cuối
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
6
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
đời Minh, Đồng Quang Thể 同光诗 cuối đời Thanh, nói rõ mỗi triều đại “vào đêm
trước của sự huỷ diệt trong động loạn đều cần phải nghỉ ngơi”, vì thế mà “đều có
xu hướng quay về với Giả Đảo” (Xem bài viết Giả Đảo). Về khía cạnh so sánh
lịch sử, tìm ra quy luật vận động văn học, Văn Nhất Đa quả xứng đáng là người có
đầu óc mẫn tuệ. Đến tác phẩm Đường thi đại hệ 唐诗大系 do ông biên soạn, tổng
cộng thu thập ghi chép 263 thi nhân với hơn 1413 bài thơ, trong đó tiêu biểu là các
tác giả lớn như: Lý Bạch 李白, Đỗ Phủ 杜甫, Vương Duy 王诗, Mạnh Hạo Nhiên
孟浩然, Cao Thích 高適, Sầm Tham 岑诗, Hàn Dũ 诗愈, Liễu Tông Nguyên 柳宗
元, Bạch Cư Dị 白居易… Cuốn sách này không chỉ có quy mô rộng lớn, thơ được
tuyển chọn một cách kỹ càng, có con mắt riêng, hơn nữa có sự phối hợp việc khảo
cứu hiệu đính cho các tác phẩm thơ và viêc bổ xung, đính chính cho các tài liệu
truyền kí về thi nhân, thực sự đã vượt qua các tuyển tập khác trong lịch sử. Với
cuốn sách này, Văn Nhất Đa đã phá vỡ giới hạn của chính biến quan truyền thống,
tiến hành xem xét nhiều từ tính nghệ thuật của Đường thi. Ông chú trọng tới các tư
liệu về đời sống thi nhân và những thành tựu nghệ thuật của tác giả Đường thi, chỉ
ra được nguồn gốc và sự phát triển nghệ thuật nghệ thuật của toàn bộ thơ Đường.
Cuốn sách trở thành quyển tuyển tập Đường thi đầu tiên có ảnh hưởng sâu sắc và

rộng rãi trong thế kỷ này.
Với tác giả Chu Tự Thanh 朱 自 诗 , các tác phẩm chuyên môn bình luận
Đường thi của ông không nhiều. Tuy vậy chỉ một tác phẩm của ông là Đường thi
tam bách thủ chỉ đạo đại khái 唐诗三百首指诗大诗 đã có sự giải thích và phân
tích tương đối chính xác và toàn diện về các vấn đề của Đường thi như: đề tài, lối
sáng tác, thể tài, sự biến đổi, cách luật, thanh điệu v.v…Những điều được biên
soạn trong cuốn Kinh điển thường độc 經典常诗 của ông đã phá vỡ mạnh mẽ ý
kiến của các phái nghiên cứu Đường Tống vốn có, ông chủ trương từ góc độ sáng
tạo của văn học mà suy xét những lợi hại được mất trong sự chuyển biến từ
Đường thi sang Tống thi, khiến cho vấn đề treo lơ lửng đã lâu mà chưa có sự giải
quyết này có được phương hướng giải quyết đúng đắn, đồng thời cũng để lại sự
chỉ dẫn cho các học giả nghiên cứu sau này. Học giả Tiền Chung Thư lại dựa vào
việc so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa các vấn đề có liên quan đến Đường
Tống thi để đưa ra căn cứ. Cuốn sách Đàm nghệ lục 诗诗诗 do ông dùng thể bút
ký truyền thống viết nên (trong đó có một bộ phận đáng kể viết về Đường thi, mặc
dù không coi trọng việc xây dựng lí luận nhưng ở mỗi đoạn văn đều có sự dẫn
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
7
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
chứng những tư liệu lịch sử từ xưa đến nay, từ trong nước đến ngoài nước một
cách đầu đuôi ngọn ngành. Sự kết hợp giữa tham khảo và chứng minh này đã
khiến cho vấn đề có được sự phát triển mới, được coi là điển hình cho nghiên cứu
văn học so sánh.Trần Dần Khác 诗寅恪 và Sầm Trọng Miễn 岑仲勉 lại dựa vào số
phận lịch sử của các tác giả để xem xét, nghiên cứu về Đường thi. Các nhà nghiên
cứu đưa ra phương pháp gọi là “dĩ thi chứng sử, dĩ sử chứng thi” 以诗诗史, 以史
诗诗, dung hòa sử học và thi học vào làm một. Điều này không những làm phong
phú thêm tư liệu nghiên cứu của cả lịch sử và thi ca, mà còn bàn đến một cách
rộng rãi nhiều lĩnh vực quan trọng có mối quan hệ mật thiết với Đường thi như
tình hình kinh tế, chính trị, khoa cử, giáo dục, học thuật, văn nghệ, dân tộc, tôn
giáo và mối quan hệ giữa giao lưu dân tộc, giao lưu quốc tế với sáng tạo thi ca.

Thể hiện một bức tranh phức tạp về mối quan hệ giữa văn học và mọi phương diện
đời sống con người.
Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến trước năm 1949, việc nghiên cứu
Đường thi được đánh dấu bằng sự bắt đầu của phong trào “Ngũ Tứ” 五四 với chủ
trương “Tân văn hoá” 新文化.Giới học thuật “Ngũ Tứ” dưới góc độ đối lập cũ
mới đã đưa ra khẩu hiệu “Cách mạng văn học” 革命文诗, đặt ra một cách gay gắt
vấn đề thay đổi văn hoá truyền thống. Chính điều đó đã dẫn đến việc đánh giá lại
những giá trị của văn học cổ điển trong đó có Đường thi. Trần Độc Tú 诗诗秀
trong cuốn Văn học cách mạng luận 文诗革命诗 cho rằng văn học Trung Quốc
bắt nguồn từ Thi kinh và Sở từ (dùng nhiều thổ ngữ phương vật nhưng về sau lại
dần dần biến thành “văn học cổ điển quý tộc trống rỗng, phô trương, hùa theo gọt
giũa”, “hình thức của nó thì cũ rích, lỗi thời hữu nhục vô cốt, hữu hình vô thần,
như đồ trang trí mà không có giá trị thực dụng, nội dung của nó thì tầm mắt
không vượt qua đế vương quyền quý, thần sơn quỷ quái và sự cùng thông lợi đạt
của một cá nhân. Cái gọi là vũ trụ, nhân sinh, xã hội không nằm trong tư tưởng
của nó”. Do đó phải triệt để loại bỏ cái cũ, thiết lập cái mới, Hồ Thích 胡適 trong
cuốn Bạch thoại văn học sử 白诗文诗史 cũng cho rằng: “dựa vào con mắt tiến
hoá lịch sử của thế kỷ này để quan sát thì Bách thoại văn học là chính thống của
văn học Trung Quốc, lại là lợi khí tất dụng của văn học tương lai”. Chính những
điều đó đã khiến việc xem xét văn học Trung Quốc tự nhiên nảy sinh ra một loại
quan niệm mới. Đồng thời với việc đề xuất “cách mạng văn học” với mục tiêu cơ
bản là thiết lập một nền văn học mới, nhưng việc xây dựng một nền văn học mới
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
8
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
lại bắt buộc phải có sự tiến hành đánh giá lại những giá trị văn học truyền thống.
Đây là lí do khiến cho giới học thuật “Ngũ Tứ” một mặt phải sáng tạo một dạng
thức văn học mới, một mặt phải dồn sức nghiên cứu văn học truyền thống. Đương
nhiên trong mấy mươi năm của giai đoạn này, tình hình nghiên cứu Đường thi tự
nó có sự phát triển. Nhìn chung mà nói, thời kỳ đầu nặng về cách tân quan niệm,

như Hồ Thích 胡適

trong cuốn Bạch thoại văn học sử 白诗文诗史 đã lần đầu tiên
phá vỡ sự phân kỳ “Tứ Đường” 四唐, đề xuất thuyết chia Đường thi làm hai thời
kỳ, đồng thời cho rằng “Dựa vào sự thái bình lâu dài của chính trị mà luận thì
người ta gọi là Thịnh Đường 盛唐, dựa vào văn học mà luận, sự thịnh vượng kỳ
thực không nằm ở thời kỳ này. Sau đại loạn cuối năm Thiên Bảo 天诗, lúc này
mới là thời kỳ Đường thi đã trưởng thành”, “Khai Nguyên, Thiên Bảo 诗元, 天诗
là thời kỳ thịnh, là thời kỳ thái bình nhưng văn học thời kỳ này là văn học ca vũ
thăng bình, nội dung lãng mạn, ý cảnh là sự làm dáng, nhưng ngược lại, xã hội
giai đoạn sau nửa cuối thế kỷ 8 là xã hội loạn li, thì văn học thời kỳ này là văn
học hô hào sầu khổ, là văn học của sự đau khổ, nội dung viết những điều có thực,
ý cảnh chân thực”. Ông cũng cho rằng: “lịch sử thi ca triều đại nhà Đường từ Sơ
Đường đến Vãn Đường là một giai đoạn lịch sử của từng bước Bạch thoại hóa”.
Như vậy, trong tất cả những luận thuật này, các vấn đề bức thiết hiển nhiên đều
chống lại thuyết cũ truyền thống, thể hiện đặc trưng mới mẻ rõ ràng của thời đại.
Ở giai đoạn sau lại nặng về thực chứng, rất nhiều học giả trong lĩnh vực nghiên
cứu Đường thi đã vận dụng các phương pháp khoa học, loại bỏ cách thức bình
điểm hoặc cách phê bình ấn tượng của phương thức truyền thống. Các nhà nghiên
cứu đã thông qua hệ thống tài liệu hoàn chỉnh để viết nên một số lượng lớn các
luận văn hoặc những chuyên luận có tầm nhìn rộng lớn, có tính khái quát cao. Các
học giả đã chú ý nghiên cứu một cách hoàn chỉnh, thống nhất với toàn bộ tiến
trình Đường thi. Bên cạnh một số luận văn khả quan, còn xuất hiện hàng loạt các
tác phảm học thuật như: cuốn Đường thi nghiên cứu 唐诗诗究 của Hồ Vân Dực
胡云翼, cuốn Đường thi tổng luận 唐诗诗诗 của Hứa Văn Ngọc 诗文玉, cuốn
Đường đại thi học 唐代诗诗 của Dương Khải Cao 诗诗高, Tô Tuyết Lâm 诗雪林
với cuốn Đường thi khái luận 唐诗诗诗. Trong đó đặc biệt là cuốn Đường thi khái
luận của Tô Tuyết Lâm giống như một sự khái thuật về văn học đoạn đại. Cuốn
sách này mở ra với chương đầu tiên là Đường thi long thịnh chi nguyên nhân 唐诗
隆盛之原因. Tác giả đã đem nguyên nhân phồn thịnh của thơ Đường quy kết về

Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
9
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
sự lớn mạnh của trào lưu tư tưởng học thuật và sự sáng sủa của bối cảnh xã hội
chính trị, sự sáng tạo nỗ lực cách điệu văn học. Chương tiếp theo nói về Đường thi
biến thiên chi khái huống 唐诗诗诗之诗诗, chia sự phát triển của Đường thi làm
năm thời kỳ: một là, thời kỳ kế thừa phong cách cổ điển Tề Lương 诗 梁 , lấy
Vương Tích 王诗, “Tứ Kiệt” 四杰, “Thẩm Tống” 沈、宋, Trần Tứ Ngang 诗子诗,
Trương Cửu Linh 诗九诗 làm đại biểu; hai là, thời kỳ hưng thịnh của thơ ca lãng
mạn lấy Lí Bạch 李白, Vương Duy 王诗, Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然, Cao Thích 高
適, Sầm Tham 岑诗, Lý Kỳ 李诗, Vương Xương Linh 王昌诗, Thôi Hạo 崔诗 làm
đại biểu; ba là, thời kỳ ra đời của văn học tả thực lấy Đỗ Phủ 杜甫, Đại lịch Thập
tử 大诗十子, “Hàn Mạnh” 翰、孟, “Nguyên Bạch” 元、白, “Trương Vương” 诗、
王 làm đại biểu; bốn là, thời kỳ phát triển của văn học duy mĩ lấy Ôn Đình Quân
溫庭筠, Lý Thương Ẩn 李商隱, Đỗ Mục 杜牧 làm đại biểu; năm là, thời kỳ sụp
đổ đi xuống của Đường thi lấy Hàn Ốc 诗屋, Bì Nhật Hưu 皮日休, Tư Không Đồ
司空诗… làm đại biểu. Phần còn lại của cuốn sách là sự phân tích bình luận về
tác giả. Có thể dễ dàng nhận thấy đặc điểm nổi bật nhất của cuốn sách này là việc
trình bày và phân tích về sự biến đổi và phát triển của Đường thi. Tác giả với tầm
mắt rộng lớn, suy xét rõ ràng, đã có được sự phác thảo ban đầu với lịch sử Đường
thi.
Các tác giả đã trình bày ở trên từ những con đường tư tưởng khác nhau đã
bước vào mảnh đất nghiên cứu Đường thi. Những thành quả học thuật của họ có ý
nghĩa chỉ đạo đối với văn học cổ điển trong suốt thế kỷ XX về mặt phương pháp
luận.
Tuy nhiên, nhìn chung mà nói, việc nghiên cứu lí luận về Đường thi ở thời
kỳ này tuy có những đột phá nhiều mặt, nhưng vẫn thuộc giai đoạn ban đầu của
sáng tạo, chưa thể xây dựng được một bộ khung khoa học nghiêm chỉnh. Điều đó
gắn bó chặt chẽ với tình trạng thế giới quan và phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác vẫn chưa chiếm lĩnh được vị trí chủ đạo trong lĩnh vực nghiên cứu

văn học cổ điển. Bên cạnh đó, xã hội học dung tục, tiến hoá luận và phương pháp
luận của chủ nghĩa thực dụng vẫn đang lưu hành. Việc lấy tư tưởng chính giáo của
Nho Gia làm cơ sở để mĩ thích, khen chê, coi chính biến quan và lí luận văn học
có cùng bước tiến thịnh vượng và suy tàn với thời đại lịch sử vẫn còn phổ biến.
Chính điều đó làm cho các tác phẩm Đường thi cụ thể không bị cho là ca ngợi thời
thế thịnh vượng thì cũng bị hiểu là tác phẩm oán trách thời thế. Trên cơ sở chính
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
10
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
biến, các tác giả cụ thể của đường thi bị phân chia thành nhiều đẳng cấp chính
tông, tà thuyết, khi quan chiếu so sánh với các thi tác đời Tống thi càng đẩy mạnh
sư tranh chấp nghìn đời giữa “Tông Đường khiêu Tống”. Thêm nữa là sự động
loạn bất an của toàn bộ hoàn cảnh chính trị xã hội đã khiến việc xây dựng văn hoá
khoa học không thể được triển khai một cách toàn diện và có kế hoạch. Điều đó
làm cho việc nghiên cứu Đưòng thi trước sau cũng chỉ bảo lưu trên bàn của một số
ít những người làm công tác chuyên nghiệp, khi liên tục, khi đứt đoạn, tự sinh tự
diệt, khó mà tạo thành một bầu không khí rộng lớn. Đó là những thiếu sót đáng kể
của tình hình nghiên cứu Đường thi trong giai đoạn đầu thế kỷ XX đến trước năm
1949. Những thiếu sót này sẽ được nhận thức và khắc phục dân dần trong những
giai đoạn tiếp theo của sự nghiệp nghiên cứu Đường thi.
II. LƯỢC THUẬT TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐƯỜNG THI Ở TRUNG
QUỐC TỪ NĂM 1949 ĐẾN HẾT CÁCH MẠNG VĂN HÓA
Bắt đầu từ thập niên 50, việc nghiên cứu Đường thi bước vào một giai đoạn
mới. Sự thành lập nhà nước Trung Quốc mới đã mở rộng bối cảnh phát triển cho
sự nghiệp nghiên cứu Đường thi, từ khi thành lập nước, dưới sự quan tâm của
Đảng và chính phủ, công tác giảng dạy hoc tập, nghiên cứu khoa học về văn học
cổ điển đã được coi trọng, việc chỉnh lí thư tịch cổ cũng có sự quy hoạch thống
nhất. Hàng loạt sự sửa chữa, chú giải, biên niên, tập thành của các tư liệu nghiên
cứu và các tổng tập, biệt tập được đưa ra bàn luận công khai. Các chuyên đề về tác
giả, truyền kí, niên phổ, bình luận v.v…đều đạt được trình độ mới. Xuất bản ảnh

ấn Toàn Đường thi 全唐诗 và một loạt các biệt tập, tổng tập của người đời Đường,
tiến hành đi sâu công tác tân hiệu, tân biên, vựng bình, vựng chú, biên niên, khảo
đính; biên soạn dần dần các trước tác nghiên cứu về thi nhân như niên phổ, truyện
ký…; phát hành và tiêu thụ một số lượng lớn các tuyển bản tầng thứ cao-trung-sơ
khác nhau và các ấn phẩm đọc thông tục. Đòng thời với đó là việc tăng cường
từng bước đội ngũ nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp và nghiệp dư; nuôi dưỡng
lành mạnh phong khí tranh luận học thuật, hợp tác lẫn nhau. Tất cả những điều đó
đã thúc đẩy khiến cho việc thưởng thức và nghiên cứu Đường thi có sự triển khai
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
11
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
rộng rãi và lâu dài, hiển hiện ra sức sống mơn mởn tốt tươi, đó là điều không thể
so sánh nổi của ba mươi năm trước kiến quốc.
Tuy nhiên, đặc điểm lớn nhất của việc nghiên cứu Đường thi trong giai đoạn
này là sự xác lập địa vị chủ đạo của tư tưởng lí luận của chủ nghĩa Mác. Dưới sự
chỉ đạo của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, người ta đã
bắt đầu hiểu được từ đặc điểm cơ bản của phương thức sản xuất vật chất của xã
hội, quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp để tìm tòi nguyên nhân động cơ phát
triển biến đổi của hiện tượng văn học. Các học giả đã thường xuyên chú ý tới chức
năng phản ánh hiện thực cuộc sống của văn học, thiên về việc đứng từ góc độ xem
xét sự biến đổi của kinh tế, chính trị để giải thích sự biến đổi của Đường thi, đồng
thời coi trọng nghiên cứu mối quan hệ trực tiếp, gián tiếp giữa cuộc sống nhân dân
và sáng tác của các tác giả…Bên cạnh đó các học giả cũng chú ý đến sự thông
nhất nội tại giữa khuynh hướng chính trị tư tưởng và biểu hiện nghệ thuật của tác
phẩm. Nhưng điều đó ngày nay xem ra có lẽ sẽ bị coi là quan niệm mọi người đều
biết, song trong lĩnh vực nghiên cứu văn học cổ điển đương thời lại là một cuộc
cách mạng khai phá chân trời mới, nó khiến cho đám mây lịch sử nặng nề tích tụ
ngàn năm trong quá khứ được xua tan và sáng tạo tiền đề lí luận cho việc nghiên
cứu Đường thi hướng tới khoa học hoá chân chính.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng

muốn nghiên cứu văn học cổ điển thì phải có sự xem xét đánh giá đối với toàn bộ
nền văn hoá dân tộc. Nếu như thái độ của thời kỳ “Ngũ Tứ” 五四 đối với truyền
thống văn hoá về tổng thể là triệt để phủ định thì thời kỳ này lại cải biến thành thái
độ kế thừa bằng cách phê phán. Mao Trạch Đông 毛诗诗 trong cuốn Tân dân chủ
chủ nghĩa luận 新民主主诗诗 từng nói: “trong xã hội phong kiến lâu dài của
Trung Quốc, đã sáng tạo được nền văn hoá cổ đại xán lạn, thanh lí quá trình phát
triển của văn hoá cổ đại, loại trừ những cặn bã mang tính phong kiến của nó, tiếp
thu những tinh hoa có tính dân chủ của nó, đó là điêu kiện tất yếu của việc phát
văn hoá mới dân tộc, đề cao lòng tự tin dân tộc. Nhưng quyết không thể tiếp nhận,
tích tụ một cách không phê bình”. Bắt buộc phải phân biệt những thứ hủ bại của
giai cấp phong kiến cổ đại với văn hoá nhân dân ưu tú, tức là những thứ ít nhiều
mang tính cách mạng. Quan điểm luận thuật này măc dù mới ra đời trong khoảng
những năm 40 của thế kỷ XX nhưng sau khi thành lập đất nước, trên thực tế đã trở
thành sự chỉ đạo cơ bản trong lĩnh vực nghiên cứu văn học cổ đại nói chung và
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
12
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
nghiên cứu Đường thi nói riêng. Đồng thời với đó là việc căn cứ vào nội dung trên
mà hình thành nên một hệ thống bình giá mới tức là dùng quan điểm duy vật lịch
sử để xem xét nội dung văn học cổ điển. Nó kiên trì hai tiêu chuẩn, một bên là tiêu
chuẩn chính trị, một bên là tiêu chuẩn nghệ thuật, trong đó tiêu chuẩn chính trị là
thứ nhất, tiêu chuẩn nghệ thuật là thứ hai. Dưới ảnh hưởng của tư tưởng này, nên
khi tiếp cận từng tác giả, tác phẩm cụ thể thường chú ý xem xét tác giả, tác phẩm
đó có thái độ như thế nào đối với nhân dân, đồng thời từ góc độ phát triển xã hội
để bình giá ưu điểm, khuyết điểm của tác phẩm văn học. Dưới tình hình này, việc
nghiên cứu Đường thi xuất hiện khí tượng mới khiến cho người ta cảm thấy hoàn
toàn mới mẻ. Việc nghiên cứu theo phương pháp xã hội học đối với văn học có sự
phát triển sâu rộng. Các tác phẩm nghiên cứu văn học sử Trung Quốc được xuất
bản trong thời kỳ này bao gồm những chuyên đề phân kỳ lịch sử và những chuyên
luận như: Chu Tổ Soạn 周祖诗 với cuốn Tuỳ Đường Ngũ đại văn học sử 诗唐五

代文诗史 Phúc Kiến Nhân Dân xuất bản xã, 1959 福建人民出版社,1959, Vương
Sĩ Thanh 王士菁 với cuốn Đường đại thi ca 唐代诗歌 (Nhân Dân xuất bản xã
1959 人民 文诗出版社 1959; Nhà xuất bản Nhân Dân Văn Học biên tập cuốn:
Đường thi nghiên cứu luận văn tập 唐诗诗究诗文集 (Nhân Dân Văn Học xuất
bản xã 1959 人民文诗出版社 1959; Lưu Khai Dương 诗诗诗 với cuốn Đường thi
luận văn tập 唐诗诗文集 (Trung Hoa Thư Cục, Thượng Hải Biên Tập Sở 1961 中
诗诗局上海诗诗所 1961, Dương Công Ký 楊公诗 với cuốn Đường đại dân ca
khảo thích cập biến văn khảo luận 唐代民歌考诗及诗文考诗 (Cát Lâm Nhân
Dân xuất bản xã, 1962 吉林人民出版社,1962. Những nội dung đã nói ở trên có
được sự phản ánh rõ ràng trong các cuốn sách này. Các tác giả như: Lý Bạch, Đỗ
Phủ, Bạch Cư Dị,…là những tác giả đầu tiên được nghiên cứu một cách nhiệt tình
kỹ càng, chỉ ra một cách xuât sắc các tầng quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và cuộc
sống hiện thực. Điều này có ý nghĩa tích cực trong việc sửa chữa quan niệm phát
triển tuyến tính của tiến hoá luận dung tục, giương cao truyền thống hiện thực chủ
nghĩa và tính nhân dân trong văn học cổ điển. Giới học giả lúc bấy giờ không
ngừng tranh luận về mối quan hệ giữa chính trị, kinh tế, xã hội thời Đường với văn
học thời Đường, thảo luận về nguyên nhân phồn vinh rực rỡ của Đường thi, nội
hàm của “Thịnh Đường khí tượng” 盛唐诗象, bình giá với các phái “biên tái thi
phái” 诗塞诗派, “sơn thuỷ điền viên thi phái” 山水田诗诗派, “phong trào cổ văn”
古文诗诗, “phong trào tân nhạc phủ” 新诗府诗诗 v.v…Đặc biệt, vào giai đoạn
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
13
Nguyễn Thị Thùy Lược thuật tình hình nghiên cứu Đường thi ở TQ thế kỷ XX
thập niên 50- 60, việc nghiên cứu Đường thi ở một mức độ nào đấy có ý nghĩa của
hoạt động chính phủ, điều này khiến cho việc nghiên cứu giáo học của văn học cổ
điển, việc chỉnh lý xuất bản cổ tịch đã có được sự quy hoạch thống nhất. Việc
chỉnh lý và nghiên cứu cổ tịch đã trở thành phương sách cơ bản của việc phát triển
văn hoá quốc gia, được đưa lên các mặt báo thảo luận công khai. Viêc xây dựng
và kết cấu khoa học về lịch sử văn học đời Đường dưới sự nỗ lực của cả một tập
thể đông đảo đã dần dần có kế hoạch.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không ngần ngại khi nói rằng con đường nghiên
cứu Đường thi trong giai đoạn này không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió.
Trong thời kỳ này, dưới sự quấy nhiễu của đường lối tư tưởng “tả” khuynh, công
tác chỉnh lý và nghiên cứu thư tịch cũng chịu mấy lần sóng gió. Do sự lí giải của
các nhà nghiên cứu về đường lối chủ nghĩa Mác chứa đựng nhiều thành phần tư
tưởng của xã hội học dung tục và hình nhi thượng học như: phóng đại một cách
quá đáng những ảnh hưởng có tính chất quyết định của kinh tế, chính trị đối với
văn học mà lơ là những ảnh hưởng của nhân tố văn hoá khác đối với văn học,
phiến diện tuyên truyền rộng rãi cho tính nhân dân và truyền thống hiện thực chủ
nghĩa mà coi thường giá trị những nhu cầu thẩm mĩ phong phú đa dạng của con
người, chính điều đó làm hạn hẹp tầm mắt nghiên cứu và việc chạy theo chính trị
phương diện tiêu chuẩn phán đoán, thậm chí còn liên luỵ đến một số tiếng nói học
thuật rất có ý nghĩa chẳng hạn như liên quan đến một số nguyên nhân phát triển
rực rỡ của Đường thi, “Thịnh Đường khí tượng”, những thảo luận nghiên cứu về
các phái “biên tái thi phái”, “sơn thuỷ điền viên thi phái” đều chưa được phát triển
một cách rộng rãi và có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc chú trọng xem xét mối quan
hệ giữa các tác giả, tác phẩm với đời sống xã hội, với quần chúng nhân dân ngoài
việc mang lại những đóng góp tich cực thì việc quá chú trọng đến phương diện
này cũng dần dần hình thành sự ngẫu hoá cục diện. Do tất cả đều xuất phát từ tính
nhân dân, tất cả các tác giả, tác phẩm đều bị người ta chia thành tiến bộ và lạc hậu,
tinh hoa và cặn bã. Điều này đã gây tổn hại cho sự nghiệp học thuật Đường thi.
Đến thời kỳ mười năm động loạn, khuynh hướng hình thức nhi thượng học
càng ngày càng được áp dụng rộng rãi và mạnh mẽ, thậm chí còn dùng tư tưởng
“Nho Pháp đấu tranh” để xem xét toàn bộ nền văn học sử. Điều đó khiến cho tất
cả các nhà nghiên cứu đều đi theo một con đường, tạo nên tư tưởng đề cao Lí
Bạch, gièm pha Đỗ Phủ, khen ngợi Liễu Tông Nguyên, chê bai Hàn Dũ, hoàn toàn
Niên luận - Lớp Văn K.49 CQ
14

×