Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

nghiên cứu sự sinh trưởng cảu nấm linh chi trên môi trường dinh dưỡng mạt cưa cao su

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.8 KB, 17 trang )

A . MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nấm là loại thực phẩm giàu dinh dưỡng và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị
kinh tế cao: Hàm lượng protein chỉ sau thịt, cá, rất giàu các chất khoáng và các
axit amin không thay thế, các loại vitamin A, B, C, D, E,
Ngoài các giá trị về mặt dinh dưỡng, một số loại nấm còn có giá trị làm thuốc
chữa bệnh: nấm hương có tác dụng bổ huyết, trừ phong, chữa bệnh đậu mùa cho trẻ
em, chữa bệnh sùi da, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể, chữa bệnh huyết áp cao,
giảm cholesterol; Nhiều loại nấm chứa polysacharit nâng cao khả năng ức chế u bướu,
một số loại còn có khả năng phòng chống bệnh ung thư. Bên cạnh đó phát triển sản
xuất nấm ăn góp phần tận dụng nguồn phế phẩm của nông nghiệp và sử dụng được
nguồn lao động dồi dào trong nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân, góp phần dịch
chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và xây dựng Nông thôn mới, bảo vệ
môi trường.
Với những ý nghĩa to lớn đó, ngày 12/11/2013 nấm ăn và nấm dược liệu được đưa
vào danh mục sản phẩm Quốc gia theo Quyết định số 2690/QĐ-BNN-BKHCN. Tại
tỉnh Hà Tĩnh, sớm xác định đây là một trong những sản phẩm nông nghiệp có thể phát
triển mạnh trên địa bàn; từ những năm 2002 đến nay, Sở KH&CN và Bộ KH&CN đã
đầu tư thực hiện thành công nhiều dự án KH&CN, đã tiếp nhận và làm chủ nhiều quy
trình từ khâu sản xuất giống đến sản xuất thương phẩm đối với nhiều loại nấm. Đặc
biệt, đầu năm 2013 Hà Tĩnh đã kịp thời ban hành các chủ trương, chính sách nhằm tạo
bước đột phá trong phát triển nghề trồng nấm và đưa nấm ăn, nấm dược liệu trở thành
sản phẩm chủ lực của địa phương như công văn số 197/UBND-NL1 ngày 17/01/2013
của UBND tỉnh về việc tập trung chỉ đạo thực hiện nhân rộng mô hình nấm; Quyết
định số 1453/QĐ-UBND ngày 22/5/2013 về việc phê duyệt Đề án Phát triển sản xuất
nấm ăn và nấm dược liệu tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020; Quyết định số 09/2013/QĐ-
UBND sửa đổi, bổ sung Quyết định số 26/2012/QĐ-UBND về quy định tạm thời về
hỗ trợ vay vốn các tổ chức tín dụng phát triển sản xuất; Quyết định 26/2014/QĐ-
UBND về việc ban hành một số chính sách khuyến khích phát triển bảo quản, chế
biến và tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020. Đây là những cơ
sở khoa học và pháp lý quan trọng thúc đẩy sự phát triển mạnh của nghề nấm trong


tương lai.
Với sự nổ lực, vào cuộc tích cực của cấp ủy chính quyền từ tỉnh đến địa phương,
quyết tâm của bà con nông dân; định hướng đúng đắn, hỗ trợ có hiệu quả của Sở
KH&CN tỉnh và Bộ KH&CN, nghề sản xuất nấm Hà Tĩnh ngày một phát triển: Thành
lập Trung tâm Phát triển nấm ăn và nấm dược liệu, đến nay Trung tâm đã được đầu tư
xây dựng được một hệ thống đầy đủ trang thiết bị, đảm bảo phục vụ nhu cầu của bà
con nông dân trong và ngoài tỉnh; đã tiếp nhận và làm chủ công nghệ sản xuất 11 loại
giống nấm từ công đoạn nuôi cấy giống gốc, cấp 1, cấp 2, cấp 3 đến sản xuất phôi,
bịch giống chất lượng cung cấp cho nhu cầu sản xuất, đặc biệt là các loại nấm sò, mộc
nhĩ, nấm rơm, đùi gà, kim châm, ngọc châm và nấm linh chi, Qua số liệu của khảo
sát năm 2013 của Chi đoàn Thanh niên Cộng sản HCM (Sở KH&CN) cho thấy, việc
xây dựng mô hình trồng nấm ở Hà Tĩnh đã có những bước phát triển khá nhanh về số
lượng, qui mô: Nếu năm 2010 toàn tỉnh có 37 cơ sở trồng nấm thì đến năm 2011 có
48 cơ sở, năm 2012 có 100 cơ sở và năm 2013 tăng lên 169 cơ sở (với sự tham gia
của 287 hộ). Diện tích trồng nấm tăng nhanh qua các năm: nếu như năm 2010 diện
tích lán trại trồng nấm toàn tỉnh là 3.580m
2
thì năm 2013 là 21.515m
2
tăng gấp 6 lần
bình quân mỗi năm tăng gấp đôi so với cùng kỳ. Tỷ lệ lán trồng nấm kiên cố và bán
kiên cố trên 70%, tỷ lệ số hộ có diện tích trên 50 m
2
chiếm trên 75 %. Người dân bắt
đầu có niềm tin vào nghề trồng nấm và đang chuyển hướng mạnh mẽ sang sản xuất
hàng hóa với qui mô ngày càng lớn. Sản lượng nấm các loại năm 2013 đạt khoảng
300 tấn trong đó nấm sò, mộc nhĩ và nấm rơm chiếm khoảng 80% còn lại là nấm
dược liệu. Thị trường tiêu thụ nấm ngày càng được mở rộng trong và ngoài tỉnh, là
điều kiện quyết định cho phát triển sản xuất ở Hà Tĩnh. Thị trường trong nước đang
trở nên sôi động hơn khi người tiêu dùng, các khách sạn, nhà hàng đã trở nên quen

thuộc đối với món ăn từ nấm. Mặt khác Hà Tĩnh đang trong thời kỳ kinh tế phát triển
nhanh, nhiều dự án được triển khai thu hút lực lượng lớn lao động, chắc chắn thị
trường tiêu thụ nấm ăn trong thời gian tới sẽ tăng nhanh.
Tuy số lượng các tác nhân tham gia ngành hàng nấm của Hà Tĩnh khá đa dạng,
nhưng sản phẩm chính trong các kênh phân phối vẫn là nấm tươi (nấm rơm, nấm sò,
mộc nhĩ tươi, kim châm, đùi gà) và mộc nhĩ khô, linh chi, nấm hương. Riêng đối với
nấm mộc nhĩ và linh chi là sản phẩm đặc thù chủ yếu được tiêu thụ ở dạng khô (qua
phơi nắng hoặc sấy), số lượng sản phẩm nấm còn ít và đang yếu trong vấn đề bảo
quản, chế biến. Đây là hạn chế lớn nhất làm cho chuỗi giá trị tham gia thị trường
không phong phú. Hiện nay ngành hàng nấm Hà Tĩnh có 3 kênh tiêu thụ, qua phân
tích số liệu điều tra cho thấy: Đối với từng đối tượng nấm khi kênh tiêu thụ khi càng
qua nhiều tác nhân của chuỗi giá trị thì giá trị càng tăng lên, ví dụ đối với nấm sò:
Kênh tiêu thụ 1 (Cơ sở sản xuất -> Người tiêu dùng): Giá trị lợi nhuận đạt 41,06 % so
với chi phí sản xuất; Kênh tiêu thụ 2 (Cơ sở sản xuất -> Cơ sở thu gom, phân phối ->
Người tiêu dùng): Giá trị lợi nhuận đạt 52,67 % so với chi phí bỏ ra (sản xuất và thu
gom, phân phối), tăng 11,61 % lợi nhuận so với kênh tiêu thụ 1; Kênh tiêu thụ 3 (Cơ
sở sản xuất -> Cơ sở thu gom, phân phối -> Bán lẻ -> người tiêu dùng): Giá trị lợi
nhuận đạt 62,52 % so với chi phí bỏ ra (sản xuất, thu gom, phân phối và bán lẻ), tăng
11,61 % lợi nhuận so với kênh tiêu thụ 2 và 21,46 % so với kênh tiêu thụ 1. Tuy
nhiên, thị trường tiêu thụ nấm ở Hà Tĩnh đang chủ yếu thuộc Kênh tiêu thụ 1 đối với
tất cả các sản phẩm nấm (trung bình trên 60 % dòng hàng chu chuyển qua kênh này),
đây chính là nguyên nhân làm cho thị trường ngành hàng nấm Hà Tĩnh chưa thực sự
phát triển.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn trong vấn đề tiêu thụ, Sở KH&CN đẩy mạnh công
tác tuyên truyền đến với người sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng qua nhiều kênh thông
tin. Qua 2 năm 2013, 2014 đã có 7 chuyên đề truyền hình; 6 số Báo Hà Tĩnh; 5 lớp
tập huấn tại các xã với gần 1000 học viên và thông tin qua bản tin KHCN với nông
thôn và tập san khoa học công nghệ, đài phát thanh, các báo ở địa phương và TW,…
truyền thông về sản xuất, giá trị dinh dưỡng, thị trường nấm. Xây dựng và đưa vào sử
dụng Website “Namhatinh.com.vn” là trang web chia sẻ kiến thức tổng hợp về kỹ

thuật sản xuất nấm (trồng, chế biến, bảo quản…), các thông tin thị trường, thông tin
về chính sách hỗ trợ, giới thiệu, quảng bá sản phẩm nấm, và các thông tin cần thiết
khác với mục đích hướng dẫn, giúp đỡ người sản xuất nấm nắm rõ kỹ thuật, chính
sách hỗ trợ của nhà nước, từng bước tiếp cận thị trường tìm đầu ra ổn định cho các
sản phẩm nấm. Ngoài ra, Sở còn triển khai thử nghiệm gian hàng trưng bày, giới
thiệu, quảng bá và đầu mối kinh doanh các sản phẩm từ nấm tại Thành phố Hà Tĩnh.
Gian hàng đã được đầu tư trang bị một số thiết bị bảo quản nấm tươi, có diện tích
tương đối rộng rãi, nằm ở vị trí trung tâm của Thành phố nên khá thuận lợi trong việc
giới thiệu, giao dịch mua bán nấm. Tuy nhiên, về lâu dài cần có những giải pháp tổng
thể giải quyết đầu ra cho sản phẩm nấm, như: sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, chế
biến và tiêu thụ sản phẩm, sự tác động của công nghệ khoa học kỹ thuật để tổ chức
sản xuất tốt hơn; xây dựng mối liên kết giữa hộ sản xuất với người tiêu dùng, người
thu gom phân phối, các đại lý bán buôn,…; tăng cường thông tin, quảng bá, xúc tiến
thương mại cho sản phẩm nấm; chú trọng công tác xây dựng thương hiệu; hình thành
và phát triển các cơ sở chế biến nấm tham gia vào chuỗi tiêu thụ sản phẩm,…
Hợp tác trong trồng nấm là một xu hướng tất yếu trong cơ chế thị trường vì nó tạo
ra sức mạnh cho những người trực tiếp sản xuất. Các hoạt động liên kết trong chuỗi
có thể là mua
chung giống, phòng trừ sâu bệnh, tiêu thụ sản phẩm,thông tin thị trường. Liên kết
trong trồng nấm không những tạo ra thị trường cung cấp hàng hoá với số lượng lớn để
đáp ứng những khách hàng lớn mà còn chống được rủi ro, hỗ trợ, tương trợ nhau về
giống, vốn và kỹ thuật. Ở Hà Tĩnh vấn đề này còn rất manh mún, có một vài nơi làm
thí điểm nhưng chưa được nhân rộng và thành công như mong đợi. Nếu làm tốt chức
năng dịch vụ đầu vào, đầu ra trong nghề nấm đó là một hướng đi phù hợp với những
vùng có tiềm năng trồng nấm lớn. Thực hiện được điều này sẽ góp phần giảm được
chi phí đầu vào, có thể ký kết những hợp đồng tiêu thụ với khối lượng lớn.
Để nghề trồng nấm ở Hà Tĩnh ngày càng có những bước tiến vững chắc hơn cần
tiếp tục có sự vào cuộc tích cực của các sở, ban, ngành liên quan, cấp ủy chính quyền
các địa phương và nỗ lực, quyết tâm của bà con nông dân. Sản xuất nấm chỉ có thể tạo
bước đột phá khi sản phẩm làm ra được công chúng đón nhận và tự bản thân nó phải

đâm chồi, bén rễ ngay trong môi trường cạnh tranh./.
 Xuất phát từ thực tiễn đó chúng tôi đề xuất thực hiện đề tài “ NGHIÊN CỨU SỰ
SINH TRƯỞNG NẤM LINH CHI TRÊN MÔI TRƯƠNG DINH
DƯỠNG MẠT CƯA CAO SU”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Xác định quy trình nuôi trồng nấm linh chi đỏ cho hiệu quả cao nhất
- Nghiên cứu tốc độ sinh trưởng của giá trị nấm linh chi trên giá thể mạt cưa cao su
3. ĐỐI TƯỢNG
a. Đối tượng nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu là loại nấm linh chi đỏ
b. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu sự sinh trưởng nấm linh chi trên môi trương dinh dưỡng mạt
cưa cao su.
4. PHƯƠNG PHÁP
- Phương pháp chăm sóc nấm
- Phương pháp xử lý số liệu, tổng hợp tài liệu
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I . QUY TRÌNH NUÔI TRỒNG NẤM LINH CHI
TRÊN MẠT CƯA CAO SU
1. Đặc điểm của nghề nuôi trồng nấm
• Thuận lợi
- Nguồn nhiên liệu rẻ tiền, dễ kiếm và dồi dào: Phế phẩm nông nghiệp như cỏ dại,
rơm rạ, mùn cưa, thân cây gỗ, bả mía, lõi bắp, phân chuồng v.v
- Vốn đầu tư không cao, tùy vào mô hình sản xuất
- Vòng quay vốn nhanh, do chu kỳ sản xuất ngắn. Chẳng hạn như Nấm rơm thu
hoạch sau 15 ngày nuôi trồng, Nấm linh chi, nấm sò, nấm mèo sau 2 tháng đã có
sản phẩm bán ra thị trường.
- Giá trị kinh tế cao, nhiều loại nấm có giá trị xuất khẩu như nấm rơm, nấm mèo,
đặc biệt là nấm linh chi
• Khó khăn

- Nhiều khó khăn của nông nghiệp nói chung như thời tiết, các yếu tố môi trường,
sau bệnh cho sản lượng nấm không ổn định…
- Tuy đã cồng nghiệp hóa một phần, chủ động hơn trong việc khống chế các yếu tố
môi trường nhưng nhiều tình huống vẫn khó tránh khỏi.
- Nấm tươi cần phải tiêu thụ nhanh, chính vì vậy đỏi hỏi người nuôi trồng phải trang
bị kiến thức về các phương pháp bảo quản và chế biến nấm
- Chưa chú ý đầu tư cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nghề nuôi trồng nấm, nước ta vẫn
quan niệm đây là nghề phụ, tranh thủ, tận dụng các nguồn gốc phụ phẩm của nông
nghiệp và lao động nhàn rỗi
1.
2. Lịch sử nghiên cứu nấm linh chi
• Đặc điểm hình thái nấm linh chi: Linh chi thuộc nhóm nấm lớn và rất đa dạng
về chủng loại là một trong những loại nấm phá gỗ
Linh Chi thuộc nhóm nấm lớn , đa dạng về chủng loại. gồm 2 phần cuống nấm và
mũ nấm, có hình quạt, hình bầu dục hoặc thận.Trên mặt mũ có vân gạch đồng tâm
màu sắc từ vàng chanh- vàng nghệ- vàng nâu – vàng cam – đỏ nâu – nâu tím,
nhẵn, được phủ bởi lớp sắc tố bóng như láng vecni. Mũ nấm có đường kính 2-15cm,
dày 0,8-1,2cm, phần đính cuống thường gồ lên hoặc hơi lõm. Mặt dưới phẳng, màu
trắng hoặc vàng, có nhiều lỗ li ti, là nơi hình thành và phóng thích bào tử nấm. Bào
tử nấm dạng trứng cụt với hai lớp vỏ, giữa hai lớp vỏ có nhiều gai nhọn nối từ trong
ra ngoài.

Linh chi là Là các
loài nấm gỗ
mọc hoang
ở những
vùng núi cao và lạnh ở các tỉnh Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quảng Ðông (Trung Quốc).
Nấm có cuống, cuống nấm có màu (mỗi loài có một màu riêng như nâu, đỏ vàng, đỏ
cam). Thụ tầng màu trắng ngà hoặc màu vàng. Mũ nấm có nhiều hình dạng, phổ biến
là hình thận, hình tròn. Mặt trên bóng. Nấm hơi cứng và dai.

Với vai trò của một loại dược thảo, nấm Linh Chi có lẽ được con người biết đến
như một trong những dược liệu lâu đời nhất. Khi khảo sát các biên niên sử, các tài
liệu tham khảo về nấm Linh chi trong các văn bản cổ điển của Trung Hoa, thời kỳ
trước khi Chúa Kitô sinh ra, người ta biết được việc phát hiện ra nấm Linh Chi là kết
quả của những nỗ lực mà các hoàng đế Trung Hoa đã thực hiện để được trường xuân
từ các loại thảo dược.
Nấm Linh Chi được đề cập đến như một trong những bí quyết ẩn sau sức khỏe và
tuổi thọ của Bành Tổ, một nhân vật huyền thoại đã sống gần 900 năm vào triều đại
nhà Thương (thế kỷ 11 trước Công nguyên - thế kỷ 16) và cưới khoảng 100 phụ nữ.
Ngoài ra, chúng ta còn được biết suốt thời kỳ trị vì của Hoàng đế Hán Vũ Đế (156-87
trước Công nguyên), một trong những vị hoàng đế vĩ đại nhất của Trung Hoa, nấm
Linh Chi được phát hiện đã mọc trong hoàng cung, một biểu tượng của Trung Hoa
thịnh vượng ở thời kỳ đó.
Nấm Linh Chi Rừng
Trong thực tế, nó không chỉ tồn tại ở Trung Quốc như một vị thuốc mà còn là biểu
tượng của sự thịnh vượng, bất tử và sinh lực, được khắc trên nhiều nơi khác nhau của
hoàng cung. Nó cũng có mối liên hệ với các hoàng đế của triều đại nhà Tần, ở triều
đại mà từ "Trung Quốc" bắt đầu được đưa vào sử dụng. Hoàng đế Tần Thủy Hoàng
của triều đại nhà Tần (221 trước Công Nguyên) được cho rằng đã cử hàng trăm người
đàn ông và phụ nữ để đi tìm loại nấm này. Ngoài ra, nấm Linh Chi còn có mối liên hệ
với các tu sĩ Đạo giáo ở thế kỷ thứ nhất. Họ được cho là đã sử dụng nó để làm yêu
thuật.

Ngoài những tài liệu tham khảo liên quan đến hoàng cung, các tài liệu y học cổ
điển của Trung Quốc cũng nói về các khía cạnh khác nhau của nấm Linh Chi như một
vị thuốc.
Trong cuốn sách lâu đời nhất của Trung Quốc về các loại thảo dược được viết vào
khoảng năm 200 Sau Công Nguyên, nấm Linh Chi được biết đến như một loại thượng
thảo dược tốt hơn nhân sâm. Suốt thời nhà Minh (1368-1644) Lý Thời Trân, một
trong những danh y đại tài nhất vào thời điểm đó, đã nói về những ảnh hưởng tích cực

của Nấm Linh Chi trong cuốn Bản Thảo Cương Mục hay Sách Dược Vật Học (1578)
của ông.

Cuốn sách này được xem là một trong những cuốn sách toàn diện nhất về Y học cổ
truyền Trung Quốc. Trong những năm 1970 nấm Linh Chi được đưa đến châu Âu như
một loại thảo dược kỳ diệu và có nhiều nghiên cứu lâm sàng bắt đầu nghiên cứu về
loại nấm này. Vào năm 1972, ở Nhật Bản, nó bắt đầu được trồng trong nhà. Kể từ đó,
nấm Linh Chi trở thành đề tài của vô số nghiên cứu ở phương Đông và phương Tây.
Ngoại sử chép rằng trong một bữa tiệc tân niên đãi những sứ thần nước ngoài, Từ
Hi Thái Hậu nhà Thanh đã tổ chức một bữa tiệc gồm tổng cộng 365 món, thời gian là
bảy ngày đêm, mỗi ngày có một món ngon hấp dẫn và đặc biệt. Bảy món cho bảy
ngày là, tượng tinh, nấm linh chi, sơn dương trùng, óc khỉ, chuột bạch bao tử, trứng
công, và nhũ trư (heo sữa).
Bữa tiệc kéo dài từ sáng ngày đầu tiên đến ngày thứ bảy tháng giêng. Những món
ăn chiêu đãi thực khách tất nhiên là rất cầu kỳ không phải chỉ vì bào chế khá công phu
mà còn cả tìm kiếm, săn bắt hoạc nuôi dưỡng rất kỹ lưỡng. Thế nhưng nấm linh chi là
món gì mà nó lại được đưa lên hàng đầu trong những món của thực đơn? Có phải đó
là những cái nấm màu đen, bóng bẩy mà chúng ta vẫn thấy người ta để rất nhiều trong
các tiệm thuốc bắc ở Nam Cali? Chẳng nhẽ nấm linh chi lại dễ dàng đến thế.Không
phải thế, loại nấm này tên gọi Linh Chi, là loại thảo dược đứng đầu tiên trong Thần
Nông Bản Thảo Kinh. Bản Thảo Kinh tên đầu tiên là Thần Nông Bản Thảo Kinh,
được hình thành vào khoảng cuối đời nhà Ðông Hán, là của những người sau thác
danh họ Thần Nông sáng tác.Nấm linh chi là thảo dược loại đứng đầu của thượng
phẩm, hơn cả nhân sâm, là một dược thảo được xem là thần kỳ, có rất nhiều hiệu năng
tốt, dùng thời gian lâu không hại, nó có thể giúp người ta diên niên trường thọ. Trước
đây chỉ có vua chúa và vương hầu mới biết tới chứ dân thường thì chỉ nghe mà rất ít
khi được gặp.Cây nấm đó còn mang rất nhiều huyền thoại lạ lùng hơn cả nhân sâm.
Người ta bảo rằng nấm linh chi chỉ mọc tại những khu rừng rậm, vào thời những điểm
nhất định, những người không có duyên sẽ không tìm được. Những khối ngọc đúc
theo hình chiếc nấm này gọi là ngọc như ý, có ý tượng trưng cho sự sống lâu, ta

thường thấy nơi tay các tiên ông trong tranh cổ.
Linh Chi đã được biết từ rất lâu. Vua Tần Thủy Hoàng muốn tìm kiếm những cây
nấm này nên sai đạo sĩ Từ Phúc đem 1500 đồng nam và 1500 đồng nữ đến tới Ðông
Hải tìm thuốc trường sinh. Những người này ra đi mà không thấy trở về, không biết
có phải vì mất tích ngoài biển cả hay vì họ đã không kiếm ra nên sợ hãi không dám về
phục mệnh. Có những truyền thuyết cho rằng những người này đã định cư trên quần
đảo Phù Tang và là tổ tiên của người Nhật hiện nay.Trong lịch sử đã có rất nhiều
người tìm cách gây giống và trồng loại nấm này nhưng đều không được. Mà mãi tới
năm 1971, hai nhà bác học người Nhật tên là Zenzaburo Kasai và Yukio Naoi, giáo sư
thuộc phân khoa nông nghiệp, của đại học Kyoto mới thành công trong việc gây
giống nên người ta mới trồng được loại nấm này một cách qui mô. Từ đó, nấm linh
chi được trồng và sử dụng trong việc bào chế chứ không chỉ là huyền thoại.
Ngày nay, thế giới hàng năm sản xuất được khoảng 4.300 tấn, riêng Trung Hoa
trồng khoảng 3000 tấn còn lại là các nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản, Ðài Loan,
Hoa Kỳ, Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Sri Lanka và Indonesia. Nhật Bản tuy đã tìm
ra cách trồng nhưng nay chỉ sản xuất khoảng 500 tấn mỗi năm, đứng sau Trung Hoa.
Cách trồng nấm linh chi ngày càng phát triển, và tại nước ta, nhiều nhà nông nghiệp
học cũng đã nghiên cứu và lập ra một số trại trồng và bào chế nâm linh chi ở Saigon
từ năm 1987.
Linh Chi, viết theo kiểu phiên âm của Trung Hoa Lingchih hay Lingzhi, tên tiếng
Nhật là reishi, tên khoa học là ganoderma lucidum. Một loại nấm thuộc họ đa khổng
(polyporaceae) thường mọc trên những thân cây mục. Ngày xưa người ta chỉ có thể
tìm thấy nấm trong rừng hoạc trên những núi cao chứ không cách gì có thể gây giống
được. Có sách lại nói Linh Chi chỉ được tìm thấy ở phía tây núi Thái Hàng. Chính vì
thế mà cây nấm này càng mang nhiều truyện thần kỳ. Trong truyện Bạch Xà tinh,
Linh Chi có tác dụng cải tử hoàn sinh và làm cho người chết có thể sống lại được. Vì
thế người ta còn gọi là Linh Chi thảo nên nhiều tác giả đã cho rằng đây là một loại
cây cỏ.
Thực chất, Linh Chi là một loại nấm.Trong tự nhiên, linh chi chỉ mọc ở rừng rậm, ít
ánh sang và có độ ẩm. Những than cây mục thường mọc nấm linh chi là cây mận, câu

dẻ (pasania), và guercus serrata. Tuy nhiên không phải than cây nào cũng mọc được
nấm linh chi, mà trong hàng vạn cây mới có được một vài cây có thể mọc. Chính vì
thế loại nấm này rất quý hiếm trong dạng thiên nhiên. Mặt khác, nấm tìm được
thường không được nguyên vẹn vì hay bị sâu bọ ăn. Vỏ bên ngoài của nấm linh chi rất
cứng, nên việc nấm nảy mầm càng thêm khó khăn và việc tìm được cây nấm trở thành
huyền thoại.
Khi người ta may mắn kiếm được, họ thường phải dấu cả những người thân và coi
như một gia bảo. Nếu họ kiếm được loại nấm này, cả vùng đó mở hội ăn mừng và lập
tức loại thảo dược quí này được đem tiến triều đình. Linh Chi càng huyền hơn bí khi
người ta còn đặt cho nó cái tên vạn niên Linh Chi, vì họ cho rằng ai ăn được nó sẽ
trường sinh và bất tử.
3. Đặc điểm về dược liệu của nấm linh chi
Thành phần hóa dược của nấm linh chi
• NƯỚC : 12- 13%
• CELLULOSE: 54 – 56 %
• LIGNINE: 13- 14%
• LIPID: 1,9 - 2,0%
• MONOSACCHARIDE: 4,5 – 5,0%
• POLYSACCHARIDE sức đề kháng: 1,0 - 1,2% ( chống hoạy động khối u,
tăng và hệ miễn dịch trong cơ thể )
• Thành phần khác: K, Zn, Ca, Mn, Na, khoáng thiết yếu, nhiều vitamin, amino
acid, enzyme và hợp chất alcaloid Các hoạt chất sinh học và dẫn xuất trong
nấm
Những thành phần hoạt động của Linh Chi
• Các nhà nghiên cứu xác nhận rằng các polysaccharicdes dễ tan trong nước có
rất nhiều trong nấm Linh Chi có tác dụng chống ung thư, rối loạn miễn dịch
và làm chống cao huyết áp. Thành phần quan trọng khác là triterpenes, còn
được gọi là ganoderic acids giúp giảm nhẹ các dị ứng bằng cách ức chế sự
phóng thích histamine của cơ thể, đẩy mạnh sự hấp thụ oxy và làm tăng sự
hoạt động của gan.

• Giá trị dược liệu của nấm linh chi Linh chi được phân ra nhiều loại với nhiều
chức năng khác nhau:
- Thanh chi (Long chi): Xanh, Vị chua, tính bình, không độc, chửa trị sáng mắt,
bổ sung khí, an thần tăng trí nhớ.
- Hồng chi (Xích chi, Đơn chi): Đỏ, Vị đắng, tính bình, không độc, tăng trí nhớ,
dưỡng tim, bổ trung, chữa trị tức ngực.
- Hoàng chi (Kim chi): Vàng, Vị ngọt, tính bình, không độc, an thần, ích tì khí.
- Bạch chi (Ngọc chi): Trắng, Vị cay, tính bình, không độc, ích phổi, thông
mũi, cường ý chí, an thần, chữa ho, nghịch hơi.
- Tử chi: Tím Vị ngọt, tính ôn không độc, trị đau nhức khớp xương, gân cốt
- Hắc chi (Huyền chi): Đen Vị mặn, tính bình, không độc, trị chí bí tiểu, ích
thần khí.
Những tác dụng sau đây được in trong tạp chí Cancer Research UK dưới tựa đề:
Medicinal mushrooms: their therapeutic properties and current medical usage with
special emphasis on cancer treatments.( Nấm dược liệu : đặc tính chữa bệnh của nó và
sử dụng y tế hiện nay với sự nhấn mạnh đặc biệt về phương pháp điều trị ung thư )
• Bảng dược tính của tinh chất trích từ nấm Linh Chi:
* Trị đau nhức.
* Chống dị ứng.
* Phòng ngừa viêm cuống phổi.
* Kháng viêm.
* Kháng khuẩn, chẳng hạn như vi khuẩn staphylococca, streptococci, bacillus
pneumoniae. (Có thể do tính tăng cường hoạt động của hệ thống miễn dịch.)
* Kháng độc tố, nhờ vào tính đào thải đuợc gốc tự do.
* Chống ung thư.
* Kháng siêu vi.
* Làm giảm huyết áp.
* Trợ tim, làm hạ cholesterol, làm giảm xơ cứng thành động mạch.
* Giúp thư giãn thần kinh, làm giảm ảnh hưởng của caffeine và làm thư giãn
bắp thịt.

* Long đàm (nghiên cứu ở chuột).
* Chống HIV.
* Làm tăng cường hoạt động của nang thượng thận.
• Dược tính này có được nhờ hoạt tính của:
* Beta và hetero-beta-glucans (chống ung thư, kích thích hoạt động của hệ
thống miễn dịch).
* Ling Zhi-8 protein (chống dị ứng, điều chỉnh hệ thống miễn dịch).
* Garnodermic acids – triterpenes (kháng dị ứng, làm hạ cholesterol và làm hạ
huyết áp)
4. Nấm Linh chi đỏ
a. Giới thiệu chung về nấm Linh chi đỏ
Hình 1: hình dạng nấm Linh chi đỏ
* Hình dạng và màu sắc:
- Nấm Linh Chi (quả thể) cây nấm gồm 2 phần cuống nấm và mũ nấm (phần phiến
đối điện với mũ nấm).
- Cuống nấm dài hoặc ngắn, đính bên có hình trụ đường kính 0,5-3cm.
- Cuống nấm ít phân nhánh, đôi khi có uốn khúc cong queo. Lớp vỏ cuống màu đỏ,
nâu đỏ, nâu đen, bóng, không có lông, phủ suốt lên mặt tán nấm.
- Mũ nấm khi non có hình trứng, lớn dần có hình quạt. Trên mặt mũ có vân gạch đồng
tâm màu sắc từ vàng chanh- vàng nghệ- vàng nâu - vàng cam - đỏ nâu - nâu tím nhẵn
bóng như láng vecni. Mũ nấm có đường kính 2-15cm, dày 0,8-1,2cm, phần đính
cuống thường gồ lên hoặc hơi lõm.
Khi nấm đến tuổi trưởng thành thì phát tán bào tử từ phiến có màu nâu sẫm.
* Nhiệt độ thích hợp:
- Giai đoạn nuôi sợi: 20
o
C-30
o
C.
- Giai đoạn quả thể: 22

o
C-28
o
C.
* Độ ẩm:
- Độ ẩm cơ chất: 60%-62%
- Độ ẩm không khí: 80-95%.
* Độ thông thoáng: Trong suốt quá trình nuôi sợi và phát triển quả thể, nấm Linh Chi
đều cần có độ thông thoáng tốt.
* Ánh sáng:
- Giai đoạn nuôi sợi: không cần ánh sáng
- Giai đoạn phát triển quả thể: cần ánh sáng tán xạ (ánh sáng đọc được). Cường độ
ánh sáng cân đối từ mọi phía.
* Độ pH: Linh Chi thích nghi trong môi trường trung tính đến axit yếu (pH 5,5-7).
b. Đặc điểm sinh học của nấu linh chi đỏ
Chu trình sống (phát triển) của nấm Linh chi đỏ:

Trong điều kiện tự nhiên, khi bào tử nấm Linh chi chín, bào tử phát tán ra ngoài theo
gió, gặp điều kiện thuận lợi, bào tử bám vào giá thể và nảy mầm hình thành hệ sợi sơ
cấp, sau đó là hệ sợi thứ cấp, hệ sợi thứ cấp tích lũy đủ chất dinh dưỡng và sẽ hình
thành quả thể hoàn chỉnh mang đảm bào tử mới. Nếu gặp điều kiện sống khó khăn các
bào tử hình thành lớp vỏ dày bao bọc lại, gọi là hậu bào tử.

CHƯƠNG II . TỐC ĐỘ SINH TRƯỞNG NẤM LINH CHI TRÊN
GIÁ THỂ MẠT CƯA CAO SU

×