Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đề án Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường Việt Nam thời gian vừa qua 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.41 KB, 30 trang )

Đề bài :
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất trên
thị trường Việt Nam thời gian vừa qua 2008
Nhóm sinh viên thức hiện : Lê Thị Linh Thảo
Trần Nguyễn Thanh Huyền
Lê Thị Huyền Chi
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lê Tam Sơn
Vũ Minh Tú
Võ Thị Trang
Trịnh Thị Trà
Phạm Ngọc Suyến
Vũ Thị Hằng
Phạm Nhị Hương
Lời mở đầu
Ta thấy rằng ở tầm kinh tế vi mô , lãi suất là cơ sở cho các cá
nhân cũng như các doanh nghiệp đưa ra quyết định kinh tế của
mình như là : chi tiêu hay gửi tiết kiệm ,đầu tư số vốn tích lũy được
vào doanh mục đầu tư này hay danh mục đầu tư khác.
Mặt khác , chung ta thấy rằng ở tầm kinh tế vĩ mô ,lãi suất lại là công
cụ điều tiết cho vay kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả : thong qua việc
thay đổi mức và cơ cấu theo từng thời kỳ nhất định , chính phủ có
thể tác động đến quy mômaf tỉ trọng các loại vốn đầu tư , do vậy có
thể tác động đến quá trình diều chỉnh cơ cấu ; tốc độ tăng trưởng ,
sản lượng , tỉ lệ thất nghiệp và tình trang lạm phát trong nước . Hơn
thế nữa khi nước ta gia nhập WTO chính sách lãi xuất còn dược sử
dụng như một công cụ góp phần diều tiết đối với luồng vốn đi ra hay
đi vào với 1 quốc gia , tác động đến tỉ giá và diều tiết sự ổn định của
tỉ giá . Điều này không những tác động đến đầu tư phát triển kinh tế
mà còn tác động trẹc tiếp đến các cân thanh toán và các quan hệ
thương mại quốc tế của nước đó đối với nước ngoài .


Chính vì những điều như vậy mà ở các nước kinh tế thị trường
phát triển nói chung và nước ta nói riêng quan tâm đến các nhân tố
ảnh hưởng đến lãi suất :
1 . Ảnh hưởng của mức cung cầu vốn tín dụng
2 . Ảnh hưởng của mức lạm phát kỳ vọng
3 . Ảnh hưởng của bội chi ngân sách và những biện pháp xử lí
bội chi
4 . Ảnh hưởng của mức độ rủi ro của các món vay
5 . Thời hạn của khoản tín dụng
6 . Tâm lý công chúng
7 . Tỉ suất lợi nhuận bình quân
8 . Ảnh hưởng của ngân sách và sự can thiệp của chính phủ .
I . Ảnh hưởng của mức cung cầu vốn tín dụng đến lãi
suất ở thị trường Việt Nam trong thời gian qua.
Về phía cung có tác động ngược chiều tới lãi suất: Khi cung vốn
tăng thì lãi suất giảm và ngược lại khi cung vốn giảm thì lãi suất tăng
Về phía cầu có tác động cùng chiều tới lãi suất: Khi cầu vốn tăng thì
lãi suất tăng và khi cầu vốn giảm thì lãi suất giảm.
Lãi suất là giá cả của cho vay vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung
và cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ
làm thay đổi múc lãi suất trên thị trường.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây nền kinh tế thế giới có những
biến động lớn ảnh hưởng tới thị trường tiền tệ Việt Nam. Do vậy
buộc NHNN Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp điều hành lãi suất và tỷ giá
linh hoạt để bình ổn thị trường tiền tệ nói riêng và góp phần kiềm chế
làm phát nói chung nên trong thời gian gần đây lãi suất phần lớn chịu
tác động của các chính sách của chính phủ và NHNN
Mức cung cầu vốn tín dụng trên thị trường:
Thời gian vừa qua do lạm phát tăng cao ảnh hương lớn đến hoạt

động tín dụng của ngân hàng.
Thị trường tiền tệ nóng lên chưa từng thấy trong lịch sử kinh tế
Việt Nam, vốn VND khan hiếm. Trên thị trường liên ngân hàng hầu
như chỉ có người vay mà không có người cho vay. Trên thị trường
tiền tệ các NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn
nội tệ. Chỉ trong có 1 tuần một số NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3
lần.
Song phản ứng hết sức đáng quan tâm là tác động đến tăng
trưởng kinh tế. Bởi vì hiện nay hàng loạt NHTM hạn chế cho khách
hàng vay vốn. Thậm chí do lo vấn đề thanh khoản, thực tế hiện nay
một số ngân hàng đã hạn chế cho vay, tập trung thu nợ.
Một số NHTM chỉ cho khách hàng truyền thống, cho dự án tốt vay
vốn, còn không cho vay đối với khách hàng mới. Phần đông NHTM
đã tăng lãi suất cho vay thêm 0,15- 0,20%/tháng so với trước. Nhiều
NHTM cho vay ngắn hạn VND với lãi suất 1,35-1,45%/tháng, lãi suất
cho vay trung dài hạn lên tới 1,5 -1,65%/tháng, nhưng không phải
khách hàng nào cũng vay được. Thậm chí có trường hợp chào lãi
suất cho vay lên tới 2,0%/tháng.
Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động
vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn,
hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng
khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường
vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với
mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi
tại hầu hết các ngân hàng (17% - 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc
tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục
cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy
động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng
vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM. Lạm
phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt

tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông.
Đối với nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh
doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít
khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có
hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động
tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi
trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức
mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc
huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với
mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với
các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay
trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ.
Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng,
nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi Do lạm
phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng
hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều
kiện lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân
hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông
ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó
trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền
lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc
kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn
trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ
thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực
hiện mua chịu, bán chịu,công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt
động.
II . Ảnh hưởng của yếu tố lạm phát kỳ vọng đến lãi suất
Lãi suất danh nghĩa (với hàm ý chưa điều chỉnh ảnh hưởng của
lạm phát) là lãi suất đã bao gồm cả những tổn thất do lạm phát gây
ra do sự gia tăng của mức giá chung. Quan hệ giữa lãi suất danh

nghĩa và lãi suất thực tế được biểu thị bằng công thức sau:.
Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát dự kiến
Trên thực tế, tỷ lệ lạm phát sau đó có thể khác với tỷ lệ lạm phát
dự kiến nên không thể biết trước một cách chắc chắn được lãi suất
thực tế còn lãi suất danh nghĩa thì có thể biết trước được một cách
chắc chắn khi công bố.
Rõ ràng là đối với người dân khi đi gửi tiết kiệm, lãi suất tiền gửi, hay
lãi suất huy động của ngân hàng, là điều họ quan tâm. Bởi vậy với họ
lãi suât thực sẽ là lãi suất huy động trừ đi kỳ vọng lạm phát. Nếu có
dự đoán rằng lạm phát trong tương lai sẽ tăng, người cho vay có tâm
lý không muốn tiết kiệm. Có thể nói, việc đưa nhân tố kỳ vọng vào
phân tích hành vi của con người là một bước “đại nhảy vọt” trong
khoa học kinh tế. Nó làm thay đổi căn bản lý thuyết lẫn các quyết
định chính sách từ những năm 1970 trở lại đây.
Dân chúng có thể đoán lạm phát trong năm tới bằng với lạm phát của
năm vừa rồi hoặc là trung bình của vài năm gần với hiện tại. Nếu dự
đoán như vậy thì gọi là kỳ vọng thích nghi (adaptive expectation).
Nhưng họ cũng có thể không chỉ dựa vào quá khứ để đoán tương lai
mà còn sử dụng những thông tin hiện tại để giúp mình dự đoán.Với
cách này, các nhà kinh tế học gọi là kỳ vọng hợp lý (rational
expectation). Trong cuộc sống, doanh nghiệp và người làm thuê sẽ
mặc cả tiền lương của giai đoạn làm việc trong tương lai bằng cách
hình dung giá cả của giai đoạn đó sẽ như thế nào.
Lạm phát trong quá khứ lẫn những động thái của Chính phủ
trong hiện tại là cơ sở để tạo ra kỳ vọng lạm phát trong giai đoạn kế
tiếp.
Các nguyên nhân chính của lạm phát được kể đến: i) giá lương
thực, thực phẩm, giá nguyên liệu nhập khẩu đặc biệt là giá xăng dầu
thế giới tăng cao; ii) tăng cung mua ngoại tệ dẫn đến tình trạng thừa
tiền trong lưu thông; iii) dịch cúm gia cầm và thời tiết khắc nghiệt làm

giảm sản lượng nông nghiệp gây thiếu hụt cung hàng hoá, do vậy
làm tăng giá hàng hoá đặc biệt là lương thực, thực phẩm. Hơn nữa
tỷ lệ nhập khẩu của Việt Nam là rất cao, đặc biệt là tỷ lệ nhập khẩu
nguyên liệu. Do vậy lạm phát của Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi giá
nguyên liệu nhập khẩu. Khi giá dầu hạ mà mức lạm phát vẫn không
giảm làm người dân có tâm lý không còn coi đó là cú sốc tạm thời,
mà có xu hướng cho rằng lạm phát sẽ còn tăng. Trước tâm lý này,
người dân không muốn cho vay, gây ra thiếu hụt cung tiền trên thị
trường. Khi cầu lớn hơn cung, lãi suất sẽ có xu hướng tăng lên để
thu hút tiền dự trữ trong dân chúng.
Trong thời điểm cuối tháng 2/2008, trên thị trường liên ngân hàng
có một vài giao dịch chấp nhận mức lãi suất lên tới 40%/năm Nhờ
tác động của các giải pháp chính sách từ phía NHNN mà từ giữa
tháng 5/2008 đến nay, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tương
đối ổn định, xoay quanh mức 18 - 19%/năm đối với kỳ hạn 7 - 14
ngày. Lãi suất huy động vốn bằng VND của các NHTM cũng có sự
gia tăng mạnh. Đối với kỳ hạn 3 tháng, lãi suất huy động phổ biến
trên thị trường tăng từ mức 7,5 - 8%/năm cuối năm 2007 lên đến
mức 17,5%/năm trong tháng 6/2008 (chỉ có một vài ngân hàng nhỏ
nâng mức lãi suất lên 19%/năm). Ngân hàng (NH) Nhà nước công
bố quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản bằng VND của tháng 10 là
14%/năm, nâng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam
từ 3,6% lên 5%/năm. ngày 16/5/2008, NHNN công bố bỏ quy định
khống chế mức trần lãi suất huy động 12%/năm, thay vào đó là cơ
chế điều hành lãi suất mới, quy định lãi suất cho vay không vượt quá
150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố là 12%/năm tại thời điểm đó;
đến ngày 11/6/2008, mức lãi suất cơ bản được nâng lên là
14%/năm. Theo nhận xét chung của các NH, hiện nay thị trường tiền
tệ đang dần đi vào ổn định, do tác động tích cực của việc chỉ số giá
tiêu dùng tháng 9, đây là lúc các NH tính đến bài toán cắt giảm chi

phí đầu vào để bảo đảm doanh thu và lợi nhuận. Mặt khác, nếu vẫn
duy trì LSCV ở mức cao sẽ khó thu hút người vay, để thực hiện được
bài toán hạ LSCV, còn phụ thuộc vào diễn biến của tình hình lạm
phát trong những tháng còn lại. Nếu lãi suất cơ bản được điều chỉnh
giảm trong thời gian tới khi lạm phát hạ nhiệt, đó sẽ là cơ sở để các
NH tiếp tục giảm LSCV trong những tháng còn lại .
III . ẢNH HƯỞNG CỦA BỘI CHI NGÂN SÁCH ĐẾN LÃI SUẤT
Cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) là một trong các nội dung cơ
bản nhất của nền tài chính quốc gia và là điều kiện tiên quyết để đảm
bảo sự ổn định lành mạnh cho nền tài chính quốc gia. Cân đối ngân
sách nhà nước thường gặp 2 trường hợp : bội chi ngân sách hoặc
thâm hụt ngân sách .
Bội chi ngân sách xảy ra khi Chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu
ngân sách huy động được. Ngược lại, khi chi ngân sách nhỏ hơn số
thu ngân sách thì có bội thu ngân sách (hay thặng dư ngân sách).
Chi ngân sách là một trong những công cụ chính sách quan trọng
của Nhà nước nhằm tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khi
sản lượng của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì
Chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc
đẩy hoạt động kinh tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ diễn ra
phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra ngay cả
đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất
(nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách
thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu
như: Giao thông, điện, nước Nhiều nước phát triển và đang phát
triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội chi ngân
sách. Việc xử lý bội chi NSNN là một nội dung quan trọng của chinh
sách tài khoá của Nhà nước, có tác động đến nhiều nhân tố kinh tế
như: lãi suất , tỷ lệ lạm phát …
Số liệu dự toán ngân sách nhà nước năm 2008 cho biết:

- Tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 323.000 tỷ đồng (ba
trăm hai mươi ba nghìn tỷ đồng), bằng 24,1% tổng sản phẩm trong
nước (GDP); tính cả 9.080 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2007 sang
năm 2008 thì tổng số thu ngân sách nhà nước là 332.080 tỷ đồng (ba
trăm ba mươi hai nghìn không trăm tám mươi tỷ đồng);
- Tổng số chi cân đối ngân sách nhà nước là 398.980 tỷ đồng (ba
trăm chín mươi tám nghìn chín trăm tám mươi tỷ đồng);
- Mức bội chi ngân sách nhà nước là 66.900 tỷ đồng (sáu mươi
sáu nghìn chín trăm tỷ đồng), bằng 5% tổng sản phẩm trong nước
(GDP).
Trên thực tế: thống kê của Bộ Tài chính công bố ngày 22.7cho
biết bội chi ngân sách nửa đầu năm 2008 là 8.380 tỷ đồng .
Cụ thể, tổng thu cân đối ngân sách nhà nước (NSNN) đạt 49,5% dự
toán; tổng chi cân đối NSNN đạt 42,2% dự toán.
Đáng lưu ý là chi đầu tư phát triển mới chỉ đạt 39,1%, chi phát triển
sự nghiệp kinh tế - xã hội đạt 44,6%
Trong số bội chi NSNN 8.380 tỉ đồng, VN phải sử dụng vay bù đắp
trong nước 6.670 tỉ đồng và vay ngoài nước 1.710 tỉ đồng
Để giải quyết vấn đề bội chi ngân sách chính phủ thường thực hiện
các giải pháp là :Phát hành trái phiếu chính phủ.
Vay trực tiếp.
Phát hành tiền.
Có thể thấy ảnh hưởng của bội chi ngân sách năm 2008 đến lãi
suất như sau:
-Phát hành trái phiếu chính phủ : Năm 2008, để bù đắp cho các
khoản thiếu hụt Chính phủ Việt Nam đã vay nợ trong nước bằng
cách phát hành trái phiếu Chính phủ chủ yếu khoảng 60% và bù đắp
bội chi từ bên ngoài ở mức xấp xỉ 39%-40%. Theo dự toán của chính
phủ Năm 2008 sẽ phát hành trái phiếu Chính phủ không quá 37.000
tỷ đồng.

Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ
chức, cá nhân. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi
là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in
thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính
phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu
lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì
chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra còn
có rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Tuy không có con số công bố chính thức, nhưng theo ước tính,
tổng khối lượng trái phiếu Chính phủ đang lưu hành trên thị trường
hiện nay vào khoảng 15 tỉ Đô la Mỹ, trong đó ước tính nhà đầu tư
nước ngoài nắm giữ khoảng 3 tỉ.Theo nhận định của Diễn đàn Kinh
doanh trái phiếu (tập hợp các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài),
trong tháng 6/2008 giá trái phiếu trên thị trường đang có xu hướng
giảm nhanh chóng. Điều đó đồng nghĩa với lợi suất trái phiếu Chính
phủ tăng lên rất cao. Nếu như cách đây ba tháng, người mua trái
phiếu Chính phủ kỳ hạn hai năm được hưởng lợi suất 7,4%, thì hiện
nay người mua trái phiếu Chính phủ trên thị trường thứ cấp có thể
được hưởng lợi suất 20%, tức là giá trái phiếu đã rẻ đi tới 30% . Trái
phiếu Chính phủ “mất giá” như vậy là do chính phủ đã phát hành
thêm liên tục trái phiếu để bù đắp thâm hụt ngân sách. Phát hành
thêm trái phiếu chính phủ thì lượng cung trái phiếu chính phủ tăng
nên làm cho giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính
phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua.
Lãi suất trái phiếu tăng thì lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng .
Chính phủ sẽ khó có khả năng huy động vốn trong thời gian tới,và
còn ảnh hưởng đến khả năng phát hành trái phiếu của các doanh
nghiệp. Như vậy, nếu Chính phủ muốn huy động vốn trong thời điểm
hiện nay sẽ phải trả một mức lãi suất từ 20% trở lên thì mới mong
thu được tiền vào. Chính phủ phải huy động vốn cao hơn cả các

ngân hàng thương mại (lãi suất huy động của ngân hàng chỉ vào
khoảng 17-19%), trong khi rủi ro của trái phiếu Chính phủ rất thấp.
Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ
tài sản thì khi chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải
tăng lãi suất trái phiếu , người nắm giữ tài sản thấy mình trở nên giàu
có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác động tích
cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành công trái) và tăng
tiêu dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng lượng cầu
tiền. Vì vậy lãi suất phải tăng để làm giảm cầu .
Hơn nữa , tài sản có của các ngân hàng thương mại cũng gia
tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ vượt quá giảm, làm
tăng lãi suất ngân hàng.
Về vấn đề sử dụng ngân sách trong thời gian qua, thất thoát, lãng
phí, tham nhũng, tiêu cực trong đầu tư xây dựng cơ bản ở nước ta
đang là thách thức lớn không chỉ là cán bộ hư hỏng, công trình xây
dựng kém chất lượng, dự án hiệu quả thấp, mà quan trọng hơn là
ảnh hưởng sự phát triển của đất nước. Phần lớn những công trình
này chiếm một tỷ lệ lớn trong ngân sánh nhà nước. Gây ra bội chi
ngân sách trung ương và địa phương , trực tiếp làm cho cầu của quỹ
vốn vay tăng , dẫn tới tăng lãi suất . Chính phủ cũng đã kêu gọi các
DNNN cắt giảm chi tiêu công, cắt giảm các công trình kém hiệu quả.
Theo Bộ KH-ĐT cho biết cho đến nay theo báo cáo tổng hợp từ các
DNNN và các địa phương gửi về đã cắt giảm được trên 3000 dự án
với tổng giá trị trên 35.000 tỷ VND.
Bội chi ngân sách tính trên GDP tăng liên tục từ năm 1999 cho đến
nay , luôn ở mức trên 5%. Điều này tạo cho người dân một tâm lí về
gia tăng mức lạm phát . điều tất yếu là lãi suất phải tăng để kiềm chế
lạm phát. Bộ KH-ĐT dự đoán lạm phát năm 2008 sẽ được khống chế
ở mức 25%, tức gấp đôi năm 2007. Tuy nhiên, theo các chuyên gia
kinh tế thì lạm phát năm nay sẽ trên 30%.

Chính phủ Việt Nam trong năm 2008 đã không sử dụng biện pháp
in thêm tiền giải quyết thâm hụt ngân sách nên không gây lạm phát
từ phương thức này. Tuy nhiên trong những năm qua, lượng vay tiền
từ bên ngoài vào bù đắp thâm hụt NSNN chiếm khoảng 1/3 số thâm
hụt, tức là khoảng 1,5%-1,7% so với GDP. Nếu cộng thêm cả phần
vay về cho vay lại, lượng tiền từ bên ngoài vào nền kinh tế nước ta
qua bù đắp thâm hụt NSNN khoảng 2%-2,5% GDP. Đây chính là một
nguyên nhân gây ra lạm phát cao của nước ta trong năm 2007 và
các tháng đầu năm 2008.
Thực tế trong 8 năm qua, từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng bội
chi NSNN là khá cao, ở mức 17-18%/ năm. Tốc độ này nếu trừ đi
yếu tố tăng trưởng thì còn cao hơn tỷ lệ lạm phát hằng năm (năm
2001: 0,2%; năm 2002: 1,6%; năm 2003: 9,7%; năm 2004: 8,1%;
năm 2005: 9,0%; năm 2006: 11,1%; năm 2007: 7,8%).
.
Đồ thị : bội chi NSNN từ 1996 -2008 ( nguồn : bộ tài chính)
IV .

Ảnh hưởng của mức độ rủi ro của các món vay
Đi kèm theo mức lạm phát cao là việc các ngân hàng phải chạy
đua lãi suất để theo kịp tình hình lạm phát nhằm thu hút tiền gửi từ
dân cư. E ngại tình hình lãi suất liên tục tăng cao sẽ ảnh hưởng xấu
đến sản xuất của doanh nghiệp, NHNN đã tiến hành nhiều biện pháp
khác nhau để kiểm soát lãi suất, bao gồm cả việc áp đặt trần lãi suất
huy động (theo Công điện 02), sau đó đã chuyển sang cơ chế điều
hành theo lãi suất cơ bản.
Lạm phát 6 tháng đầu năm 2008 đã tăng đến 18,44%. Đây là tốc
độ tăng cao nhất trong những năm gần đây. Theo ông Nguyễn Đức
Thắng - Phó Vụ trưởng Vụ Thương mại - Dịch vụ - Giá cả thuộc Tổng
cục Thống kê thì lạm phát ở nước ta trong năm 2008 là sự tích hợp

của nhiều yếu tố lạm phát như: lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí
đẩy, lạm phát tiền tệ, lạm phát do yếu tố tâm lý. Đến nay, tốc độ tăng
giá tuy có chững lại nhưng hầu hết giá cả các mặt hàng phục vụ đời
sống đều đang ở mức cao, tính ổn định còn thấp và rất dễ tiếp tục
tăng cao.
Số liệu bước đầu cho biết, 6 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng
các ngân hàng thương mại đã chậm lại, khoảng 20% và thấp xa so
với năm 2007. Trong khi đó, huy động tiền gửi tính đến cuối tháng
5/2008 đã tăng 19,5% so với cuối năm 2007. Tuy nhiên, lãi suất tăng
cao là một khó khăn lớn cho DN. Thực tế, các NHTM và các nhà làm
chính sách biết rất rõ điều này nhưng đó là biện pháp cần thiết trong
ngắn hạn để kiềm chế lạm phát.
Lãi suất tăng cao khiến chi phí đầu vào của các DN tăng theo,
đẩy giá bán sản phẩm tăng lên, làm ảnh hưởng đến số đông người
có thu nhập thấp nhưng không hạn chế tiêu dùng của người có thu
nhập cao. Trong khi đó, DN Việt Nam vốn có quy mô nhỏ và yếu về
tài chính, hoạt động chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Vì vậy, lãi suất
tăng cao, điều kiện vay khó khăn khiến cho DN không tiếp cận được
vốn ngân hàng để sản xuất mà đây lại chính là nguồn cung hàng hóa
lớn cho xã hội. Lãi suất tăng cao làm giảm đầu tư tư nhân, tăng chi
phí vay mượn, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tình trạng
này kéo dài sẽ làm cho nền kinh tế xấu hơn, vĩ mô tiếp tục bất ổn,
đời sống người lao động bị ảnh hưởng. Hiện nay, lãi suất tăng cao và
cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng đã không còn nhiều tác động
trong việc tiếp tục tăng nguồn huy động vốn mà chủ yếu là cạnh
tranh để giữ khách hàng.
Một câu hỏi được đặt ra: vậy thì doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
nào chịu đựng được lãi suất vay vốn cao như vậy? Bởi vì khó có lĩnh
vực nào đạt được mức lợi nhuận tới 20% - 25%/năm để đủ
trảlãivốnvayngânhàng

Một là, chỉ có lĩnh vực đầu cơ chờ cơ hội tăng giá bán, lĩnh vực
thương mại và dịch vụ có điều kiện tăng giá bán lẻ và phí dịch vụ đối
với người tiêu dùng, thì mới có thể chịu đựng được lãi suất vay vốn
nói trên.
Hai là, dự án xây dựng nhà máy, bến cảng, khách sạn, cao ốc văn
phòng, đóng tàu, nhà ở, đường giao thông đang triển khai, buộc
phảivay.
Ba là các hợp đồng thu mua hàng xuất khẩu, chế biến hàng xuất
khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho
đối tác, đã ký kết hợp đồng giao hàng rồi, đã nhận tiền đặt cọc, nếu
khônggiaohàngđúnghạnthìbịphạt.
Bốn là để giữ chân công nhân và người lao động, doanh nghiệp
buộc phải vay vốn với lãi suất cao, có thể tạm thời chấp nhận lỗ lấy
khoản tích lũy của các kỳ kinh doanh trước đây bù vào, hoặc hy vọng
sau này có lãi bù vào, tạo việc làm cho người lao động.
Năm là, đầu tư mạo hiểm vào lĩnh vực kinh doanh rủi ro, như:
"lướt sóng" giá vàng và chứng khoán khi giá cổ phiếu đang xuống
quá thấp; mua nhà đất hay cổ phiếu của các chủ nợ phát mại của
con nợ.
Sáu là cơ cấu lại nợ. Đến kỳ hạn trả nợ vốn vay theo hợp đồng tín
dụng nhưng khách hàng không có nguồn thu, đành tìm cách đảo nợ
bằng hình thức vay vốn của ngân hàng này, hoặc vay hợp đồng mới
của chính ngân hàng đó với lãi suất cao để trả nợ đúng hạn nếu
không bị phạt lãi suất nợ quá hạn cao hơn lãi suất vay mới.
Bảy là khách hàng vay vốn cầm cố cổ phiếu, nhưng giá cổ phiếu
và chứng khoán thời gian qua cũng như hiện nay liên tục giảm quá
thấp, phải "giật gấu vá vai", nhờ bạn bè hay người thân vay hộ với lãi
suất cao để trả bớt một phần nợ vay.
Rõ ràng khả năng cạnh tranh xuất khẩu hàng hoá, cũng như cạnh
tranh trong thị trường nội địa của các doanh nghiệp Việt Nam ở vào

thế bất lợi hơn từ góc độ chi phí lãi suất vốn vay.
Lãi suất vốn vay tăng cao sẽ làm hạn chế nhu cầu tín dụng, giảm
tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay của ngân hàng thương mại, trên
cơ sở đó giảm khối lượng tiền trong lưu thông, góp phần kiềm chế
lạm phát. Đương nhiên là lãi suất cao làm hạn chế đầu tư cho sản
xuất kinh doanh, từ đó làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ bị chậm
lại, một bộ phận người lao động sẽ thiếu việc làm.
một tác động khác của tình trạng lãi suất vay vốn tăng cao là làm
tăng chi phí sản xuất kinh doanh, tăng chi phí vốn vay trong giá thành
sản phẩm, tăng giá bán hàng hoá và dịch vụ, tác động làm tăng giá
trên thị trường xã hội
Lãi suất tăng cao gây rủi ro cho doanh nghiệp, cho người vay vốn,
cũng chính là tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng thương mại vì khách
hàng khó có khả năng trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cho ngân
hàng.
Lãi suất cao còn làm giảm hiệu quả của nền kinh tế, gây nguy cơ
phá sản hay thua lỗ của không ít doanh nghiệp. Bởi vì hiện nay giá
cả vật tư, nguyên nhiên vật liệu đều tăng cao, đặc biệt là các doanh
nghiệp xây dựng, doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ xuất khẩu cần
chuyển sang nội tệ để thu mua nông lâm thuỷ hải sản, nguyên liệu
cho chế biến
Từ giữa năm 2008 trở lại đây: Việc ngân hàng giảm lãi suất đầu
vào mang lại cơ hội sẽ giảm lãi suất đầu ra, tạo điều kiện cho DN tiếp
cận vốn dễ hơn và chi phí rẻ hơn. Tuy nhiên, việc giảm lãi suất trước
hết là do lợi ích của các ngân hàng vì nếu tiếp tục kéo dài lãi suất
cao và một bảng lãi suất huy động bất hợp lý như hiện nay thì không
những ngân hàng thua lỗ mà về lâu dài còn ảnh hưởng đVì thế, trong
thời gian hơn một tháng gần đây, khi lạm phát có chiều hướng được
kìm chế, tình hình kinh tế tốt lên, nhiều chuyên gia đã đề xuất đến
việc giảm lãi suất cơ bản và các ngân hàng cũng rất kỳ vọng vào

điều này để cùng nhau giảm lãi suất huy động. Bởi vì, trong những
đợt giảm lãi suất trước đây, có người làm, người không, khiến không
ít ngân hàng nhanh chân giảm lãi suất đã bị quả đau khi nguồn huy
động bị giảm mạnh.
Thực tế, sau 3 tháng liền CPI giảm tốc độ tăng khá mạnh nhưng
mức giảm lãi suất của các ngân hàng không đáng kể và duy trì mặt
bằng khá cao. Trong khi đó, các thị trường đầu tư như: chứng khoán,
bất động sản, vàng và USD đều có diễn biến không thuận lợi cho đa
số nhà đầu tư. Nguồn vốn vì thế đã quay trở lại ngân hàng khá
mạnh, nhất là vốn trung và dài hạn đã tăng lên sau đợt điều chỉnh lãi
suất huy động lần trước.
Nguồn hút tiền vào được cải thiện nhưng tăng trưởng cho vay vẫn
tiếp tục chịu vòng phong tỏa của chính sách thắt chặt tiền tệ. Hơn
nữa do nhu cầu cắt giảm đầu tư, các DN kinh doanh khó khăn nên
mức tăng trưởng cho vay đang rơi vào thấp điểm. Con số báo cáo
cho thấy, tăng trưởng tín dụng hệ thống ngân hàng trong tháng 7 và
8/2008, tỷ lệ tương ứng chỉ là 0,7% và 0,79%.
Thực tế, DN vẫn rất khát vốn nhưng lãi suất cho vay quá cao, nên
không với tới được, những nguồn hút vốn mạnh trước đây như đầu
tư chứng khoán, bất động sản đã và đang bị thu hẹp nên vốn vào dù
không tăng mạnh so với năm ngoái nhưng do nhu cầu vay tăng thấp
nên ngân hàng vẫn bí đầu ra.
Trong hoàn cảnh, số vốn huy động với lãi suất cao đang ngày
một lớn lên, giải ngân khó khăn thì không còn cách nào khác ngoài
giảm lãi suất. Trước hết là để giảm chi phí đầu vào, giảm gánh nặng
chi phí trước mắt và thua lỗ về sau, đồng thời tính chuyện giảm lãi
suất đầu ra để tăng cường cho vay. Tuy nhiên, bao giờ giảm lãi suất
đầu ra thì lại chưa được ngân hàng nào đề cập. Hơn thế, giảm lãi
suất nhưng vốn cho vay dành cho tất cả các DN đang khát vốn hay
không lại phụ thuộc vào nhiều vấn đề khác. Trong đó hạn mức tăng

trưởng tín dụng là rào cản đầu tiên.
So với hai tháng trước, lãi huy động đã giảm từ 1% - 2% (hiện
còn khoảng 17%/năm) và cho vay đã giảm 2% - 3% (hiện còn 18% -
19%/năm). Mức lãi đó vẫn còn rất cao so với khả năng vay vốn của
khách hàng.
Theo ông Võ Văn Châu,tổng giám đốc ngân hàng thương mại cổ
phần Phương Đông, chỉ đến khi lãi suất cho vay xuống đến 13% -
14%/năm thì doanh nghiệp (DN) mới có thể chấp nhận được. Để có
điều kiện giảm lãi suất cho vay, giúp DN có vốn phục vụ sản xuất
kinh doanh, tạo điều kiện cho ngân hàng tăng dư nợ tín dụng, trong
thời gian tới chắc chắn các ngân hàng sẽ phải giảm mạnh hơn nữa
lãi suất huy động vốn.
V . Ảnh hưởng của thời hạn khoản tín dụng đến lãi suất
Thời hạn của khoản tín dụng càng dài thì lãi suất càng cao.
Và ngược lại thời hạn tín dụng càng ngắn thì lãi suất càng giảm
Hiện nay ,các ngân hàng thương mại quy mô nhỏ của Việt Nam
đang đứng trước áp lực hoặc phải tăng vốn, hoặc phải sáp nhập và
bán lại.
Theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP về danh mục vốn pháp định
của các tổ chức tín dụng thì mức vốn pháp định áp dụng cho các
NHTM cổ phần phải đạt được là 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và
3.000 tỷ đồng vào năm 2010.Một số NHTM cổ phần đã dễ dàng vượt
mức vốn quy định cho năm 2010, tuy nhiên còn không ít NHTM cổ
phần mới đạt khoảng 50% mức vốn pháp định quy định vào năm
2008. Một số NHTM cổ phần quy mô nhỏ, NHTM cổ phần mới ra khỏi
tình hình khó khăn cách đây không lâu và NHTM cổ phần mới
chuyển từ mô hình NHTM cổ phần nông thôn lên NHTM cổ phần đô
thị cho đến giữa tháng 9/2008 số vốn công bố vẫn còn thấp hơn quy
định. Điều này làm cho các ngân hàng nay phải tích cực huy động
vốn để đủ mức vốn pháp định.

Bên cạnh đó các ngân hàng tái diễn cuộc đua lãi suất mới. Sau
khi Công điện số 02/CĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) yêu cầu các ngân hàng thương mại (NHTM) chỉ được huy
động vốn với mức lãi suất không vượt quá 12%/năm có hiệu lực,
nhiều ngân hàng đã kịp điều chỉnh biểu lãi suất xuống dưới mức quy
định.Tuy nhiên, nhìn vào biểu lãi suất huy động của các ngân hàng
hiện nay dễ nhận ra ngay sự chông chênh thể hiện ở các cấu trúc kỳ
hạn lãi suất. Theo biểu lãi suất công bố trên website của một số ngân
hàng như ACB, EAB, Eximbank , lãi suất kỳ hạn 1 tháng bằng với
lãi suất kỳ hạn 12 tháng và bằng 1%/tháng (lĩnh lãi cuối kỳ), theo lý
thuyết, nếu gửi 100 đồng kỳ hạn 12 tháng thì sau một năm sẽ nhận
được số lãi là 12 đồng, còn nếu gửi hai lần kỳ hạn 6 tháng thì tiền lãi
nhận được là (1+6x1%)2 - 1 = 12,36 đồng. Mức lời lớn nhất nếu ta
gửi 12 lần kỳ hạn 1 tháng là (1+1%)12 - 1 = 12,68 đồng, hay mức lãi
suất thực cho loại kỳ hạn này là 12,68%/năm, vượt quá quy định của
NHNN. Song điều cần lưu ý là khách hàng chỉ có thể lãi 12,68 đồng
như trên trong điều kiện họ luôn gửi kỳ hạn 1 tháng rồi sau đó tái gửi
cả gốc lẫn lãi nhận được kỳ hạn 1 tháng tương ứng trong suốt 12
tháng và biểu lãi suất này sẽ không đổi trong ít nhất 12 tháng tới.
Thông thường thì thời hạn của khoản tín dụng càng dài thí lãi suất
càng cao tuy nhiên có một nghịch lý xảy ra đó là các nhân hàng
khuyến khích gửi ngắn hạn, mức lãi suất huy động có kỳ hạn dài -
chẳng hạn 16, 18, 24, 36 tháng - lại còn thấp hơn các kỳ hạn ngắn.
Chẳng hạn, tại ACB và Eximbank, lãi suất kỳ hạn 24 tháng lĩnh lãi
cuối kỳ là 0,89%/tháng (hay 10,68%/năm), kỳ hạn 36 tháng là
0,9%/tháng (hay 10,8%/năm). Hầu hết các NHTM cổ phần khác cũng
có mặt bằng lãi suất tương đương. Điều này có nghĩa là hiện tại các
ngân hàng chỉ chú trọng vào vốn ngắn hạn để đối phó với tình thế
nóng trước mắt. Đối với các ngân hàng, điều dễ nhận thấy là cấu trúc
tài sản nợ sẽ rủi ro hơn do qua biểu lãi suất trên sẽ chỉ khuyến khích

người dân gửi tiết kiệm ngắn hạn vì vừa được lời hơn lại vừa thanh
khoản hơn. Đây là một nghịch lý bởi do đặc tính rủi ro của dòng vốn
ngắn hạn rất lớn.
VI . Tâm lý công chúng ảnh hưởng đến lãI suất
Như chúng ta đã biết,tâm lý công chúng là 1 trong những yếu tố
quan trọng tác động đến lãI suất trong nước,hiện nay điều kiện tiếp
cận với những thông tin tài chính tiền tệ thế giới trở nên dễ dàng
hơn nhiều so với giai đoạn trước đây,những luồng thông tin chính
xác và không chính xác được truyền tải đến công chúng ngày ngày
khiến quyết định đầu tư của họ đôi khi sai lệch.Thông thường khi tâm
lý công chúng ổn định,lãI suất cũng sẽ ổn định,trái lại khi tâm lý công
chúng hoang mang,thiếu tin tưởng vào tình hình kinh tế tài chính sẽ
góp phần đẩy lãI suất lên cao.
Trong 6 tháng đầu năm 2008,theo nhận định của nhiều chuyên
gia,cũng như kết luận mới đây của Thủ tướng Chính phủ,tác động
trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đến kinh tế Việt Nam
là chưa có,nhưng có tác động gián tiếp ở mức độ không lớn không
nhiều tới các lĩnh vực hoạt động tài chính tiền tệ.thương mại,dịch vụ
và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.Do tâm lý công chúng lo sợ sự sụp
đổ của thị trường tài chính ở Mỹ sẽ là một phản ứng dây chuyền kéo
theo hàng loạt sự sụp đổ ở các thị trường khác trong đó có Việt Nam
dẫn đến các tỷ giá thay đổi đột ngột và thất thường.Anh hương của
sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán thế giới,thị trương chứng
khoán Việt Nam rơI vào tình trang ảm đạm,chỉ số Vn-index chỉ xê
dịch trong khoảng 500.Lạm phát 6 tháng đầu năm 2008 ở mức kỷ
lục,cơn sốt giá dầu,giá vàng khiến người dân lo lắng một chỉ số giá
tiêu dùng tăng cao,các nhà đầu tư cũng trở nên hoang mang dè dặt
trước những cơ hội đầu tư mới.Bên cạnh đó,với mục tiêu kiêm chế
lạm phát,đảm bảo một lãI suất thực dương mà các ngân hàng
thương mai đã tăng lãi suất trên cả hai thị trường huy đông vốn và

cho vay,điều này khiến cho các doanh nghiệp lo sợ một mức lãI khó
trả.Người dân lo lắng đồng tiền mất giá khiến họ đI tìm kiếm một thứ
tài sản chác chắn hơn và đảm bảo khả năng sinh lời hơn.thêm vào
đó lạm phát khiến việc gửi tiền ở ngân hàng là không có lãi.tăng lãI
suất cũng là một biện pháp cần thiết.Chính tâm lý người dân hoang
mang không ổn định đã khiến lãI suất đầu năm 2008 không ngừng
tăng lên.Tuy nhiên tháng 8 đã có một dấu hiệu đáng mừng là chỉ số
CPI đã giảm,với chính sách tiền tệ thắt chặt ngân hàng nhà nước đã
có 1 số lượng tiền tệ đáng kể để phục vụ cho hoạt động cho vay.Do
lạm phát đã phần nào được hạn chế,các ngân hàng hiện nay đã
giảm lãI suất,tuy vẫn còn khá cao so với các doanh nghiệp
VII . Ảnh hưởng của các chính sách nhà nước
*Các chính sách được đưa ra.
Hiện nay, tình hình kinh tế thế giới đang có nhiều biến động phức
tạp, khó lường. Giá dầu và hầu hết các nguyên vật liệu cơ bản và
lương thực, thực phẩm trên thị trường thế giới tăng cao; sự suy giảm
của kinh tế Mỹ đã tác động mạnh và kéo theo sự suy giảm của nhiều
nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế nước ta có sức cạnh tranh chưa
cao lại mới bước đầu vận hành theo cơ chế thị trường và đang hội
nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới thì những hệ quả nặng nề
của thiên tai, dịch bệnh và những biến động bất lợi của kinh tế toàn
cầu đã có tác động tiêu cực đến tăng trưởng và đến mặt bằng giá
trong nước.
Trước tình hình này, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ
trọng tâm hiện nay của đất nước ta là: kiềm chế lạm phát, giữ vững
ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền
vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Để
đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, một mặt phải tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện.
Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2008 của

Chính phủ về điều hành kinh tế - xã hội năm 2008, mặt khác cần tập
trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu
sau đây:
1 thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử
dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm
soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng
nhưng phải bảo đảm tính thanh khoản của nền kinh tế và hoạt động
của các ngân hàng, tổ chức tín dụng.
Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi
suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương.
Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân
hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy
động, cho vay và chất lượng tín dụng. Kịp thời phát hiện, xử lý các vi
phạm theo đúng quy định của pháp luật để giảm thiểu rủi ro trong
hoạt động ngân hàng.
- Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia sớm ổn định tổ chức, kịp thời
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính và các cơ
quan liên quan tăng cường các công cụ giám sát theo cơ chế thị
trường và thông lệ quốc tế để chủ động cảnh báo và xử lý tốt hơn
những biến động trên thị trường tài chính, tiền tệ.
2 .Kiểm soát chặt chẽ , nâng cao hiệu quả chi tiêu công
- Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu
thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách; kiểm
soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, nhất là đầu tư
vào các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính của
doanh nghiệp; phấn đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách.
- Thực hiện việc cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản
trong kế hoạch năm 2008 từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu
Chính phủ, tín dụng đầu tư nhà nước và đầu tư của các doanh

nghiệp nhà nước, trước hết là các công trình đầu tư kém hiệu quả,
các công trình chưa thực sự cần thiết. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì
cùng Bộ Tài chính triển khai nội dung này ngay trong việc rà soát lại
và cân đối nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước. Các Bộ trưởng,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Chủ tịch Hội đồng
quản trị, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước,
theo chức năng, nhiệm vụ được giao thực hiện việc rà soát chặt chẽ
các hạng mục đầu tư để cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả,
tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công
trình đầu tư cho sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế để
đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất.
- Các Bộ liên quan, nhất là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng,
Bộ Tài chính khẩn trương hoàn chỉnh các văn bản về đầu tư xây
dựng, kịp thời ban hành hướng dẫn xử lý các vướng mắc phát sinh
để đẩy nhanh tiến độ giải ngân các công trình sớm đưa vào khai thác
phát huy hiệu quả.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc nghiên cứu để chuyển một số
công trình đầu tư từ nguồn vốn ngân sách sang hình thức đầu tư
BOT từ nguồn vốn trong và ngoài nước hoặc bán, chuyển nhượng
công trình có khả năng thu hồi vốn cho doanh nghiệp, tư nhân khai
thác hoặc đầu tư tiếp để nâng cao hiệu quả đầu tư.
- Bộ Tài chính chủ trì rà soát, đề xuất các biện pháp chấn chỉnh
hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh
tế, các tổng công ty lớn. Sơ kết mô hình tập đoàn kinh tế theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối
hợp với Bộ Tài chính chuẩn bị để thực hiện trong quý IV năm 2008.
-Thực hiện chính sách tiết kiệm đồng bộ, chặt chẽ, nghiêm ngặt
trong tất cả các cấp, các ngành, trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Đưa nội dung thực hành tiết kiệm trong chi tiêu ngân sách, trong sản
xuất và đời sống vào chương trình cuộc vận động: "Học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong năm 2008 và những
năm tiếp theo. Năm 2008, ngoài việc tiết kiệm bình quân 10% chi phí
hành chính (trừ tiền lương, phụ cấp lương, các khoản chi cho con
người theo chế độ quy định) của các cơ quan sử dụng ngân sách
nhà nước, thực hiện cắt giảm những khoản chi mua sắm chưa thật
cần thiết, giảm tối đa các hội nghị toàn quốc, giảm chi phí đi lại (nhất
là đi lại bằng máy bay); cắt giảm các khoản chi tiếp khách, các đoàn
công tác nước ngoài bằng vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc ngân
sách mà không thật thiết thực; tiết kiệm năng lượng, phương tiện triệt
để hơn nữa. Giảm các chi phí cho hoạt động lễ hội, lễ kỷ niệm, đón
nhận huân chương, danh hiệu thi đua, gây tốn kém, lãng phí. Bộ
Tài chính chủ trì giao chỉ tiêu và hướng dẫn nội dung và tổ chức triển
khai để các đơn vị thực hiện.
- Phấn đấu năm 2008 thu ngân sách thực hiện vượt dự toán đã
được giao, tăng dự phòng để chi cho khắc phục thiên tai, an sinh xã
hội, giảm thêm tỷ lệ thâm hụt ngân sách so với mục tiêu mà Quốc hội
đã giao cho năm 2008.
3 . Tập trung sức phát triển sản xuât công nghiệp , nông nghiệp
và dịch vụ , đảm bảo cân đối cung cầu về hàng hóa
a . Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì:
Phối hợp với các địa phương khắc phục nhanh hậu quả của thiên
tai và dịch bệnh để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tập trung chỉ
đạo phát triển trồng rau màu, chăn nuôi, tăng nguồn cung thực phẩm
nhằm sớm ổn định giá cả lương thực, thực phẩm, chuẩn bị đủ giống
cho sản xuất vụ mùa, hè thu;
Phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp để
phát hiện sớm, chủ động thực hiện và hướng dẫn kịp thời các biện
pháp phòng, chống, ngăn chặn và dập tắt một cách tích cực, kiên
quyết, có hiệu quả dịch cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long
móng ở trâu, bò và cúm A (H5N1) ở người;

Chỉ đạo triển khai việc tu bổ các công trình hồ chứa, đê điều, công
trình thủy lợi nhằm chủ động đối phó với thiên tai trong mùa bão, lũ
sắp tới để đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống.
b . Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Tài
nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch UBND các tỉnh,
thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
về thủ tục hành chính để giải quyết nhanh việc tiếp cận, sử dụng vốn,
đất đai, mở rộng thị trường nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Đồng
thời, chủ động thực hiện các biện pháp phù hợp tháo gỡ khó khăn do
biến động giá làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp, trước hết là giá dự toán các công trình đang triển khai có
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để sớm hoàn thành, đưa vào hoạt
động.
c . Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì việc tiếp tục rà soát, xóa bỏ các
quy định không phù hợp gây cản trở cho các hoạt động đầu tư, kinh
doanh, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển.
d . Bộ Công Thương chủ trì làm việc với các Bộ liên quan, hiệp hội
ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh về việc bảo đảm nguồn
hàng; đồng thời, có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả các
mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt
thép, xi măng, phân bón, Chủ động đề ra và áp dụng phương án
khắc phục tình trạng thiếu điện và bảo đảm điện cho sản xuất.
4. Đẩy mạnh xuất khẩu , kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu , giảm
nhập siêu
a. Bộ Công Thương chủ trì:
Đề xuất các giải pháp cải cách thủ tục hành chính liên quan đến
hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi
với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác phù

hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể cả
việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
Hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; đẩy
mạnh hoạt động xúc tiến tại các thị trường truyền thống và mở rộng
thị trường mới để tăng xuất khẩu;
Tăng cường các giải pháp khuyến khích sản xuất trong nước để
thay thế hàng nhập khẩu, thúc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ và
du lịch;
Phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để đề xuất
cơ chế, chính sách bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm trên
thị trường nội địa, bảo đảm an ninh lương thực và kiềm chế sự tăng
giá quá mức của nhóm hàng này. Điều hành và kiểm soát để xuất
khẩu gạo năm 2008 ở mức 3,5 đến 4 triệu tấn.
b. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì điều hành chính sách tiền
tệ, tỷ giá phù hợp với chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu. Có cơ chế và
chỉ đạo các ngân hàng thương mại mua hết ngoại tệ cho các doanh
nghiệp xuất khẩu, xử lý kịp thời các ách tắc về tín dụng, đáp ứng nhu
cầu vay vốn hợp lý cho xuất khẩu.
c . Bộ Tài chính chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng công cụ thuế
để tăng thuế xuất khẩu ở mức hợp lý đối với than, dầu thô. Điều
chỉnh tăng thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức hợp lý đối
với một số mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu như: ô tô nguyên
chiếc, linh kiện lắp ráp xe ô tô dưới 12 chỗ ngồi, một số mặt hàng
điện tử, điện lạnh, xe và linh kiện lắp ráp xe hai bánh gắn máy, rượu,
bia để thực hiện mục tiêu giảm nhập siêu nhưng vẫn bảo đảm phù
hợp với cam kết hội nhập; kiến nghị điều chỉnh cơ chế, chính sách về
thuế, áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện pháp khác cần thiết,
phù hợp với các cam kết quốc tế để hạn chế các mặt hàng thuộc
diện không khuyến khích nhập khẩu.
d . Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng

Tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng vẫn còn diễn ra khá
phổ biến ở các cơ quan, đơn vị, trong dân cư, tiềm năng tiết kiệm
trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Trước hết, Chính phủ chỉ đạo
việc triệt để thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân
sách nhà nước. Các đơn vị phải chủ động sử dụng dự toán đã được
giao để thực hiện các nhiệm vụ, kể cả trong trường hợp giá cả tăng.
Không bổ sung chi ngân sách ngoài dự toán.
Các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá
thành và phí lưu thông. Tăng cường công tác giám sát tài chính đối
với các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế, các
tổng công ty 90, 91 để chấn chỉnh ngay việc đầu tư kém hiệu quả,
đầu tư ra ngoài ngành sản xuất chính và cơ cấu đầu tư bất hợp lý
trong thời gian qua của các đơn vị này.
Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng,
nhất là nhiên liệu, năng lượng.
5.Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ ,buôn lậu ,
gian lận thương mại , kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước
về giá cả
a. Bộ Công Thương chủ trì triển khai các giải pháp bảo đảm cân đối
cung cầu hàng hóa; đồng thời, tăng cường chỉ đạo thực hiện quản lý
thị trường, nhất thiết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến
động về nguồn hàng, giá cả trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất
là đối với các loại vật tư quan trọng như: xăng, dầu, điện, xi măng,
sắt, thép, phân bón, thuốc trừ sâu và hàng tiêu dùng thiết yếu như:
lương thực, thuốc chữa bệnh, Phối hợp với chính quyền địa
phương chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường các biện pháp
ngăn chặn tình trạng gian lận thương mại, trốn lậu thuế và buôn lậu
qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng, dầu, khoáng sản, lương
thực
b . Bộ Tài chính tăng cường kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà

nước về giá, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
c . Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải triệt để chấp
hành các quy định về quản lý giá, thường xuyên kiểm tra giá bán tại
các mạng lưới bán lẻ của doanh nghiệp mình.
d . Các tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc
thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt
động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp.
Chính phủ yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực,
ủng hộ các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
6.Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản
xuất của nhân dân , mở rộng tực hiện các biện pháp về an sinh
xã hội
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, các Bộ, địa phương và
cơ quan liên quan tăng cường các biện pháp hỗ trợ an sinh xã hội,
ổn định đời sống nhân dân thông qua việc đẩy mạnh công tác xóa
đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm, hỗ trợ bảo đảm đời sống
nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao
động có thu nhập thấp.
a . Bộ Tài chính chủ trì:
- Phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra việc triển khai thực
hiện các chính sách về điều chỉnh mức lương tối thiểu mà Chính phủ
đã ban hành có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2008; kiểm tra
việc xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào
bị thiên tai, thiếu đói;
- Tổ chức thực hiện đầy đủ và có hiệu quả chính sách hỗ trợ đồng
bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận
nghèo và ngư dân theo Quyết định số 289/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3
năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ như: hỗ trợ dầu hỏa ở nơi
không có điện hoặc thiếu điện; nâng học bổng cho học sinh dân tộc
các trường nội trú; hỗ trợ thêm cho học sinh mẫu giáo, học sinh bán

trú con hộ nghèo; nâng bảo hiểm y tế cho người nghèo và cho trẻ em
dưới 6 tuổi; hỗ trợ lãi suất để đầu tư thay máy tiết kiệm nhiên liệu,
bảo hiểm phương tiện và con người. Tiếp tục nghiên cứu trình Thủ
tướng Chính phủ chính sách bảo đảm an sinh xã hội;
- Chủ trì rà soát để cắt, giảm các loại phí thu từ nông dân;
- Chủ trì cùng Bộ Công Thương giám sát việc triển khai thực hiện từ
nay cho đến hết tháng 6 năm 2008, chưa tăng giá điện, than, xăng,
dầu; giữ ổn định giá xi măng, phân bón, nước sạch, thuốc chữa
bệnh, vé máy bay, tàu hỏa, vé xe buýt; giữ ổn định mức thu học phí,
viện phí. Đồng thời nắm chắc diễn biến của lạm phát, đề xuất với
Chính phủ các giải pháp thích hợp tiếp theo.
b . Các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam cùng Ủy ban nhân dân các cấp tăng cường các nguồn vốn
giá rẻ cho Ngân hàng Chính sách Xã hội để tiếp tục thực hiện các
chương trình tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo và các đối tượng
chính sách.
c . Các Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân các địa phương tiếp tục
đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải
pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Đồng
thời, theo dõi, nắm chắc diễn biến giá cả, đời sống nhân dân trên địa
bàn, xử lý kịp thời những vấn đề xã hội gây bức xúc; tăng cường
kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện đúng, đủ các chính sách xã
hội của Nhà nước cho các đối tượng thụ hưởng, bảo đảm nguồn hỗ
trợ của Nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham
nhũng.
7. Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền
a . Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức chỉ đạo công tác thông tin
tuyên truyền nhằm tạo sự đồng thuận cao trong tất cả các cấp, các
ngành, địa phương, doanh nghiệp và trong các tầng lớp nhân dân để
thực hiện các mục tiêu và giải pháp đã đề ra nhằm đưa nền kinh tế

vượt qua khó khăn, phát triển ổn định.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức rất gay gắt
nhưng thời cơ, thuận lợi và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế
nước ta còn rất lớn và rất cơ bản. Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính
phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao và mục tiêu, các giải
pháp trên, có kế hoạch tổ chức thực hiện ngay trong tháng 4 năm
2008.
b . Các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin chính xác, ủng hộ
các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm
này, tránh những thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý
bất an trong xã hội.
Các chính sách trọng tâm trong công tác điều hành của Chính
phủ.
Dựa vào những giải pháp trên, để thực hiện điều chỉnh mục tiêu
tăng trưởng kinh tế, từ nay đến cuối năm 2008, Chính phủ sẽ sắp
xếp lại thứ tự, đồng thời nhấn mạnh các giải pháp trọng tâm trong
công tác điều hành.
Về chính sách tài khoá, chi tiêu công, thực hiện tăng thu, thắt chặt
chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn NSNN, giảm bội chi
ngân sách. Trong đó, kế hoạch đầu tư phát triển sẽ phải sắp xếp, bố
trí lại theo hướng không tăng tổng vốn đầu tư dự án từ nguồn vốn
NSNN, đình hoãn khởi công các dự án không có trong quy hoạch,
chưa đủ thủ tục, ngừng triển khai các dự án chưa thật sự cấp bách,
không mang lại hiệu quả, giãn tiến độ các dự án bị kéo dài thời gian
thi công…Số vốn từ những dự án này được điều chuyển cho những
dự án có hiệu quả, cấp bách, hoàn thành trong năm 2008-2009.
Cùng trong hệ thống này, thị trường chứng khoán, bất động sản sẽ
được điều hành theo hướng phát triển ổn định, giãn tiến độ IPO để

không tạo ra sức ép tăng cung hàng hoá quá lớn, bảo đảm chỉ các cổ
phiếu có chất lượng mới được lưu hành trên thị trường.
Chính phủ cũng sẽ hết sức chú trọng bảo đảm cân đối cung cầu
đối với các loại vật tư, hàng tiêu dùng thiết yếu như xăng dầu, điện,
xi măng, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu, lương thực, thuốc chữa
bệnh…bằng nhiều biện pháp từ sản xuất đến nhập khẩu, thông qua
chính sách thuế.
Về điều hành giá cả: theo dõi sát diễn biến thị trường và biến
động giá, đẩy mạnh cung và quản lý chặt, ngăn chặn đầu cơ, tăng
giá. Trước mắt, chưa tăng giá điện, than, xăng dầu, giữ ổn định giá xi
măng, phân bón, nước sạch, thuốc chữa bệnh, vé máy bay, tàu
hoả…
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, các đơn vị cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ
động thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhóm giải pháp, đặc biệt là
các giải pháp ổn định tiền tệ, đẩy mạnh phát triển sản xuất, giảm
nhập siêu và bảo đảm an sinh xã hội.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước tập trung vào một số nhiệm vụ
gồm: kịp thời cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu đối với các tổ chức
tín dụng để tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng,
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, góp phần thực
hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 và tạo điều kiện
cho việc phát triển ổn định của nền kinh tế những năm tiếp theo.
Kết quả các giải pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ VN.
Trong 4 tháng đầu năm, Chính phủ đã chỉ đạo toàn diện, quyết
liệt, tập trung chỉ đạo vào các nhóm giải pháp về chính sách tài
chính- tiền tệ. Kết quả bước đầu là lạm phát đã có dấu hiệu chững lại
và đang giảm dần, chỉ số tăng giá tháng 4 đã giảm tới 0,79% so với
tháng 3 (chỉ còn 2.2%). Giá trị sản xuất công nghiệp tăng khá cao
(16,4%), xuất khẩu tăng cao nhất từ trước tới nay (5,6% so với tháng

3), đầu tư nước ngoài trong 4 tháng đầu năm đạt 7,6 tỷ USD tăng
42,6% so với cùng kỳ năm 2007. Tuy nhiên những thách thức, khó
khăn ở phía trước vẫn còn rất lớn.
Theo nhận xét của các chuyên gia, chính phủ Việt Nam đã đưa ra
những chính sách chung là đúng thế nhưng mục tiêu chưa rõ ràng,
và việc thực thi ở các cấp chưa đồng bộ cho nên hiệu quả tương đối
còn giới hạn.
Về chính sách tiền tệ thì phải có chính sách thu hút bớt lượng tiền
đang lưu hành trong dân chúng. Một trong những biện pháp đó là bỏ
lãi suất tối đa và cho lãi suất co giãn theo thị trường, chính phủ có
thể phát hành tín phiếu hay trái phiếu. Ngoài ra còn phải có biện
pháp kích cung như đẩy mạnh giải ngân các dự án đầu tư. Việt Nam
đã giảm tăng trưởng xuống còn 7% thì tốt, nhưng còn phải giảm chi
tiêu vào những dự án đầu tư mà hịện nay hơn tổng GDP chừng 80 tỷ
đôla.
Vấn đề Việt Nam bây giờ là tổng hợp nhiều vấn đề: nguồn vốn
vào quá nhanh mà sử dụng không khéo léo, chính sách ngắn hạn
chưa thích hợp và đồng bộ, rồi khủng hoảng trong thị truờng chứng
khoán và bất động sản. Đó là những vấn đề mà các nứơc Á châu
khác trong khủng hoảng không phải đối phó. Tuy nhiên chính Việt
Nam có những kinh nghiệm rất tốt hồi trước đổi mới, thì đó là những
kinh nghiệm có sẵn.
Khủng hoảng tài chính ở Việt Nam không trầm trọng như ở Á
châu hồi cuối thập niên 90 bởi lẽ thị trường Việt Nam mở cửa những
mức độ mở cửa chưa cao và đồng tiền của Việt Nam chưa phải là
hoàn toàn có thể hoán chuyển trên thế giới. Vì vậy Việt Nam có thể
không lâm vào tình trạng khủng hoảng với điều kiện là chính phủ Việt
Nam phải có chính sách thích hợp, đồng bộ, rõ ràng.
Tóm lại, nếu có chính sách tốt thì Việt Nam có thể vượt qua khó
khăn trong ngắn hạn này.

VIII . Ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là “con số trung bình” của tất cả các
tỷ suất lợi nhuận khác nhau hay là tỷ số phần trăm giữa tổng giá trị
thặng dư và tổng tư bản XH.
-Lãi suất có thể biến động trong phạm vy tỷ suất lợi nhuận bình
quân và trong một tình hình đặc biệt, có thể vượt quá tỷ suất lợi nhận
bình quân
- Khi tỷ suất lợi nhuận bình quân tăng thì lãi suất cũng tăng theo và
ngược lại
- Lợi nhuận của một sỗ ngân hàng thương mại cổ phần 6 tháng
đầu năm 2008 tăng:
+ NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), lợi nhuận
đạt trên 754 tỷ đồng, tăng 23% so với cùng kỳ này năm 2007.
+NHTM cổ phần Đông Á đạt lợi nhuận trước thuế là 404,402 tỷ
đồng, bằng 57,8% kế hoạch năm
- Lãi suất huy động vốn đồng Việt Nam lên tới 18-19%/năm, USD
lên tới 7,0 – 8,0%/năm và lãi suất cho vay tăng cao tới 21%/năm, tín
dụng bị kiềm chế.
IX . Ảnh hưởng của thị trường quốc tế
Theo số liệu báo cáo nhanh của các tổ chức tín dụng đến ngày
30/9/2008, lãi suất giao dịch bình quân các kỳ hạn bằng VND trên thị
trường liên ngân hàng có xu hướng giảm so với tuần trước đó. Lãi
suất bình quân các kỳ hạn bằng USD tương đối ổn định. Cụ thể: Lãi
suất VND giao dịch bình quân kỳ hạn qua đêm là 11,97%/năm, 1
tuần là 13,34%/năm, 2 tuần là 14,72%/năm, 1 tháng là 16,68%/năm,
3 tháng là 18,33%/năm, 6 tháng là 17,05%/năm, 1 năm là
14,18%/năm.

×