Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Tiểu luận môn Kinh tế Việt Nam:
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH
TÀI KHÓA CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2008-2010

Sinh viên: Bùi Thị Hạnh
Lớp: Kinh tế Việt Nam 13
Msv: CQ521056
GV: Ths Nguyễn Thị Vi
Hà Nội, 5-2011
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, chính phủ thường sử dụng những chính
sách kinh tế vĩ mô để can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế. Chính sách tài khóa là
một trong những chính sách kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng trong điều hành của
chính phủ.
Vậy chính sách tài khóa là gì? Nó có vai trò gì trong nền kinh tế Việt Nam hiện
nay và kinh tế thế giới? Các nước trên thế giới đã điều hành chính sách tài khóa như
thế nào? Việt Nam đã sử dụng những công cụ gì của chính sách tài khóa để can thiệp
vào các hoạt động của nền kinh tế trong giai đoạn 2008-2010? Chính sách tài khóa
của Việt Nam giai đoạn này có thực sự đạt hiệu quả? Và những biện pháp nào để
chính sách tài khóa của Việt Nam tăng tác động tích cực và giảm thiểu mức thấp nhất
những hạn chế của nó? Đó là những vấn đề mà em đã tiến hành tìm hiểu và đưa ra
nhận định trong bài tiểu luận này. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức nên trong bài
nghiên cứu này sẽ không tránh khỏi được những sai sót. Em rất mong cô giáo có sự
góp ý để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Em xin có lời cảm ơn chân thành đến ThS Nguyễn Thị Vi đã có những hướng
dẫn cụ thể, nhiệt tình để em có thể hoàn thành tốt đề tài này.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam


2
Phần 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA.
I. Khái niệm và vai trò của chính sách tài khóa.
1. Khái niệm.
1.1. Chính sách tài khóa.
Chính sách tài khóa là chính sách điều chỉnh tổng mức hoạt động của nền kinh
tế thông qua chi tiêu của chính phủ và thuế.
Chính sách tài khóa là một trong những chính sách vĩ mô cơ bản, góp phần thực
hiện vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường, nhằm hạn chế các khuyết tật
của cơ chế thị trường, hướng nền kinh tế tới hiệu quả, công bằng và ổn định. Chính
sách tài khóa có liên quan chặt chẽ đến hoạt động của “ngân sách nhà nước”.
1.2. Ngân sách nhà nước.
“Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước”(Luật ngân sách
nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
a. Thu ngân sách nhà nước:
Thu ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ phân phối phát sinh trong quá
trình nhà nước dùng quyền lực chính trị nhằm tập trung vào một bộ phận tổng sản
phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước.
Thuế và lệ phí.
Thu về bán hoặc cho thuê các sản phẩm thuộc sở
hữu nhà nước.
Thu ngân sách Thu lợi tức cổ phần của nhà nước.
nhà nước Các khoản thu khác theo luật định.
Viện trợ không hoàn lại.
Trong đó, nguồn thu thuế là nguồn thu quan trọng có tác động kích thích hay kìm
hãm nền kinh tế và còn có mối quan hệ mật thiết với đời sống tinh thần, vật chất của
mọi người dân trong xã hội.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam

3
“Thuế là khoản đóng góp theo nghĩa vụ bắt buộc được quy định bằng luật mà
mọi thành viên trong xã hội và mọi tổ chức kinh tế phải nộp vào ngân sách nhà
nước.”
Trực thu: thuế tính trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của cá nhân, công
Thuế ty
Gián thu: thuế đánh vào hàng hóa.
b. Chi ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước phản ánh quá trình sử dụng ngân sách nhà nước để thực
hiện các nhiệm vụ do nhà nước định ra.
Chi hành chính nhà nước.
Chi thường xuyên Chi cho an ninh quốc phòng.
Chi cho hoạt động kinh tế, văn hóa.
Chi trợ cấp xã hội.

Chi ngân sách Chi đầu tư phát triển Chi xây dựng cơ sở hạ tầng, kiến
nhà nước thiết đô thị.
Chi mua sắm máy móc thiết bị.
Chi góp vốn và các đơn vị sản
xuất kinh doanh.
Chi tài trợ của nhà nước dưới hình
thức ưu đãi.
Chi thành lập các doanh nghiệp
nhà nước.
Chi khác.
2. Vai trò của chính sách tài khóa.
2.1. Điều hành chính sách tài khóa nhằm đạt được các mục tiêu về tăng trưởng
sản lượng, tạo việc làm đầy đủ và kiểm soát lạm phát ở mức hợp lí.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
4

Y= C +I + G + NX – T
Trong công thức trên ta quan tâm đến 3 đại lượng:
Y: Tổng thu nhập quốc dân
G: Chi tiêu của chính phủ
T: Thuế
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Khi nền kinh tế suy thoái sẽ tăng G giảm T
để tạo thêm việc làm, thúc đẩy sản xuất phát triển và làm tăng tổng sản
lượng của nền kinh tế (chính sách tài khóa mở rộng).
- Duy trì sự ổn định kinh tế: Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng tăng trưởng
nóng có thể tăng T giảm G để kiềm chế lạm phát và giữ cho nền kinh tế ổn
định (chính sách tài khóa thắt chặt).
2.2. Lựa chọn chính sách tài khóa có liên quan trực tiếp đến trạng thái của ngân
sách nhà nước và vấn đề giải quyết tình trạng thâm hụt ngân sách nhà
nước.
Ngân sách nhà nước có thể ở ba trạng thái cân bằng, thâm hụt và thặng dư. Để bù
đắp thâm hụt ngân sách có thể sử dụng các biện pháp như phát hành thêm tiền, vay nợ
trong nước hoặc vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên các biện pháp này đều có những hạn
chế nhất định. Vì vậy một chính sách tài khóa thông minh cần phải phát huy vai trò
tích cực và khi xử lí vấn đề thâm hụt kinh tế cần phải hạn chế thấp nhất những ảnh
hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
II. Kinh nghiệm từ thực tiễn điều hành các chính sách tài khóa ở các
nước.
Thực tiễn các nước cho thấy rằng việc phát huy vai trò của chính sách tài khóa
không đơn giản, bởi vì các lí do:
- Khó lượng hóa được mức độ cần thiết của chính sách tài khóa bởi vì nền
kinh tế trong thực tế chịu sự tác động của nhiều nhân tố biến động khó
lường.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
5
- Sự chậm trễ của các quyết sách so với những biến đổi linh hoạt của đời

sống kinh tế.
- Chính sách tài khóa là những quyết sách chủ quan của con người, nhiều
khi nó cũng bị tác động từ những quan điểm chủ quan hoặc bị những ảnh
hưởng mang tính chất chính trị.
Thực tế ở không ít các nước đang phát triển, chính phủ trực tiếp tham gia vào
nhiều hoạt động của nền kinh tế thông qua việc sở hữu và kiểm soát các doanh nghiệp
nhà nước trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ nhưng nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt
động không hiệu quả, thậm chí kinh doanh thua lỗ. Khi đó chi tiêu của chính phủ trợ
giúp cho các doanh nghiệp nhà nước sẽ đem lại hiệu quả kinh tế thấp.
Ví dụ như thực tiễn ở Mỹ, các chuyên gia cũng đưa ra hai bài học đối với
chính sách tài khoá rút ra từ khủng hoảng tài chính 2008.
Thứ nhất là việc giảm mức độ thâm hụt ngân sách trong giai đoạn kinh tế phát
triển hưng thịnh. Thực tế cho thấy, trong chu kì phát triển của nền kinh tế, Chính phủ
Mỹ đã không củng cố ngân sách đúng mức mặc dù ngân sách được hỗ trợ bởi nguồn
thu lớn từ thuế. Do đó, Chính phủ liên bang đã gặp khó khăn về tài chính khi nền kinh
tế đối mặt với khủng hoảng. Bên cạnh việc đảm bảo năng lực ngân sách để đối phó
với những khó khăn mà nền kinh tế gặp phải, việc giảm chi tiêu công trong giai đoạn
kinh tế tăng trưởng ổn định cũng sẽ góp phần giảm sức ép tới tổng cầu và sự tăng giá
các loại tài sản.
Thứ hai là về chính sách thuế. Theo IMF, chính sách thuế của Mỹ đã gián tiếp
khuyến khích việc sử dụng đòn bẩy tài chính của khu vực doanh nghiệp cũng như dân
cư. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Mỹ cho phép khấu trừ chi phí lãi vay khi
tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong khi đó, việc huy động vốn dưới hình thức phát
hành cổ phiếu không nhận được bất kỳ sự ưu đãi tương tự nào về thuế. Điều này vô
hình chung khuyến khích doanh nghiệp cũng như các tổ chức tài chính sử dụng vốn
vay trong hoạt động sản xuất - kinh doanh hơn là tăng vốn chủ sở hữu.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
6
Đối với khu vực dân cư, luật thuế thu nhập cá nhân cũng cho phép khấu trừ phần
trả lãi vay mua nhà khỏi phần thu nhập chịu thuế khi tính thuế thu nhập cá nhân. Theo

số liệu của IMF, khoản hỗ trợ về thuế này tương đối lớn, chiếm khoảng 19% thu nhập
của tầng lớp trung lưu và khoảng 8% thu nhập của tầng lớp có thu nhập thấp. Chính
sách này đã khuyến khích người dân tăng các khoản vay mua nhà.
Như vậy, những chính sách ưu đãi thuế kể trên đã góp phần khuyến khích các tổ
chức, cá nhân vay vốn để đầu tư trong đó có hoạt động đầu tư vào những lĩnh vực rủi
ro cao như chứng khoán, bất động sản. Điều này tạo nên bong bóng chứng khoán, bất
động sản ở Mỹ, một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính.
Mặc dù nhận thức được vấn đề này nhưng việc thắt chặt chính sách thuế đối với
các khoản lãi vay mua nhà lúc này lại là việc làm không khôn ngoan do thị trường bất
động sản của Mỹ đang khủng hoảng trầm trọng. Mỹ chỉ nên thực hiện thay đổi khi thị
trường hồi phục trở lại. Tuy nhiên, những thay đổi trong chính sách thuế rất nhạy cảm,
liên quan tới vấn đề chính trị nên luôn được các nhà cầm quyền cân nhắc kỹ lưỡng. Về
vấn đề này, Mỹ có thể học tập chính sách của Anh trong việc khuyến khích mua nhà
thông qua việc giảm lãi suất đối với các khoản vay kinh doanh bất động sản mà không
phải sử dụng chính sách thuế.
Ngoài việc khuyến khích sử dụng đòn bẩy tài chính, chính sách thuế cũng tác
động tới mức độ và sự biến động của giá cả các tài sản cơ bản trong đó có chứng
khoán. Chẳng hạn, việc Chính phủ cắt giảm thuế đánh vào cổ tức được chia đã góp
phần khiến chứng khoán tăng giá. Tuy nhiên, những tác động của chính sách thuế tới
sự tăng giá các loại tài sản khá phức tạp, khó có thể đo lường chính xác.
Vì vậy, với vai trò là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng của
nền kinh tế, chính sách tài khoá cũng có những ảnh hưởng nhất định tới diễn biến các
thị trường thông qua hoạt động chi tiêu của Chính phủ và chính sách thuế như đã phân
tích ở trên. Do vậy, để đưa ra những giải pháp ngăn ngừa khủng hoảng trong tương
lai, rất cần xem xét kỹ chính sách tài khoá trong sự phối hợp đồng bộ với các chính
sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tiền tệ và chính sách thương mại.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
7
Phần 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2010.

I. Tình hình cụ thể:
Ngày 15/9/2008, Lehman Brothers, một trong những ngân hàng lâu đời và uy tín
nhất thế giới, sụp đổ. Cuộc khủng hoảng kinh tế có quy mô lớn nhất trong vòng 60
năm trở lại đây chính thức bắt đầu. Cuộc khủng hoảng này có ảnh hưởng sâu rộng đến
toàn bộ nền kinh tế thế giới trong đó có Việt Nam. Vì vậy chính sách tài khóa của Việt
Nam giai đoạn 2008-2010 cũng có những sự thay đổi để ngăn chặn suy giảm, duy trì
được tăng trưởng kinh tế.
1. Về thu ngân sách nhà nước:
Ngày 11-12-2008 Chính phủ đã thông qua nghị quyết số 30/NQ-CP trong đó
điều chỉnh một số khoản thu ngân sách nhà nước liên quan đến thực thi các biện pháp
kích cầu đầu tư và tiêu dùng như:
- Tạm hoãn thu hồi một số khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế
hoạch năm 2009.
- Luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực từ 1-1-2009, nhưng để khuyến
khích tiêu dùng, Chính phủ đã tạm hoãn đến hết tháng 6-2009.
- Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý IV năm 2008
và thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 đối với thu nhập của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với số thuế thu nhập phải nộp năm 2009
của các doanh nghiệp nói trên và các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất
gia công, chế biến nông-lâm-thủy sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử.
- Tạm hoãn 90% số thuế VAT đầu vào đối với hàng hóa thực phẩm xuất
khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua
ngân hàng, và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
8
- Điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu đối với một số loại tài nguyên,
khoảng sản. Điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là
nguyên liệu đầu vào của sản xuất. Điều chỉnh tăng thuế trong khuôn khổ
cam kết WTO, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất.

- Giãn thời hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng, đối với vật tư nguyên
liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Cụ thể về thu ngân sách nhà nước:
• Năm 2008: Mặc dù kinh tế tăng trưởng chậm hơn 2007, nhưng các nguồn thu
có yếu tố nước ngoài như dầu thô, thu từ cân đối xuất, nhập khẩu tăng mạnh
nên thu ngân sách Nhà nước năm nay vẫn tăng tương đối khá so với năm
2007 và vượt kế hoạch cả năm. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tổng thu ngân
sách Nhà nước năm 2008 ước tính tăng 26,3% so với năm 2007 và bằng
123,8% dự toán năm, trong đó thu nội địa bằng 110,9%; thu từ dầu thô bằng
143,3%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 141,1%.
Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 101,5%; thu
từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 102,1%;
thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 105,9%; thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng 122,4%; thu phí xăng dầu bằng
99,3%; thu phí, lệ phí bằng 116,5%.
• Năm 2009: Mặc dù bị ảnh hưởng trong những tháng đầu năm do thực hiện
miễn, giảm, giãn thuế và giá dầu thô trên thế giới giảm, nhưng những tháng
cuối năm sản xuất kinh doanh trong nước phát triển nên tổng thu ngân sách
Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt xấp xỉ dự toán năm, trong
đó các khoản thu nội địa bằng 102,5%; thu từ dầu thô bằng 86,7%; thu cân
đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu bằng 101,6%. Trong thu nội địa,
thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 106,2%; thu từ doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 88,8%; thu thuế công, thương
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
9
nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 95,6%; thuế thu nhập cá nhân bằng
87%; thu phí xăng dầu đạt 157,5%; thu phí, lệ phí bằng 90,8%.
• Năm 2010: Năm 2010: Thu ngân sách Nhà nước tính từ đầu năm đến ngày
15/12 ước đạt 504,4 nghìn tỷ đồng, bằng 109,3% dự toán năm.
2. Về chi ngân sách nhà nước.

Cuối năm 2008 và đầu năm 2009 , chi ngân sách nhà nước hướng vào chương
trình kích cầu nhằm khuyến khích đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu. Gói kích cầu dự
định khoảng 145,6 nghìn tỉ đồng, tương đương với 8 tỉ USD. Trong đó dành 17 nghìn
tỉ đồng để hỗ trợ 4% lãi suất cho vay của các ngân hàng; vốn đầu tư phát triển của nhà
nước khoảng 90,8 nghìn tỉ đồng; và các khoản chi khác nhằm ngăn chặn suy giảm
kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào
các dự án, công trình có quy mô lớn, các cơ sở hạ tầng, GTVT, điện… bằng việc tạo
điều kiện thuận lợi tối đa về mặt đất đai, tiếp cận nguồn vốn, giải phóng mặt bằng, lãi
suất,… Đối với các dự án, công trình sử dụng nguồn trái phiếu chính phủ, cho phép
điều chỉnh tổng mức đầu tư đồng thời tiếp tục giải ngân số vốn trái phiếu Chính phủ
còn lại của năm 2008 trong năm 2009.
Để khuyến khích tiêu dùng, từ giữa năm 2009, Nhà nước điều chỉnh lương tối
thiểu, tăng từ mức 540 nghìn đồng lên 650 nghìn đồng/tháng. Chính phủ khuyến khích
các doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho người nghèo, cho các đối tượng thuộc chính
sách, người lao động… Tổ chức triển khai thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo
quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
Tiếp theo,tăng lương tối thiểu từ 1/5/2010
Để thực hiện dự toán ngân sách Nhà nước năm 2010 Quốc hội đã nhấn mạnh một
số giải pháp trọng tâm. Theo đó, tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa linh hoạt có
kiểm soát chặt chẽ, phấn đấu nâng cao hiệu quả chi, phấn đấu giảm bội chi ngân sách
Nhà nước năm 2010 xuống dưới 6,2% và giảm dần trong các năm sau
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
10
Số liệu cụ thể về chi ngân sách nhà nước:
• Năm 2008: Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2008 ước tính tăng 22,3% so với
năm 2007 và bằng 118,9% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng
118,3% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 114,7%); chi sự nghiệp kinh tế-xã
hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 113,3%; chi trả
nợ và viện trợ bằng 100%. Các khoản chi thường xuyên đều đạt hoặc vượt dự toán

năm, trong đó chi sự nghiệp kinh tế bằng 145,3% dự toán năm; chi thể dục thể thao
bằng 123%; chi lương hưu và bảo đảm xã hội bằng 120,7%; chi giáo dục, đào tạo,
dạy nghề bằng 104,6%; chi y tế bằng 104,1%
Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2008 ước tính bằng 13,7% tổng số chi và bằng
97,5% mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội thông qua đầu năm, trong đó
77,3% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 22,7% được bù đắp từ nguồn
vay nước ngoài.
• Năm 2009: Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt
96,2% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 95,2% (riêng chi đầu tư xây
dựng cơ bản đạt 93,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể đạt 99,6%; chi trả nợ và viện trợ đạt
102,7%. Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2009 ước tính bằng 7% GDP, thực hiện
được mức bội chi Quốc hội đề ra, trong đó 81,2% mức bội chi được bù đắp bằng
nguồn vay trong nước; 18,8% bù đắp bằng nguồn vay nước ngoài
III. Đánh giá tác động của chính sách tài khóa giai đoạn 2008-2010.
1. Tích cực.
Chính sách tài khóa giai đoạn này đã ứng phó nhanh, kịp thời hướng mạnh vào
kích cầu. Nhờ đó Việt Nam ngăn chặn được suy giảm kinh tế. Năm 2010, Việt Nam
vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra (6,5%). Tổng kim
ngạch xuất khẩu tháng 12/2010 ước đạt 7,1 tỷ USD, cả năm 2010 ước đạt hơn 71,6 tỷ
USD, tăng 25,5% so năm 2009 và gấp hơn bốn lần so chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
11
hội thông qua (hơn 6%). Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện góp phần
tăng trưởng xuất khẩu cả năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng tính chung cả năm 2010 ước đạt hơn 1.561,6 nghìn tỷ đồng, tăng 24,5% so với
năm 2009. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2010 đạt gần 233.000
tỷ đồng, tăng 4,7% so với năm 2009. Sản lượng lúa cả năm 2010 đạt gần 40 triệu tấn,
tăng 1,04 triệu tấn do tăng cả diện tích và năng suất. Hòa nhịp phục hồi, công nghiệp
đã lấy lại được đà tăng trưởng của những năm trước khủng khoảng với giá trị sản xuất

đạt gần 794.000 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2009. Đặc biệt, cơ cấu sản xuất công
nghiệp đã thay đổi tích cực theo hướng công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng
lớn nhất (gần 90%) và giảm dần công nghiệp khai thác tài nguyên.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 71,6 tỷ USD, vượt trên 10 tỷ USD so với kế hoạch và
tăng 25,5% so với năm 2009.
Đặc biệt, Việt Nam đã có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD,
tăng 6 mặt hàng so với năm 2009. Lần đầu tiên, dệt may đạt trên 11 tỷ USD, đứng đầu
về kim ngạch xuất khẩu trong 26 mặt hàng chính. Thủy sản, da giày đã vượt dầu thô
“soán ngôi” top 3 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
Nhờ kiểm soát chặt nhập khẩu và “thắng lợi” của xuất khẩu, nhập siêu hàng hóa
đã giảm hơn 5% và bằng 17,3% kim ngạch xuất khẩu. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất
khẩu dịch vụ cũng tăng trên 29%, góp phần khống chế nhập siêu dịch giảm hơn 24%
và bằng 11,5% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
Cùng với sự phục hồi của các ngành kinh tế, tổng thu ngân sách Nhà nước năm
2010 sẽ vượt 12,7% so với dự toán và tăng 17,6% so với năm 2009, bảo đảm được các
nhiệm vụ chi và góp phần giảm bội chi xuống dưới 6%, thấp hơn kế hoạch đề ra.
2. Tiêu cực.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
12
Bên cạnh những mặt tích cực, chính sách tài khóa giai đoạn này còn không ít hạn
chế:
- Thu ngân sách nhà nước vẫn còn tiềm ẩn những bất ổn do nguồn thu từ
dầu thô cong chiếm tỉ trọng đáng kể. Khi giá dầu thế giới biến động giảm
sút thì thu ngân sách nhà nước cũng sẽ giảm đáng kể. Tình trạng thất thu
thuế, nợ đọng thuế vẫn chưa được giải quyết.
- Tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm đã vượt quá 30% GDP, đó là một
con số khá lớn. Chi đầu tư và phát triển còn dàn trải, lãng phí ngay từ khâu
thiết kế và chọn dự án đầu tư. Chi cho phát triển khoa học-công nghệ, cho
giáo dục-đào tạo và cho nguồn nhân lực chưa được coi trọng đúng mức về
quy mô, cách thức phân bổ nên tác động còn hạn chế.

- Các khoản ưu đãi về thuế làm giảm thu ngân sách nhà nước, đồng thời gói
chi ngân sách nhà nước cho chương trình kích cầu rất lớn dẫn đến tình
trạng thâm hụt ngân sách nhà nước tăng lên, từ đó có thể gây nên áp lực về
lạm phát.
- Các khoản chi hỗ trợ từ ngân sách nhà nước nếu không kiểm soát chặt chẽ,
hiệu quả thấp sẽ không thúc đẩy kinh tế như mong muốn.
- Thu chi ngân sách nhà nước quá lớn tạo ra sự lấn át đối với khu vực tư
nhân, hơn nữa còn hạn chế tác động của điều tiết thị trường, gây ra tình
trạng bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Tình hình thực tế năm 2010, thu ngân sách năm 2010 dự kiến đạt 480.000 tỷ
đồng, tăng gần 18% so với năm 2009. Ngân sách tăng cao nhưng vẫn bội chi cho thấy
vấn đề lạm phát không phải chỉ nằm ở chính sách tiền tệ. Tiền được đẩy vào các dự án
mà chưa thể đánh giá ngay được hiệu quả kinh tế.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
13
Đáng lo ngại hơn là trong hàng trăm nghìn tỷ đồng đẩy ra, tỷ lệ rò rỉ ngân sách
được các bộ, ngành chức năng báo cáo trước Quốc hội trong nhiều kỳ họp gần đây là
từ 10-30%.
Việc phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ chưa hiệu quả, cách thức
điều hành tỷ giá VND/USD chưa linh hoạt, không theo thị trường đã đẩy chênh lệch
tỷ giá thị trường và tỷ giá ngân hàng lên tới gần 10% (2.000 đồng), điều chưa từng có
trong vòng 15 năm trở lại đây. Điều này đã làm cho lòng tin của người dân vào đồng
nội tệ bị giảm sút, tạo ra vòng xoáy găm giữ USD, tạo áp lực tăng giá đồng USD và
gây bất lợi cho nền kinh tế.
Chính sách tài khóa với chi tiêu công quá mạnh trong khu vực đầu tư, làm tăng tỷ
lệ đầu tư/GDP ở mức 44,2% năm 2010 - cao nhất châu Á, sau Trung Quốc. Do nền
kinh tế kém hiệu quả nên các khoản đầu tư công cũng không mấy hiệu quả đã tạo ra
sự mất cân đối giữa lượng hàng hóa với số lượng tiền trong nền kinh tế và kết quả tất
yếu phải xảy ra là lạm phát. Chi tiêu công và nợ công tăng cao trong những năm gần
đây đã tạo ra sức ép nặng nề lên giá cả hàng hóa. Điều này cũng giải thích tại sao

chính sách tiền tệ đã kiểm soát tăng trưởng tín dụng (28%) và gia tăng tổng phương
tiện thanh toán (25%) khá tốt năm 2010 nhưng lạm phát vẫn ở mức 2 chữ số. Đây
cũng chính là nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam trong nhiều năm qua.
Sự thiếu phối hợp, trao đổi thông tin trong điều hành chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa cũng đã ảnh hưởng tới việc điều hành của chính sách sách tiền tệ về
ngắn hạn. Điều hành chính sách tiền tệ đòi hỏi có hệ thống thông tin tài chính đầy đủ,
cập nhật và chính xác, thế nhưng trong một số trường hợp các thông tin, báo cáo về
các vấn đề tài chính công, đặc biệt chi tiêu và đầu tư công lệch pha về thời gian với
yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ.
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
14
Chính phủ thực thi chính sách tài khóa mở rộng, chấp nhận thâm hụt ngân sách
(5,8%) và phát hành trái phiếu để bù đắp cho nhu cầu đầu tư, đặc biệt là đầu tư công.
Tổng mức đầu tư ban đầu của các dự án, công trình thuộc danh mục đầu tư từ nguồn
vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 - 2010 là 246.447 tỷ đồng. Hầu hết các dự án
đều có điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu. Có dự án điều chỉnh
tổng mức đầu tư lên 3 - 4 lần, riêng phần vốn trái phiếu Chính phủ một số dự án điều
chỉnh tới trên chục lần, qua tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng mức đầu tư
điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa phương đã lên tới 558.654 tỷ đồng (tăng 226%). Uỷ
ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, tổng mức đầu tư các công trình, dự án sử dụng
nguồn vốn này đã “tăng quá cao so với khả năng cân đối của ngân sách, ảnh hưởng
đến khả năng vay và trả nợ”. Trong khi cơ chế điều hành, quản lý nguồn vốn chưa hợp
lý số lượng dự án hoàn thành còn quá ít, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng
vốn.
IV. Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò tích cực và hạn chế ảnh
hưởng của chính sách tài khóa ở Việt Nam
- Phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Chính
phủ cần đưa ra một kế hoạch tổng thể chính sách về tài chính - tiền tệ, trong đó các
vấn đề về cân đối bội chi ngân sách, cân đối đầu tư công cần được tính toán, nghiên
cứu trong mối quan hệ chặt chẽ tới các chỉ tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ: tổng

phương tiện thanh toán và tăng tưởng tín dụng. Tránh hiện tượng trong khi chính sách
tiền tệ đang tìm cách thắt chặt để kiểm soát lạm phát thì chính sách tài khóa lại nới
lỏng cho đầu tư công như thời gian vừa qua.
-Lãi suất phát hành trái phiếu cần được nghiên cứu, tính toán với mặt bằng lãi
suất huy động chung của hệ thống ngân hàng thương mại, hạn chế các ngân hàng
thương mại sử dụng vốn huy động để mua trái phiếu chính phủ và cần tăng cường
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
15
phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong việc xác định lãi suất
đảm bảo ổn định lãi suất thị trường.
-Từng bước giảm bội chi ngân sách theo hướng Chính phủ chỉ đầu tư các công
trình cơ sở hạ tầng trọng điểm liên quan đến quốc kế dân sinh, khuyến khích khu vực
kinh tế tư nhân tham gia đầu tư các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua hình
thức đối tác công tư (PPP)
-Nguyên nhân căn bản của lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua là mô hình
tăng trưởng dựa vào đầu tư nhưng lại kém hiệu quả và thực hiện chính sách tài khóa
mở rộng, và vì vậy, để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới, Chính phủ
cần kiên định với mục tiêu ưu tiên ổn định vĩ mô thay vì thúc đẩy tốc độ tăng trưởng
GDP, thậm chí cần đặt mục tiêu tăng trưởng thấp hơn (khoảng 6 - 6,5%) để kiểm soát
lạm phát ở mức 5 - 6% năm 2011 và duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức 3 - 4% những năm
tiếp theo. Làm được như vậy nền kinh tế sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng vững chắc và
lâu dài.
- Chính phủ nên coi giảm thuế để kích thích kinh tế là biện pháp tình thế. Chính
phủ cần tiết kiệm (giảm bớt) chi ngân sách và tăng cường hiệu quả cho các khoản chi
này. Từng bước giảm thâm hụt ngân sách, đảm bảo tình hình tài chính quốc gia vững
mạnh trong trung và dài hạn.
-Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
ngay từ khâu xây dựng và hoạch định chính sách, trước mắt năm 2011, cả hai chính
sách này phải nên được thắt chặt để giảm tổng cầu và ngăn chặn lạm phát, chính sách
tài khóa cần được xây dựng theo hướng giảm dần thâm hụt tài chính tổng thể và thâm

hụt ngân sách nên được duy trì ở mức 4 - 5%/năm.
-Chính phủ cần thực hiện cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng tăng thu từ
kinh tế trong nước, giảm dần sự phụ thuộc vào thu từ tài nguyên, dầu thô và xuất nhập
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
16
khẩu. Đẩy mạnh cải cách khu vực sự nghiệp công, thúc đẩy xã hội hoá cung ứng các
dịch vụ công; giảm đầu tư công từ vốn nhà nước, chuyển dần việc thực hiện đầu tư
công cho các bộ phận kinh tế khác.
- Phải điều chỉnh hợp lý chính sách thu phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế,
tăng cường quản lý thu; phát triển đồng bộ các thị trường, đẩy mạnh việc thực hiện
quản lý giá theo cơ chế thị trường; tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; thực hiện lành
mạnh hóa, công khai, minh bạch tài chính doanh nghiệp.
Phần 3: KẾT LUẬN
Chính sách tài khóa là một trong hai chính sách hết sức quan trọng trong
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong giai đoạn 2008-2010, điều hành chính sách tài
khóa ở Việt Nam đã có những tác động tích cực đến nền kinh tế nước ta. Tuy
nhiên những chính sách này vẫn không tránh khỏi những hạn chế gây ảnh hưởng
tiêu cực. Rút kinh nghiệm từ những giai đoạn đã qua và từ những chính sách tài
khóa của các nước trên thế giới, Việt Nam cần có những biện pháp đồng bộ và
tích cực hơn nữa để phát huy cao nhất hiệu quả của chính sách tài khóa trong
những giai đoạn sau này.

Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
17
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Kinh tế Việt Nam – Chủ biên GS.TS Nguyễn Văn Thường và TS.
Trần Khánh Hưng, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
Các trang web: KLVN.VN, tapchitaichinh.vn, vnbussiness.vn, baomoi.vn,
sbv.gov.vn

Cổng thông tin điện tử chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:


Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
18


Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
19

Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
20
Bùi Thị Hạnh Ti– ểu luận môn Kinh tế Việt Nam
21

×