Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Giải pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.64 KB, 112 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan toàn bộ luận văn “Giải pháp đảm bảo an toàn trong
hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam” là công
trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi; các số liệu, trích dẫn trong luận văn đều
có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả của luận văn là trung thực và chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Hà Nội, ngày 11 tháng 12 năm 2012
HỌC VIÊN
ĐỖ CẨM HIỀN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTW : Ngân hàng trung ương
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
TCTD : Tổ chức tín dụng
BHTG : Bảo hiểm tiền gửi
BHTGVN : Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
HĐQT : Hội đồng quản trị
BKS : Ban kiểm soát
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 2
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ 3
MỤC LỤC 4
4
LỜI MỞ ĐẦU 6


CHƯƠNG 1 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN 1
CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1
1.1. Vai trò của NHTM đối với nền kinh tế 1
1.2. Khái niệm về an toàn của hệ thống NHTM và sự cần thiết phải đảm bảo an
toàn hệ thống NHTM 1
1.2.1. Khái niệm an toàn của hệ thống NHTM 1
1.2.2. Sự cần thiết phải đảm bảo an toàn trong hệ thống NHTM mỗi quốc gia 2
1.3. Các tiêu chí đánh giá sự an toàn trong hoạt động của NHTM và của hệ thống
NHTM 2
1.3.1. Tiêu chí về vốn và mức độ đủ vốn 2
1.3.2. Tiêu chí về giới hạn tín dụng 6
1.3.3. Tiêu chí về giới hạn đầu tư TSCĐ, đầu tư tài chính dài hạn 7
1.3.4. Tiêu chí về khả năng chi trả 8
1.3.5. Tiêu chí về phân loại nợ vay và trích lập dự phòng rủi ro 9
1.3.6. Tiêu chí về tổ chức quản lý, điều hành 11
1.3.7. Tiêu chí về bảo hiểm tiền gửi 12
1.3.8. Dấu hiệu mất an toàn hệ thống và vai trò của NHTW trong trường hợp rủi
ro hệ thống 13
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống NHTM 14
1.4.1. Nhân tố bản thân mỗi NHTM về khả năng cạnh tranh và phát triển 14
1.4.2. Nhân tố bên ngoài 17
1.5. Một số bài học quốc tế về đảm bảo an toàn trong hệ thống NHTM 20
1.5.1. Kinh nghiệm của một số quốc gia 20
1.5.2. Bài học rút ra cho Việt Nam 25
CHƯƠNG 2 28
THỰC TRẠNG VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA 28
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM 28
2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam 28

2.1.1. Giai đoạn từ năm 1990 trở về trước 28
2.1.2. Giai đoạn từ 1990 đến nay 29
2.2. Thực trạng về khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của hệ
thống NHTMCP Việt Nam 35
2.2.1. Về năng lực tài chính 35
2.2.2. Về giới hạn cấp tín dụng 39
2.2.3. Về giới hạn đầu tư tài chính 40
2.2.4. Về các tỉ lệ thanh khoản 41
2.2.5. Về khả năng sinh lời 42
2.2.6. Về năng lực tự kiểm soát của các NHTMCP 49
2.3. Thực trạng công tác thanh tra, giám sát của NHNN về sự an toàn của hệ thống
NHTMCP 52
2.3.1. Việc xây dựng chính sách thanh tra, giám sát 52
2.3.2. Việc thanh tra tại chỗ 55
2.3.3. Việc giám sát từ xa 59
2.4. Đánh giá thực trạng đảm bảo an toàn hệ thống NHTMCP Việt Nam 62
2.4.1. Những kết quả đạt được 62
2.4.2. Những hạn chế, tồn tại 64
CHƯƠNG 3 68
CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG 68
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM 68
3.1. Định hướng phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam 68
3.1.1. Định hướng phát triển hệ thống NHTM Việt Nam 68
3.1.2. Định hướng chính sách 70
3.1.3. Định hướng đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng 70
3.2. Đề xuất các giải pháp đảm bảo an toàn của hệ thống NHTMCP Việt Nam 72
3.2.1. Các giải pháp về chính sách ngân hàng 72
3.2.2. Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTMCP 81
3.2.3. Các giải pháp đối với cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng 83
LỜI MỞ ĐẦU

Trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế của nền kinh tế hiện nay, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đang từng bước chuyển mình, nhằm theo kịp với sự
phát triển chung của đất nước và xu hướng tại các quốc gia trên thế giới. Hội
nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại mở ra nhiều cơ hội cho các ngân
hàng trong nước, tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng Việt Nam tranh thủ được
các nguồn vốn, tiếp thu công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến của các
nước trên thế giới. Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc tế cũng khiến cho nền kinh
tế phải chịu tác động nhiều hơn từ bên ngoài, các ngân hàng Việt Nam phải đối
mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn, đối mặt với sự bất ổn và rủi ro lớn hơn; nhất là
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua
đã thách thức sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Bởi vậy, việc nghiên cứu, đề
xuất “Giải pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam” là yêu cầu cần thiết và cấp bách trong giai đoạn
hiện nay.
Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa và phát triển những vấn đề cơ bản về giải pháp đảm bảo an
toàn của hệ thống ngân hàng. Những bài học kinh nghiệm của các nước nhằm
đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
Nghiên cứu thực trạng hệ thống NHTMCP Việt Nam và các giải pháp đảm
bảo an toàn hệ thống NHTMCP Việt Nam trong thời gian qua.
Đề xuất giải pháp đảm bảo an toàn cho hệ thống NHTMCP Việt Nam, cụ thể:
- Định hướng, phát triển hệ thống NHTMCP Việt Nam về số lượng và chất
lượng nhằm đảm bảo vừa đáp ứng được yêu cầu về dịch vụ tài chính ngân
hàng cho nền kinh tế vừa đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp đảm bảo an toàn hệ thống NHTMCP Việt Nam
trong quá trình phát triển và hội nhập; phát hiện sớm, ngăn chặn nguy cơ
mất an toàn của hệ thống ngân hàng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống
ngân hàng hoạt động tại Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống các NHTMCP hoạt động tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Để đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng cần thực
hiện đồng bộ các giải pháp: ổn định chính trị xã hội, phát triển và ổn định nền
kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng (sức mạnh về tài
chính, hoạt động kinh doanh, công nghệ, quản lý ), chính sách tiền tệ (chính
sách lãi suất, tỷ giá ). Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chủ
yếu tập trung kiến nghị các giải pháp hoàn thiện quy chế về các tỉ lệ đảm bảo an
toàn trong hoạt động, phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng,
nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng và tăng cường
năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu từ duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, phương pháp tiếp cận hệ thống đến phương pháp khảo nghiệm tổng kết thực
tiễn, phương pháp nghiên cứu dữ liệu, phương pháp phân tích, so sánh thống kê
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các bảng số liệu chứng minh và minh họa.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các
bảng số liệu, biểu đồ, nội dung chính của đề tài được thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về đảm bảo an toàn của hệ thống ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng về đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam.

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN
CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Vai trò của NHTM đối với nền kinh tế
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và

thường xuyên nhận kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Từ những nhận định trên có thể thấy, NHTM đóng vai trò là trung gian tài
chính huy động nguồn vốn nhàn rỗi và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Với chức
năng này, NHTM góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán và lưu chuyển vốn
trong nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh và lưu thông
hàng hóa, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc tạo tiền, tăng tổng phương tiện
thanh toán, từ đó tăng tổng lượng tiền cung ứng đáp ứng nhu cầu vốn của toàn xã
hội. Do vậy, NHTM là một công cụ hữu hiệu của NHTW trong điều tiết lưu
thông tiền tệ cho nền kinh tế.
Cùng với vai trò tạo tiền, NHTM đóng vai trò là thủ quỹ và trung gian
thanh toán cho các doanh nghiệp và cá nhân, cung cấp các phương tiện thanh
toán nhanh chóng, hiệu quả và an toàn, đóng vai trò chính trong việc thực hiện
thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán và lưu
chuyển vốn trong nền kinh tế.
Vì vậy, NHTM giữ vai trò hết sức quan trọng trong thực thi chính sách,
chiến lược phát triển kinh tế, cung cấp thông tin về thực trạng kinh tế làm cơ sở
đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh, dự đoán xu thế vận
động của nền kinh tế để có định hướng phát triển kinh tế ổn định, bền vững, hiệu
quả trong dài hạn.
1.2. Khái niệm về an toàn của hệ thống NHTM và sự cần thiết phải đảm bảo
an toàn hệ thống NHTM
1.2.1. Khái niệm an toàn của hệ thống NHTM
Hiện nay, trên thế giới tồn tại những quan điểm khác nhau về khái niệm thế
nào là “một hệ thống ngân hàng an toàn” hay “đảm bảo an toàn hệ thống ngân
1
hàng” là gì? Theo IMF thì một hệ thống ngân hàng - tài chính được coi là an toàn
nếu nó thực hiện một cách có hiệu quả chức năng vốn có của nó (phân bổ nguồn
vốn tiết kiệm, cung cấp phương tiện thanh toán cho các hoạt động kinh tế, thương

mại) đối với nền kinh tế, có khả năng hạn chế hoặc xử lý các rủi ro trước khi các
rủi ro này đe dọa đến hệ thống tài chính - ngân hàng. Theo một số nhà kinh tế
khác thì một hệ thống ngân hàng an toàn là hệ thống mà trong đó các cú “sốc” với
quy mô bình thường phát sinh từ khu vực sản suất, kinh doanh hoặc khu vực tài
chính đều không thể tạo ra cuộc khủng hoảng tài chính - ngân hàng cho hệ thống
ngân hàng.
Một trong những quan điểm mang tính thực tiễn về khái niệm “đảm bảo an
toàn hệ thống ngân hàng” mà được phần đông các chuyên gia ngân hàng nhìn
nhận là “đảm bảo cho hệ thống ngân hàng không xảy ra khủng hoảng, đổ vỡ
ngân hàng mang tính hệ thống”.
1.2.2. Sự cần thiết phải đảm bảo an toàn trong hệ thống NHTM mỗi quốc gia
Hệ thống ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế của hầu hết các quốc gia, nó không chỉ là kênh cơ bản cung ứng vốn cho mọi
hoạt động của nền kinh tế mà còn giữ vai trò thiết yếu trong việc truyền dẫn
chính sách tiền tệ, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế.
Hệ thống ngân hàng là một bộ phận tối quan trọng và không thể tách rời của hệ
thống tài chính. Hệ thống ngân hàng có quan hệ “sống còn” với các khu vực và thị
trường bộ phận khác của nền kinh tế. Sự sụp đổ hàng loạt ngân hàng sẽ luôn gây
bất ổn lớn cho hệ thống tài chính và các thị trường bộ phận khác, từ đó đe dọa đến
sự ổn định của nền kinh tế. Với vai trò quan trọng không thể thay thế của hệ thống
ngân hàng đối với nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu phải đảm bảo sự phát triển an
toàn, bền vững của từng ngân hàng nói riêng và toàn hệ thống nói chung.
1.3. Các tiêu chí đánh giá sự an toàn trong hoạt động của NHTM và của hệ
thống NHTM
1.3.1. Tiêu chí về vốn và mức độ đủ vốn
1.3.1.1. Vốn điều lệ
Vốn điều lệ là số vốn ban đầu của một NHTM, là tiêu chuẩn được thành lập
và đi vào hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ được ghi trong điều lệ hoạt động của
NHTM. Vốn này có thể khác nhau giữa các ngân hàng, phụ thuộc vào mỗi hình
2

thức sở hữu của NHTM. Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước thì vốn điều lệ
do ngân sách nhà nước cấp và được bổ sung trong quá trình hoạt động. Nếu là
NHTMCP, NHLD thì do các cổ đông và các bên liên doanh đóng góp. Vốn điều
lệ của từng loại ngân hàng thương mại không thấp hơn mức vốn pháp định mà
pháp luật quy định cho từng loại NHTM. Trong quá trình kinh doanh các
NHTM có thể bổ sung tăng vốn điều lệ nhưng phải được NHTW đồng ý và
được công bố công khai.
Vốn điều lệ nói lên quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh ban đầu của
ngân hàng. Các NHTM có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn này.
Ngày 3/10/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/1998/NĐ-CP về
danh mục mức vốn pháp định của các TCTD, trong đó có quy định vốn điều lệ
của các NHTM không được thấp hơn mức vốn pháp định, cụ thể như sau:
- Khối NHTMNN: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là
2.200 tỷ đồng, NHTMNN khác là 1.100 tỷ đồng;
- Khối NHTMCP: NHTMCP đô thị tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 70
tỷ đồng, ở các tỉnh và thành phố khác là 50 tỷ đồng; NHTMCP Nông thôn 5 tỷ
đồng.
- NHLD là 10 triệu USD;
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD.
Tuy nhiên, trải qua quá trình phát triển, trước yêu cầu của cạnh tranh và đòi
hỏi của việc đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, yêu cầu các TCTD phải có
quy mô vốn điều lệ đủ lớn. Trước tình hình đó, ngày 22/11/2006, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2006/ NĐ-CP thay thế Nghị định số
82/1998/NĐ-CP, vốn điều lệ của các TCTD không thấp hơn mức vốn pháp định
cụ thể như sau:
- Đối với các NHTMNN cuối năm 2008 là 3.000 tỷ đồng;
- Đối với NHTMCP (không phân biệt đô thị hay nông thôn), NHLD, ngân
hàng 100% vốn nước ngoài cuối năm 2008 là 1000 tỷ đồng; cuối năm 2010
là 3.000 tỷ đồng.
1.3.1.2. Mức độ đủ vốn tối thiểu – Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu (Hệ số CAR -

Capital Adequacy Ratio)
“Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu” là tỉ lệ giữa Vốn tự có của ngân hàng so với
3
Tổng tài sản “Có” rủi ro.
Đây là một tỉ lệ có tính chuẩn mực quốc tế, bất cứ NHTM của nước nào
cũng phải tuân thủ nhằm đảm bảo quan hệ giữa vốn tự có và tài sản mà ngân
hàng sử dụng để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng hay nói cách khác
đảm bảo đủ vốn để bù đắp các tổn thất không định trước.
Tại điều 4, quyết định số 457, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
quy định “Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh Ngân hàng nước ngoài phải duy trì tỉ
lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổn tài sản “Có” rủi ro”.
Tuy nhiên, do tình hình diễn biến phức tạp của nền kinh tế nói chung cũng
như về hoạt động tiền tệ - tín dụng và để tăng cường khả năng kiểm soát đối với
hoạt động của các tổ chức tín dụng, ngày 20/5/2010, Thống đốc đã ban hành thông
tư số 13/TT-NHNN quy định tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu đối với các NHTM là 9%.
Hệ số CAR (%) =
Vốn tự có (*)

9%
Tổng tài sản “Có” rủi ro (**)
Hệ số này được hiểu về phương diện chủ quan trong việc điều hành và bố
trí nguồn vốn của NHTM, bảo đảm sự cân đối với việc sử dụng vốn. Hệ số này
càng cao thì sự an toàn càng lớn.
(*)Vốn tự có: một trong những điểm mới lớn nhất của Quyết định số
457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 là đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ
và cụ thể về “vốn tự có” của các tổ chức tín dụng. Theo quy định của Luật Các
Tổ Chức Tín Dụng, vốn tự có được định nghĩa bao gồm “giá trị thực có của vốn
điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “Nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy
định của Ngân Hàng Nhà Nước” và vốn tự có là căn cứ để tính toán các Tỉ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng. Mặc dù vậy, Luật Các Tổ Chức Tín

Dụng không có bất kỳ quy định cụ thể nào về các tài sản “Nợ” khác. Theo Quyết
định 457, lần đầu tiên cho phép các tổ chức tín dụng được phép xác định vốn tự
có của mình theo hai cấp:
Vốn cấp 1: về cơ bản bao gồm vốn điều lệ (thực có), lợi nhuận không chia
và các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng
như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát
triển, thặng dư vốn cổ phần còn lại (sau khi đã mua lại cổ phiếu của chính mình
4
 Cổ phiếu quỹ). Trừ ra: Lợi thế thương mại, lỗ lũy kế, số vốn góp mua cổ phần
của các TCTD khác, số vốn góp mua cổ phần của công ty con (nếu tính CAR
riêng lẻ) và một số khoản phải trừ khác (vượt 10% số cộng đem đầu tư vào
doanh nghiệp). Vốn cấp 1 được dùng để xác định giới hạn mua, đầu tư vào tài
sản cố định của tổ chức tín dụng (theo quy định hiện hành không quá 50%).
Vốn cấp 2: là các nguồn vốn tự bổ sung hoặc có nguồn gốc từ bên ngoài
của tổ chức tín dụng. Vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm: phần giá trị tăng thêm do
định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng (bao gồm 50% giá trị TSCĐ tăng thêm
đối với tài sản cố định và 40% giá trị tăng thêm đối với các loại chứng khoán đầu
tư), nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển
đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp nhất định) và dự phòng chung
cho rủi ro tín dụng (tối đa bằng 1,25% tổng tài sản “Có” rủi ro). Trừ đi: 100%
giá trị giảm đi của TSCĐ, 100% giá trị tài sản tài chính giảm đi khi đánh giá lại.
Tuy nhiên, Quyết Định 457 đưa ra một số hạn chế về vốn cấp 2. Ngoài một số
điều kiện khác, tổng giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% tổng giá trị vốn cấp 1 và
tổng giá trị trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và các công cụ nợ khác tối đa
bằng 50% vốn cấp 1.
Việc xác định vốn tự có theo hai cấp sẽ cho phép các ngân hàng thương mại
trong nước tính toán cụ thể và nâng cao được mức vốn tự có của mình vốn dĩ
trước đây phần lớn chỉ được tính trên cơ sở vốn cấp 1. Do vậy, các tổ chức tín
dụng cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc tuân thủ các Tỉ lệ an toàn tính trên cơ sở
vốn tự có. Các tổ chức tín dụng phải trừ khỏi vốn tự có của mình toàn bộ phần

giá trị giảm đi của các tài sản cố định hay chứng khoán đầu tư do định giá lại,
tổng số vốn góp hoặc cổ phần trong tổ chức tín dụng khác, phần góp vốn, liên
doanh, mua cổ phần của quỹ đầu tư, doanh nghiệp vượt mức 15% vốn tự có, và
lỗ kinh doanh kể cả các khoản lỗ lũy kế.
(**)Tổng tài sản “Có” rủi ro: là tổng tài sản “Có” nội bảng (bao gồm,
ngoài những mục khác, tiền mặt, vàng, tiền gửi, các khoản cho vay và các khoản
phải đòi) và tài sản “Có” ngoại bảng (bao gồm, ngoài các mục khác, cam kết bảo
lãnh, cho vay, thư tín dụng và chấp nhận thanh toán) được điều chỉnh theo hệ số
rủi ro. Dựa trên mức độ rủi ro, các hệ số rủi ro cho tài sản “Có” nội bảng gồm 4
nhóm là 100%, 50%, 20% và 0%. Tuy nhiên, đối với tài sản “Có” ngoại bảng thì
5
phụ thuộc vào mức độ rủi ro tương đối so với việc cấp tín dụng trực tiếp, giá trị
của tài sản này trước tiên phải được chuyển đổi từ giá trị ngoại bảng sang nội
bảng theo các hệ số chuyển đổi 100%, 50%, 20% và 0% trước khi nhân với các
hệ số rủi ro (gồm 3 nhóm là 100%, 50% và 0%).
Giống như quy định tại Quyết định số 457, tài sản Có rủi ro được phân loại thành
6 nhóm có hệ số rủi ro tương ứng là 0%, 20%, 50%, 100%, 150% và 250%. Đặc biệt,
đối với các khoản cho vay đối với công ty chứng khoán, để đầu tư chứng khoán và
khoản cho vay nhằm mục đích kinh doanh bất động sản có hệ số rủi ro 250%.
1.3.2. Tiêu chí về giới hạn tín dụng
Giới hạn cấp tín dụng cho một khách hàng và người có liên quan để hạn chế
rủi ro do việc tập trung tín dụng hay yêu cầu TCTD đa dạng hóa danh mục tín
dụng nhằm phân tán rủi ro.
Khác với Quyết định số 457, Thông tư số 13 (Điều 7) yêu cầu TCTD phải
xây dựng, ban hành quy định về các tiêu chí xác định một khách hàng, nhóm
khách hàng có liên quan, chính sách tín dụng đối với khách hàng và các giới hạn
tín dụng áp dụng đối với một khách hàng và nhóm khách hàng có liên quan và
phải được sửa đổi, bổ sung phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định
nội bộ về quản lý chất lượng tín dụng, chính sách tín dụng đối với khách hàng
khi hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ được sửa đổi, bổ sung hàng năm. Giới hạn

tín dụng của các TCTD như sau:
Đối với TCTD: Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của TCTD đối với
một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của TCTD, trong đó tổng
dư nợ cho vay không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD. Tổng dư nợ cho
vay và số dư bảo lãnh của TCTD đối với một nhóm khách hàng có liên quan
không được vượt quá 60% vốn tự có của TCTD, trong đó tổng dư nợ cho vay
không được vượt quá 50% vốn tự có của TCTD.
Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Tổng dư nợ cho vay và số dư bảo
lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách hàng không được
vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài, trong đó dư nợ cho vay
không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài
.
Tổng dư nợ cho
vay và số dư bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một nhóm
khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của ngân hàng
nước ngoài, trong đó dư nợ cho vay không vượt quá 50% vốn tự có của ngân
6
hàng nước ngoài.
Tỉ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động: đây là tỉ lệ mới được bổ sung so
với Quyết định số 457, nhằm hỗ trợ quản lý khả năng chi trả và thanh khoản. Về
nguyên tắc, nếu TCTD đã đảm bảo tỉ lệ khả năng chi trả, khả năng thanh khoản thì
sẽ bảo đảm an toàn, không cần thiết phải quy định tỉ lệ này. Tuy nhiên, trong điều
kiện Việt Nam hiện nay, khi các TCTD trong nước chưa có đầy đủ công nghệ,
kinh nghiệm, trình độ quản lý vấn đề này thì cần thiết phải bổ sung tỉ lệ trên để hỗ
trợ quản lý khả năng chi trả, bảo đảm an toàn hệ thống. Đối với ngân hàng được
sử dụng 80% nguồn vốn huy động để cấp tín dụng, đối với TCTD phi ngân hàng
là 85%.
1.3.3. Tiêu chí về giới hạn đầu tư TSCĐ, đầu tư tài chính dài hạn
Giới hạn về góp vốn, mua cổ phần để đảm bảo tránh ngân hàng mở rộng
hoạt động sang các lĩnh vực phi tài chính cũng như hạn chế hoạt động đầu tư (cả

gián tiếp và trực tiếp) của ngân hàng do bản chất nguồn vốn huy động (với tỷ
trọng lớn là tiền gửi) có tính ngắn hạn.
Tương tự như quy định tại Quyết định số 457 và Quyết định số 34 sửa đổi
bổ sung Quyết định số 457 quy định:
TCTD chỉ được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần.
Mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD trong một doanh nghiệp, quỹ đầu tư dự
án đầu tư, TCTD khác không được vượt quá 11% vổn điều lệ của doanh nghiệp,
quỹ đầu tư, dự án đầu tư, TCTD khác đó, trừ trường hợp góp vốn, mua cổ phần
thành lập công ty trực thuộc theo quy định của pháp luật.
Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD và các công ty con, công ty
liên doanh, công ty liên kết của TCTD trong cùng một doanh nghiệp, quỹ đầu tư,
dự án đầu tư, TCTD khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh
nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, TCTD khác đó.
Tổng mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD: Trong tất cả các doanh nghiệp,
quỹ đầu tư, dự án đầu tư, TCTD khác và góp vốn, mua cổ phần của công ty trực
thuộc của TCTD không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của TCTD,
trong đó tổng mức góp vốn, mua cổ phần của TCTD vào các công ty trực thuộc
không được vượt quá 25% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của TCTD.
TCTD góp vốn, mua cổ phần vượt quá Tỉ lệ quy định trên phải được
7
NHNN chấp thuận trước bằng văn bản.
1.3.4. Tiêu chí về khả năng chi trả
Khả năng chi trả là một tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng và sự an
toàn trong quá trình hoạt động của một ngân hàng. Khả năng chi trả của ngân
hàng là khả năng có đủ thanh khoản khi xảy ra rủi ro xuất phát từ sự mất cân đối
về kỳ hạn, nguồn vốn và sử dụng vốn.
Để đảm bảo khả năng chi trả, ngân hàng phải duy trì được một tỉ lệ tài sản
có nhất định dưới dạng tài sản có tính lỏng, đặc biệt là các tài sản có tính thanh
khoản cao như tiền mặt, tiền gửi ở NHTW và các công cụ dự trữ thanh khoản
khác. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải chú trọng nâng cao chất lượng các tài

sản có, xây dựng danh mục tài sản hợp lý, có khả năng chuyển hoá thành tiền
nhanh chóng và thu hồi nợ đúng hạn để đáp ứng yêu cầu chi trả cho khách hàng
hoặc thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết.
Thực tế chỉ ra rằng, những ngân hàng thiếu hụt khả năng chi trả là biểu hiện
của tình trạng không lành mạnh, ngân hàng đang gặp khó khăn, rất dễ rơi vào
nguy cơ bị ồ ạt rút tiền của công chúng, nghiêm trọng hơn có thể làm sụp đổ
ngân hàng và tác động xấu đến cả hệ thống. Chính vì vậy, khả năng chi trả trở
thành thước đo quan trọng về tính hiệu quả, uy tín và mức độ an toàn của mỗi
ngân hàng cũng như toàn hệ thống ngân hàng.
Khác với Quyết định số 457, Thông tư số 13 yêu cầu TCTD phải thành lập
một bộ phận quản lý tài sản Nợ, tài sản Có, xây dựng quy định nội bộ về quản lý
khả năng chi trả, có phân cấp ủy quyền, quy trình quản lý, theo dõi, đo lường
đánh giá, cảnh báo sớm đối với Tỉ lệ khả năng chi trả, Đặc biệt, yêu cầu TCTD
phải xây dựng mô hình đánh giá, thử nghiệm (stress test) về khả năng chi trả.
Quy định nội bộ về quản lý khả năng chi trả phải được HĐQT thông qua và
phải được rà soát, xem xét sửa đổi, bổ sung tối thiểu 6 tháng một lần hoặc theo
yêu cầu của NHNN. Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quy định nội bộ
về quản lý khả năng chi trả, khả năng thanh khoản được ngân hàng nước ngoài
phê duyệt.
Cuối mỗi ngày, TCTD phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo các Tỉ
lệ về khả năng chi trả cho ngày hôm sau như sau:
- Tỉ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản "Có" thanh toán ngay và tổng
8
Nợ phải trả.
- Tỉ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7
ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán
trong 7 ngày tiếp theo kể từ ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam, đồng
Euro, đồng Bảng Anh và đồng đô la Mỹ (bao gồm đồng đô la Mỹ và các
ngoại tệ khác còn lại được quy đổi sang đô la Mỹ theo tỷ giá liên ngân hàng
cuối mỗi ngày).

Trên cơ sở kết quả bảng theo dõi, quản lý kỳ hạn thanh toán và tính toán
các tỉ lệ về khả năng chi trả, trường hợp cuối mỗi ngày không đảm bảo các tỉ lệ
quy định, TCTD phải có các biện pháp xử lý, kể cả việc vay từ các TCTD khác
để hỗ trợ khả năng chi trả, đảm bảo đáp ứng các tỉ lệ về khả năng chi trả cho
ngày hôm sau theo quy định; đồng thời báo cáo ngay NHNN về các biện pháp
xử lý. Sau khi đã áp dụng các biện pháp xử lý nêu trên mà TCTD tiếp tục gặp
khó khăn hoặc có rủi ro về khả năng chi trả, ảnh hưởng đến khả năng thanh
khoản TCTD phải báo cáo ngay NHNN. NHNN được áp dụng các biện pháp cần
thiết để xử lý đối với TCTD gặp khó khăn và có rủi ro về khả năng chi trả, khả
năng thanh khoản.
1.3.5. Tiêu chí về phân loại nợ vay và trích lập dự phòng rủi ro
Phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro để đánh giá chất lượng tài sản “Có”,
có bổ sung quản lý, điều chỉnh cơ cấu danh mục đầu tư hợp lý - đảm bảo trích
lập dự phòng đầy đủ nguồn tài chính để bù đắp các tổn thất, xác định năng lực,
mức độ lành mạnh về tài chính của các TCTD.
Ngày 22/4/2005, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định số 493/2005/QĐ -
NHNN quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, quy định các TCTD
hoạt động tại Việt Nam, trừ Ngân hàng Chính sách xã hội (Quyết định số 493);
Ngày 25/4/2007, Thống đốc NHNN ban hành Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN
về việc sửa đổi bổ sung một số Điều của Quyết định số 493, quy định TCTD
phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
tín dụng trong hoạt động ngân hàng, cụ thể:
Về phân loại nợ: ít nhất mỗi quý một lần, trong thời hạn 15 ngày làm việc
đầu tiên của tháng tiếp theo, TCTD thực hiện phân loại nợ gốc và trích lập dự
phòng rủi ro đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của quý (tháng) trước.
9
Riêng đối với quý IV, trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng 12,
TCTD thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đến thời điểm
cuối ngày 30 tháng 11. Đối với các khoản nợ xấu (NPL), TCTD phải thực hiện
việc phân loại nợ, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng trên cơ sở hàng

tháng để phục vụ cho công tác quản lý chất lượng và rủi ro tín dụng.
TCTD phải xây dựng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ cho việc
phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình
hình thực tế của TCTD.
Các TCTD có thể phân loại nợ theo phương pháp định lượng như nợ trong
hạn có khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn không, nợ đã quá hạn bao nhiêu
ngày, đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ chưa (Điều 6) hoặc theo phương pháp định
tính, trên cơ sở chính sách dự phòng rủi ro đã được NHNN chấp thuận (Điều 7),
TCTD thực hiện phân loại nợ theo năm nhóm: nhóm 1- nợ đủ tiêu chuẩn; nhóm
2 - nợ cần chú ý; nhóm 3 - nợ dưới tiêu chuẩn; nhóm 4 - nợ nghi ngờ

và nhóm 5
- nợ có khả năng mất vốn.
Hàng năm, TCTD phải đánh giá lại hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và
chính sách dự phòng rủi ro cho phù hợp với tình hình thực tế và các quy định của
pháp luật.
Về trích lập dự phòng rủi ro: Trên cơ sở phân loại nợ, TCTD phải trích lập
dự phòng rủi ro cụ thể như sau: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 5%; Nhóm 3: 20%;
Nhóm 4: 50%; Nhóm 5: 100%.
Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, TCTD trích lập dự
phòng cụ thể theo khả năng tài chính của TCTD. TCTD thực hiện trích lập và duy
trì dự phòng chung bằng 0,75 % tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến
nhóm 4.
Về sử dụng dự phòng rủi ro
Quyết định số 493 quy định các trường hợp được sử dụng quỹ dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng đối với các khoản nợ trong các trường hợp sau đây:
Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo quy định của
pháp luật; cá nhân bị chết hoặc mất tích.
Các khoản nợ thuộc nhóm 5: Riêng các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử
lý, TCTD được sử dụng dự phòng (nếu có) để xử lý rủi ro tín dụng.

10
TCTD thực hiện việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng một quý
một lần. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo những nguyên tắc: Sử dụng
dự phòng cụ thể quy định để xử lý rủi ro tín dụng đối với khoản nợ đó, Phát mại
tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, trường hợp phát mại tài sản không đủ bù đắp cho
rủi ro tín dụng của khoản nợ thì được sử dụng dự phòng chung để xử lý đủ.
Việc TCTD sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng không phải là xoá nợ
cho khách hàng. Sau khi đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, TCTD phải
chuyển các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng từ hạch toán nội bảng ra hạch
toán ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có các biện pháp để thu hồi nợ triệt để.
1.3.6. Tiêu chí về tổ chức quản lý, điều hành
Một yếu tố quyết định hiệu quả kinh doanh và sự an toàn của ngân hàng là
năng lực và chất lượng quản lý. Quản lý ngân hàng là tạo ra hệ thống các hoạt
động thống nhất, phối hợp và liên kết các quá trình lao động của các cán bộ nhân
viên từ các phòng ban đến hội đồng quản trị trong ngân hàng, nhằm đạt được
mục tiêu kinh doanh ở mỗi thời kỳ đã xác định, trên cơ sở giảm thiểu các chi phí
về nguồn lực. Nói đến chất lượng và năng lực quản lý là nói đến yếu tố con
người trong bộ máy quản lý và hoạt động, thể hiện ở các nội dung:
- Đề ra được các chính sách kinh doanh đúng đắn và có hiệu quả;
- Xây dựng các thủ tục quản lý, điều hành các quy trình nghiệp vụ hợp lý,
sát thực và đúng pháp luật;
- Tạo lập được cơ cấu tổ chức hợp lý, vận hành hiệu quả;
- Giảm thiểu rủi ro về đạo đức trong hệ thống quản lý.
Ngoài ra, chất lượng và năng lực quản lý còn thể hiện ở khả năng nắm bắt
kịp thời những tình huống bất lợi, nhận biết sớm các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn đe
dọa sự an toàn của ngân hàng để đưa ra những biện pháp đối phó kịp thời. Chất
lượng quản lý cuối cùng được phản ánh ở tình hình tuân thủ đầy đủ luật pháp
cũng như các quy chế hoạt động, hiệu quả kinh doanh và mức lợi nhuận thu
được tăng lên, duy trì được khả năng thanh toán, sức cạnh tranh và vị thế của
ngân hàng trên thị trường ngày một nâng cao, ngân hàng luôn phát triển bền

vững trước những biến động trong và ngoài nước.
Các quy định về cơ cấu tổ chức, quyền hạn và trách nhiệm của HĐQT/
11
HĐTV, BKS, Ban điều hành (Tổng giám đốc) của TCTD để hạn chế sự lạm
quyền, tập trung quyền lực quá mức trong việc quản trị, điều hành TCTD. Bên
cạnh đó, còn có các quy định định về kiểm toán nội bộ và hệ thống kiểm soát nội
bộ theo các nguyên tắc đảm bảo an toàn, tránh hiện tượng thông tin không cân
xứng, xung đột lợi ích và hành vi gây tổn hại cho hoạt động của TCTD.
1.3.7. Tiêu chí về bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một Tổ chức tài chính do Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập; nhà nước cấp vốn điều lệ, hoạt động không vì mục tiêu
lợi nhuận. Chức năng của BHTGVN là “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự phát
triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng”.
Bảo hiểm tiền gửi là công cụ bảo vệ một phần hoặc toàn bộ tiền gửi của
người gửi tiền tại TCTD nhằm duy trì lòng tin của người gửi tiền, công chúng
vào hệ thống TCTD - một yếu tố cơ bản duy trì sự ổn định cho hoạt động của hệ
thống ngân hàng. Trên thực tế, công cụ này được tổ chức, thực hiện rất khác
nhau ở các nước, phụ thuộc vào đặc thù của từng hệ thống ngân hàng. Ví dụ,
nhiều quốc gia thiết lập “tổ chức bảo hiểm tiền gửi” chuyên biệt với chức năng
bảo vệ lợi ích của người gửi tiền nhỏ, thường là dân chúng thông qua việc chi trả
cho người gửi tiền một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi tại ngân hàng trong trường
hợp ngân hàng không có đủ khả năng, tiền mặt đáp ứng nhu cầu rút tiền của
người gửi tiền. Trong khi đó, một số quốc gia khác không thành lập “tổ chức bảo
hiểm tiền gửi” mà sử dụng công cụ “bảo hiểm tiền gửi” dưới hình thức ngân
hàng Trung ương hoặc Chính phủ sẽ tuyên bố đảm bảo hoàn trả tiền gửi cho
người gửi tiền khi ngân hàng nào đó không có khả năng hoàn trả tiền gửi của
khách hàng.
Nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi, thực hiện
chính sách của Nhà nước về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi

tiền, ngày 18/06/2012 vừa qua, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Bảo hiểm
tiền gửi số 06/2012/QH13.
Theo đó, ngoại trừ các ngân hàng chính sách, tất cả các tổ chức tín dụng và
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt nam đều phải tham gia
bảo hiểm tiền từ ngày 01/01/2013.
12
Tiền gửi được bảo hiểm phải bằng đồng Việt Nam và không thuộc sở hữu
của các cá nhân là thành viên Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi hoặc người nắm giữ trên 5% vốn điều lệ của tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó.
Mức phí bảo hiểm tiền gửi do Thủ tướng Chính phủ quy định theo đề nghị
của Ngân hàng Nhà nước dựa trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân của tiền gửi
được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và được nộp định kỳ hàng
quý trong năm tài chính.
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm thời hạn nộp phí bảo hiểm tiền
gửi theo quy định tại nêu trên này, thì ngoài việc phải nộp đủ số phí còn thiếu
phải chịu phạt mỗi ngày nộp chậm bằng 0,05% số tiền nộp chậm. Trường hợp tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không nộp hoặc nộp không đầy đủ phí bảo hiểm
tiền gửi theo quy định của pháp luật, thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi đó phải có
văn bản đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đình chỉ hoặc tạm đình chỉ hoạt
động nhận tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Luật Bảo hiểm tiền gửi chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013.
1.3.8. Dấu hiệu mất an toàn hệ thống và vai trò của NHTW trong trường hợp
rủi ro hệ thống
Dấu hiệu mất an toàn hệ thống ngân hàng là tình trạng diễn ra khi các
khách hàng đồng loạt rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng. Vì ngân hàng cho vay phần
lớn số tiền gửi vào nên khi khách hàng đồng loạt rút tiền, sẽ rất khó để các ngân
hàng có khả năng hoàn trả các khoản nợ. Sự rút tiền ồ ạt có thể dẫn tới sự phá
sản của ngân hàng, khiến nhiều khách hàng mất đi khoản tiền gửi của mình, trừ

phi họ được bồi thường nhờ bảo hiểm tiền gửi. Nếu việc rút tiền ồ ạt lan rộng sẽ
gây ra khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống. Cũng có thể hiện tượng trên
không lan rộng, nhưng lãi suất tín dụng được tăng lên (để huy động vốn) do lo
ngại về sự thiếu hụt trong ngân sách.
Hành lang pháp lý liên quan đến việc xử lý ngân hàng có vấn đề mới được
điều chỉnh bởi các quy định về kiểm soát đặc biệt các TCTD đang trong tình
trạng khó khăn được thực hiện căn cứ Luật các TCTD và Thông tư số
13
08/2010/TT-NHNN ngày 22/3/2010.
Quy định về vấn đề sáp nhập, hợp nhất, tổ chức lại các TCTD được thực
hiện căn cứ Luật các TCTD và Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 19/2/2010
hướng dẫn việc sáp nhập, hợp nhất của TCTD.
Quy định của Luật Các TCTD năm 2010 và Thông tư số 08 nêu trên đã đưa
ra các tiêu chí cụ thể xác định trường hợp TCTD được đặt dưới sự kiểm soát đặc
biệt của NHNN. Cụ thể, NHNN xem xét, đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc
biệt khi TCTD lâm vào một trong những trường hợp sau:
- Có nguy cơ mất khả năng chi trả: 03 lần liên tiếp không đảm bảo Tỉ lệ tối
thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” có thể thanh toán ngay trong khoảng thời
gian 7 ngày tiếp theo và tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay trong thời gian 7
ngày tiếp theo đối với từng loại đồng tiền, vàng;
- Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ mất khả năng thanh toán: Nợ
xấu chiếm từ 10% trở lên so với tổng dư nợ cho vay hoặc từ 100% tổng vốn tự
có trở lên trong vòng 3 tháng liên tiếp;
- Số lỗ lũy kế của TCTD lớn hơn 50% tổng giá trị thực có của vốn điều lệ
và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính được kiểm toán gần nhất;
- Hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của NHNN;
- Không duy trì được Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu trong thời gian liên tục 1
năm hoặc Tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu dưới 4% liên tục trong vòng 6 tháng.
Ngoài ra, quy định hiện hành cũng quy định rõ trong quá trình quản lý,
thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động hoặc qua báo cáo của TCTD, nếu thấy

TCTD lâm vào tình trạng kiểm soát đặc biệt hoặc vi phạm nghiêm trọng các quy
định của pháp luật về hoạt động ngân hàng hoặc các trường hợp khác dẫn đến
tình trạng TCTD hoạt động không an toàn thì Thống đốc NHNN có quyền áp
dụng các biện pháp giám sát đặc biệt đối với TCTD đó.
Nhằm xử lý các TCTD có vấn đề hoặc để khuyến khích các TCTD nâng cao
năng lực cạnh tranh, việc ban hành quy định về sáp nhập, hợp nhất các TCTD đã
tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các TCTD khi lựa chọn giải pháp trên.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống NHTM
1.4.1. Nhân tố bản thân mỗi NHTM về khả năng cạnh tranh và phát triển
Năng lực cạnh tranh của ngân hàng là khả năng do chính ngân hàng tạo ra
14
trên cơ sở duy trì và phát triển những lợi thế vốn có, nhằm củng cố và mở rộng
thị phần; gia tăng lợi nhuận. Năng lực cạnh tranh cũng thể hiện khả năng của
ngân hàng trong việc chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi
trường kinh doanh. Năng lực cạnh tranh của NHTM được đánh giá qua các yếu
tố: năng lực tài chính; năng lực công nghệ; nguồn nhân lực; năng lực quản lý
điều hành; mạng lưới hoạt động; mức độ đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh.
1.4.1.1. Về năng lực tài chính
Năng lực tài chính của NHTM không những thể hiện sức mạnh tài chính
hiện tại của NHTM mà còn thể hiện sức mạnh tài chính tiềm năng, triển vọng và
xu hướng phát triển trong tương lai của NHTM đó. Năng lực tài chính của
NHTM phải hiểu khác với năng lực tài chính của một doanh nghiệp. Năng lực tài
chính của một doanh nghiệp là nguồn lực tài chính của bản thân doanh nghiệp, là
khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán
thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời đủ để đảm bảo
và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường. Trong khi đó, năng
lực tài chính của một NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát
sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mô vốn
tự có, chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn, khả năng sinh lời và khả năng
đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh.

Quy mô vốn tự có: Vốn tự có cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng
trưởng, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động cũng như cho sự phát triển của các
sản phẩm dịch vụ mới của NHTM. Vốn tự có có chức năng bảo vệ NHTM, giúp
NHTM chống lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ;
Bảo vệ người gửi tiền khi gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh từ đó nâng cao
uy tín của NHTM với khách hàng, các nhà đầu tư.
Chất lượng tài sản: là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về
tài chính, năng lực quản lý của một tổ chức tín dụng. Hầu hết rủi ro trong kinh
doanh tiền tệ đều tập trung ở tài sản có. Tài sản có bao gồm: tài sản sinh lời
chiếm từ 80 - 90% tổng tài sản có (gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính và
các khoản đầu tư vào giấy tờ có giá chứng khoán, góp vốn liên doanh liên kết )
và tài sản không sinh lời chiếm từ 10-20% tổng tài sản có. Nâng cao chất lượng
tài sản, chất lượng nguồn vốn cũng chính là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
15
doanh của NHTM. Để đánh giá khả năng sinh lời của NHTM - người ta thường
sử dụng các chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tài sản có (ROA); chỉ tiêu lợi nhuận
ròng trên vốn tự có (ROE) hoặc chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên doanh thu.
Bảo đảm an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh là đảm bảo khả năng
thanh toán là khả năng sẵn sàng chi trả, thanh toán cho khách hàng của NHTM
và khả năng bù đắp những tổn thất khi xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Năng lực tài chính của NHTM càng được đảm bảo thì mức độ rủi ro trong
hoạt động ngân hàng càng thấp và năng lực cạnh tranh của NHTM trên thị trường
càng cao. Do vậy, năng lực tài chính của NHTM phải không ngừng được nâng cao
và hoàn thiện và là điều kiện không thể thiếu được bất cứ một NHTM nào.
1.4.1.2. Về năng lực quản lý, điều hành
Quản lý ngân hàng lành mạnh là yếu tố quyết định sự thành công của một
ngân hàng. Quản lý ngân hàng tạo ra một cấu trúc thông qua đó các mục tiêu của
ngân hàng được đặt ra, các phương thức để đạt được mục tiêu và để giám sát kết
quả hoạt động của ngân hàng được xác lập. Quản lý lành mạnh phải tạo ra động
lực để HĐQT, Ban điều hành theo đuổi các mục tiêu vì lợi ích của ngân hàng,

của cổ đông và phải tạo ra cơ chế giám sát hiệu quả. Quản lý ngân hàng hiệu quả
khi được cơ cấu bởi các thành viên có năng lực, trình độ chuyên môn, có uy tín
và kinh nghiệm phù hợp.
1.4.1.3. Về trình độ công nghệ và nhân lực
Về công nghệ:
Công nghệ ảnh hưởng tới mọi hoạt động của ngân hàng, từ hoạt động kinh
doanh đến công tác quản lý rủi ro, quản lý vốn và tài sản, quản lý công nợ và
công tác kế toán
Phát triển công nghệ ngân hàng (ứng dụng công nghệ hiện đại, phát triển
các giao dịch ngân hàng điện tử ) luôn được xem là khâu đột phá quan trọng
trong hoạt động ngân hàng, giúp hệ thống đổi mới nhanh hơn, các dịch vụ cạnh
tranh tốt hơn và hạn chế thấp nhất các rủi ro. Công nghệ chính là nhân tố thúc
đẩy dịch vụ ngân hàng phát triển về số lượng và chất lượng, cải thiện các tiện ích
và tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn cho người tiêu dùng, nhờ đó gia tăng khả năng
cạnh tranh của ngân hàng.
Về nhân lực:
Hệ thống ngân hàng tồn tại trên cơ sở quản lý rủi ro và duy trì niềm tin từ
16
công chúng, do đó nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng. Ngành công
nghiệp tài chính rất chú ý đến việc phân tích, đánh giá, dự báo và cảm nhận về
rủi ro cũng như cơ hội đi kèm với việc luân chuyển các dòng vốn. Vì hiệu quả
thị trường chỉ tồn tại trên lý thuyết nên việc xử lý thông tin phải đi qua “lăng
kính” năng lực của con người. Mọi sự thành công của hệ thống ngân hàng đều
xuất phát từ yếu tố con người.
1.4.1.4. Về hệ thống mạng lưới, chi nhánh
Mạng lưới rộng thể hiện khả năng phát triển, khả năng cung ứng dịch vụ và
khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, một mạng lưới hoạt
động ngân hàng phân bổ bất hợp lý, quá dày đặc tại một số địa bàn nhất định, dễ
dẫn đến tình trạng nhiều vùng địa lý không tiếp cận được các dịch vụ ngân hàng,
trong khi đó, tại các địa bàn với mật độ mạng lưới ngân hàng quá dày đặc, tình

trạng cạnh tranh trở nên khốc liệt, tác động tiêu cực đến khả năng sinh lời của
các ngân hàng, hạn chế năng lực cạnh tranh của hệ thống.
1.4.2. Nhân tố bên ngoài
1.4.2.1. Chính sách tiền tệ và quản lý của NHTW
Để nghiên cứu tác động của Chính sách tiền tiền tệ cần tìm hiểu một số
công cụ của Chính sách tiền tệ và cơ chế tác động của chúng.
Công cụ tái cấp vốn: Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối
với các NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, NHTW đã tăng lượng
tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho NHTM tạo bút tệ và khai thông khả năng
thanh toán của họ.
Công cụ tỉ lệ dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc, hay tỉ lệ dự trữ bắt buộc là
một quy định của NHTW về tỉ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các NHTM bắt
buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Công cụ dự trữ bắt buộc được
sử dụng để nâng cao khả năng kiểm soát tiền tệ của NHTW và tạo điều kiện cho
các TCTD sử dụng vốn linh hoạt và hiệu quả. Khi NHTW tăng tỉ lệ dự trữ bắt
buộc các NHTM phải đối mặt với chi phí vốn cao. Xét về lâu dài, nếu NHTW sử
dụng công cụ dự trữ bắt buộc để điều chỉnh lượng tiền trong nền kinh tế nhằm
kiểm soát lạm phát sẽ khiến cho hoạt động kinh doanh của các NHTM không ổn
định, việc quản lý thanh khoản của các NHTM sẽ gặp khó khăn hơn.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Là hoạt động mua bán giấy tờ có giá
17

×