Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Khảo sát sắc phong tại huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.7 KB, 110 trang )

MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài.
Ai đi vô nơi đây, xin dừng chân xứ Nghệ
Ai đi ra nơi đây, xin chân dừng xứ Nghệ
Nghe câu hò ví dặm càng lắng lại càng sâu
Như sông Lam chảy chậm đọng bao thuở vui sầu…
Câu mời gọi mà nhạc sĩ Phạm Tuyên viết trong ca khúc “Ai vô xứ
Nghệ” đã gợi lên trong ta những cảm xúc đầu tiên mà sâu lắng về xứ Nghệ -
mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra những nhân tài đất Việt, những
cá nhân kiệt xuất cho bao đời.
Xứ Nghệ không chỉ được biết đến với những địa danh như Phượng
Hoàng Trung Đô, Lam thành sơn, núi Hồng sông Lam… mà xứ Nghệ còn
được mọi người biết đến bởi con người nơi đây thuần phác, đơn giản mà
hiếu học. Từ những thứ thật bình dị như: nhút Thanh Chương, tương Nam
Đàn, con cá gỗ, vại cà muối, những củ khoai lang, ấm nước chè xanh … mà
nơi đây đã có biết bao nhiêu nhân tài kiệt xuất, bao nhiêu anh hùng dân tộc
nổi danh ngàn đời.
Nhắc đến xứ Nghệ người ta còn nhắc đến mảnh đất của những điệu
dân ca ngọt ngào sâu lắng, vùng đất của những lễ hội, hát phường vải, hát ca
trù, hát ví dặm… của những điệu hò say đắm lòng người. Ở nơi đây có hàng
chục lễ hội gắn liền với các danh lam thắng cảnh như lễ hội đền Hoàng
Mười, lễ hội đua thuyền ở Lam thành sơn, lễ hội đền Cuông, lễ hội đền vua
Mai,… những phong tục, những tập quán đẹp đẽ trên mảnh đất này đã hun
đúc lên con người nơi đây có truyền thống hiếu học, anh dũng kiên cường
trong chiến đấu và cần cù trong lao động.

1
Dù hiện nay Nghệ An đang dần vươn mình để hội nhập vào nền kinh
tế của cả nước và nền kinh tế thế giới, nhưng cái “thuần, giản, mà hiếu học”
[5, tr.214] vẫn luôn là tính chất bao đời nay của người dân nơi đây. Từ xa
xưa, các cụ đồ Nghệ đã nuôi chí lớn học cao đỗ đạt để làm rạng danh quê


hương dòng tộc, vốn Nho học đồ sộ mà các cụ để lại hiên nay tuy được ít
người biết đến nhưng nó vẫn được tôn trọng và lưu giữ, những tài liệu Hán –
Nôm trên địa bàn mà đặc biệt là những văn bản sắc phong hiện còn là
những thứ tài liệu quý giá, nó là cơ sở để đánh giá nền văn hóa không chỉ
của dòng tộc, của riêng địa phương mà nó còn đánh giá được sự hưng thịnh
của mỗi triều đại, của cả dân tộc. Chính vì thế việc sưu tầm và tìm hiểu
những văn bản sắc phong trên mảnh đất này là một việc cần được quan tâm
giúp đỡ. Do điều kiện và nhiều hạn chế nên tôi chỉ xin chọn khảo sát các văn
bản sắc phong trên địa bàn huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Khảo sát sắc phong trên địa bàn huyện Hưng Nguyên là một công
việc rất quan trọng trong việc bảo vệ một phần di sản văn hóa dân gian của
một vùng quê xứ Nghệ. Hiện nay các văn bản sắc phong trên đất Hưng
Nguyên có niên đại khá lâu từ vài chục năm cho đến vài trăm năm, vẫn còn
nằm rải rác trong dân gian. Trên địa bàn này, tùy ý thức của mỗi người dân,
mỗi dòng họ mà các văn bản sắc phong được lưu giữ hay hư hỏng, mất mát.
Chính vì thế việc khảo sát sắc phong trên mảnh đất Hưng Nguyên ngoài việc
giúp cho các làng, các dòng họ lưu giữ lại được những hình ảnh và nội dung
của các bản sắc phong, đề tài còn đi sâu tìm hiểu nội dung, các vấn đề liên
quan đến những vị được cấp sắc, việc thờ cúng, tế lễ trong các làng xã, dòng
họ.
Bên cạnh những nét văn hóa đặc trưng của xứ Nghệ, những đạo sắc
phong trên mảnh đất Hưng Nguyên cũng là một nét văn hóa tinh thần cần
được mọi cấp, ngành và mỗi người dân quan tâm để nó không bị mai một
theo thời gian. Đề tài “Khảo sát sắc phong tại huyện Hưng Nguyên tỉnh
Nghệ An”cũng không nằm ngoài những mục đích đó.

2
2. Lịch sử vấn đề.
Trước đây Sở VHTT tỉnh Nghệ An cũng đã khảo sát qua các nhà thờ
lớn để lập hồ sơ và công nhận di tích. Thế nhưng chỉ được một số ít còn

những văn bản sắc phong trong các dòng họ nhỏ thì hầu như vẫn rất ít người
biết đến. Hiện nay câu lạc bộ Hán – Nôm huyện Hưng Nguyên cũng đang
mở đợt khảo sát tất cả các văn bản hiện có trên địa bàn. Thế nhưng công
việc mới chỉ bắt đầu chưa qua xử lý và công bố. Vì vậy đề tài này có thể coi
là đề tài mới mẻ khi đi sâu khảo sát về các văn bản sắc phong trên địa bàn.
Trong bài viết người viết trên tinh thần kế thừa mốt số tư liệu của
người đi trước nhưng cũng bổ sung vào những phần mà các văn bản còn
thiếu sót, cố gắng đạt tới tính chân thực cao nhất trong giới hạn cho phép.
Tuy nhiên khóa luận này cũng chưa phải là nguồn tư liệu đầy đủ nhất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Theo thống kê của PGS Ninh Viết Giao trong sách Tục thờ thần và
thần tích Nghệ An (2000) thì trên địa bàn huyện Hưng nguyên có khoảng
trên 150 đền, miếu phủ đình và nhà thờ. Còn theo thống kê của UBND
huyện Hưng Nguyên thì trước đây trên địa bàn huyện có khoảng 250 di tích
nhưng đến 2006 thì trên địa bàn chỉ còn lại 61 di tích. Hầu hết các di tích
này đều đang giữ lại những tư liệu Hán – Nôm quý giá như gia phả, văn tế,
hương ước, hoành phi, câu đối, địa bạ, thần tích, văn bia, sắc phong…Thế
nhưng qua thời gian, điều kiện thời tiết và ý thức bảo quản của mỗi người
dân, mỗi dòng họ mà hiện nay các văn bản Hán – Nôm trên địa bàn bị mai
một mà đặc biệt là những văn bản sắc phong quý giá còn lại rất ít. Vì thế
nên chúng tôi chọn 10 di tích còn giữ lại được những văn bản sắc phong là:
nhà thờ Đinh Bạt Tụy, đình làng Bùi Ngõa, nhà thờ Lê Sĩ Triệt, nhà thờ họ
Nguyễn Trọng, nhà thờ Trạng nguyên Bạch Liêu, nhà thờ họ Ngô, đền thờ

3
Thánh Vương Bạch Đế, đền thờ đức thánh Khổng Lồ, nhà thờ họ Hoàng ,
đền Xuân Hòa.
Sắc phong tại các di tích trên là đối tượng mà đề tài nghiên cứu, còn
10 nhà thờ và đền thờ trên là phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu.

Để thực hiện tốt đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp điền dã thực tế.
- Phương pháp tổng hợp thống kê.
- Phương pháp xác định văn bản học.
- Phương pháp dịch thuật Hán Việt
- Các phương pháp so sánh niên đại, lịch đại, loại suy và phương pháp
phân tích tổng hợp để tìm hiểu các vấn đề liên quan đến các nhân vật, vị
thần, thủy tổ hiện thờ trong các nhà thờ trên địa bàn huyện Hưng Nguyên
5. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về vùng đất Hưng Nguyên và nền giáo dục cổ.
Chương 2: Khái quát sắc phong tại huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ
An.
Chương 3: Phiên âm, dịch nghĩa các văn bản sắc phong tại huyện
Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An.

4
NỘI DUNG
Chương 1:
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT
HƯNG NGUYÊN VÀ NỀN GIÁO DỤC CỔ
1.1. Vị trí địa lý và tự nhiên.
Theo ông Lê Thái Hòa, Bí thư huyện ủy, Chủ tịch Hội Đồng nhân dân
huyện Hưng Nguyên trong lời mở đầu cho cuốn sách Địa Chí Văn Hóa
Hưng Nguyên thì Hưng Nguyên được hiểu là “cái nguồn nước từ đó mà chảy
mãi, càng chảy càng phát triển, càng phấn chấn, càng thịnh vượng”.
Nằm ở hạ lưu sông Lam, Hưng Nguyên là mảnh đất gắn bó hữu cơ
với xứ Nghệ với đất nước Việt Nam qua mấy nghìn năm lịch sử. Đây là một
vùng đồng bằng trù phú hưng thịnh, là nơi khởi đầu cho phong trào cách

mạng Xô Viết - Nghệ Tĩnh, là quê hương của nhiều nhân vật lịch sử nổi
tiếng. Hưng Nguyên đã mang trong mình những nét truyền thống văn hóa
lâu đời đẹp đẽ và phong phú của vùng đất Nghệ - Tĩnh nói riêng và cả dân
tộc Việt Nam nói chung. Không những thế, nó còn mang trong mình cái nét
riêng huyền diệu của một vùng quê nghèo xứ Nghệ.
Với tọa độ: 18
0
48’ đến 18
0
34’ vĩ bắc và 105
0
33’ đến 105
0
42’5” kinh
đông. Phía tây giáp với Nam Đàn, phía bắc giáp với Nghi Lộc, phía đông
giáp với thành phố Vinh và Nghi Xuân (Hà Tĩnh), phía nam giáp với Đức
Thọ (Hà Tĩnh). Huyện Hưng Nguyên nằm ở trung tâm xứ Nghệ, có vị trí
cửa ngõ phía Tây thành phố Vinh, nằm trên quốc lộ 46 đi lên quê hương
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lên cửa khẩu Thanh Thủy, nơi có đường sắt Bắc –
Nam đi qua, có dòng sông Lam xanh mát bao vòng từ xã Hưng Lĩnh đến xã

5
Hưng Lợi. Vị trí này đã giúp cho Hưng Nguyên thuận tiện trong việc giao
lưu văn hóa, kinh tế, chính trị với các vùng trong cả nước.
Là một vùng đồng bằng rộng lớn với diện tích đất tự nhiên là 16
398,57 ha, đây là vùng đất đai tương đối màu mỡ, dân cư đông đúc, điều
kiện tự nhiên thuận lợi vì có dòng sông Lam bao bọc, bồi đắp phù sa và có
đê 42 ngăn lũ. Địa hình của Hưng Nguyên thấp trũng, thấp dần từ tây sang
đông, độ cao trung bình của vùng là từ 1,5 đến 2 m, nơi cao nhất là 3m và
nơi thấp nhất là 0,6m. Ở đây ảnh hưởng bởi khí hậu nhiệt ẩm gió mùa và khí

hậu ven biển miền Trung đã tạo nên một vùng đất Hưng Nguyên hiền hòa
chất phác mang đậm chất xứ Nghệ.

1.2. Danh xưng Hưng Nguyên.
Danh xưng Hưng Nguyên không phải đã có từ ngày đầu dựng nước
và giữ nước mà cho đến nay thì cái tên gọi Hưng Nguyên mới được 541
năm
(1)
. Tuy thế, nhưng ngay từ những ngày đầu thì địa danh này đã có duyên
cách hành chính lúc rộng lúc hẹp với những tên gọi khác nhau. Nhìn lại lịch
sử từ buổi đầu dựng nước ta sẽ thấy rõ điều đó.
Nhà nước đầu tiên của đất nước ta là Văn Lang do 18 đời Vua Hùng
cai trị. Sau nhà nước Văn Lang là nhà nước Âu Lạc. Năm 179 TCN, Triệu
Đà đã đem quân sang xâm lược nước ta, bằng phương thức giảng hòa rồi lập
kế cầu hôn công chúa Mỵ Châu, với âm mưu là cướp được vũ khí lợi hại của
Âu Lạc. Triệu Đà đã cướp được vũ khí vô cùng lợi hại của Thục Phán An
Dương Vương là chiếc “nỏ thần” làm cho An Dương Vương rơi vào cảnh
mất nước, mất con, mất bản thân mình. Chiếm được mảnh đất phương Nam
này, Triệu Đà sát nhập vào với nước Đại Việt rồi chia làm thành 2 quận là
Giao Chỉ và Cửu Chân để dễ cai trị. Cả xứ Nghệ thuộc vào quận Cửu Chân.
Chú thích:
(1)
Năm 1469 cái tên Hưng Nguyên mới bắt đầu xuất hiện trên bản đồ hành chính.

6
Năm 111 TCN nhà Hán chiếm nước Đại Việt, chia Đại Việt thành 3 quận,
Nghệ An thuộc Cửu Chân, cả Nghệ An và Hà Tĩnh lúc đó là 1 huyện Hàm
Hoan - huyện lớn của quận Cửu Chân.
Đến đời Tam Quốc và Lưỡng Tấn, Hàm Hoan đổi là quận Cửu Đức
đời Nam Bắc triều, nhà Lương chia đất Cửu Đức đặt làm 3 châu: Đức Châu,

Lỵ Châu, Minh Châu. Đời Tùy (581 – 618) năm Khai Hoàng thứ 8 (588)
Tùy Văn Đế, đổi Đức Châu làm Hoan Châu, Lỵ Châu đổi thành Tri Châu,
năm Đại Nghiệp thứ 3 (603) cho cả Hoan Châu, Tri Châu, Minh Châu nhập
vào Nhất Nam. Đến nhà Đường (618 – 907) lúc đầu vẫn gọi cả xứ Nghệ là
Hoan Châu, sau tách một phần bắc của Hoan Châu đặt là Diễn Châu. Diễn
Châu đặt từ năm Trịnh Quán thứ nhất (627) nhưng được một thời gian ngắn
lại bỏ Diễn Châu cho nhập vào Hoan Châu, rồi đến 122 năm sau, năm
Quảng Đức thứ 2 đời Đường Đại Tông (763 – 780) chia lại Hoan Châu và
đặt lại Diễn Châu, đó là đất 3 huyện Diễn, Yên, Quỳnh hiện nay và cả phủ
Quỳ Châu cũ. Hoan Châu là vùng từ Cầu Cấm trở vào Đèo Ngang, theo GS
Đào Duy Anh thì trị sở của nó là vùng núi Lam Thành thuộc huyện Hưng
Nguyên ngày nay. Hưng Nguyên lúc đó thuộc huyện Cửu Đức một trong
bốn huyện của Hoan Châu (Cửu Đức, Phố Dương, Việt Thường, Hoài
Hoan). Trải qua một thời kỳ lịch sử từ Khúc Thừa Dụ, Ngô Quyền, Đinh,
Tiền Lê, đều đã bỏ hẳn chế độ quận huyện.
Đời Lý năm Thiên Thành thứ 3 (1030) vua Lý Thái Tông đổi Hoan
Châu là châu Nghệ An, địa danh Nghệ An có từ đó. Theo sử sách nước ta
đời Lý đã chia nước ta ra làm 24 lộ trong đó có lộ Nghệ An và lộ Diễn
Châu, không thấy nhắc đến các đơn vị hành chính dưới lộ nên ta chưa rõ địa
danh Hưng Nguyên thời đó là gì và địa vực ra sao.
Đời nhà Trần - Hồ, Trần Thái Tông đã đổi 24 lộ đời Lý thành 12 lộ
với tên gọi là phủ lộ. Năm Quang Thái thứ 10 (1397), Hồ Quý Ly làm Phụ
Chính Thái Sư, sửa đổi chế độ hành chính đã đổi lộ phủ sang trấn như đổi
lộ phủ Nghệ An thành trấn Lâm An, Diễn Châu thành trấn Vọng Giang.

7
Điều đáng chú ý là phủ lộ Nghệ An mà sau này trấn Lâm An có huyện
Thượng Lộ mà theo nhiều nhà nghiên cứu thì đó là Hưng Nguyên hiện nay,
huyện Thượng Lộ thuộc đời Minh đổi thành Lộ Bình.
Năm 1428, khi khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn toàn

thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi và chia nước ta thành 5 đạo: Nam đạo, Bắc đạo,
Đông đạo, Hải Tây đạo, Nghệ An và Diễn Châu thuộc vào đạo Hải Tây.
Năm 1469 Lê Thánh Tông ra chỉ dụ điều chỉnh lại bản đồ hành chính trên cả
nước, chia nước ta thành 12 thừa tuyên, nhập Nghệ An và Diễn Châu lại
thành một là thừa tuyên Nghệ An. Thừa tuyên Nghệ An quản lĩnh 11 phủ
trong đó có phủ Anh Đô có 2 huyện Hưng Nguyên và Nam Đường, danh
xưng Hưng Nguyên bắt đầu xuất hiện từ đó và kéo dài cho tới ngày nay.
Vào năm Hồng Đức thứ 21 (1490) thừa tuyên Nghệ An được gọi là
xứ Nghệ An, đến đời Hồng Thuận (1509 – 1516) đổi thành trấn Nghệ An.
Năm 1831 niên hiệu Minh Mệnh 12 thì trấn Nghệ An tách thành 2 tỉnh là
Nghệ An và Hà Tĩnh, huyện Hưng Nguyên thuộc vào phủ Anh Đô trấn
Nghệ An.
Từ năm 1469 đến cuối thế kỷ XVIII địa vực và thôn xã của Hưng
Nguyên thế nào chưa rõ, đến cuối thế kỷ XIX, theo Tên làng xã Việt Nam
đầu thế kỷ XIX thì Hưng Nguyên có 7 tổng, 96 xã, thôn, phường, vạn, tộc là:
tổng Phù Long, Thông Lãng, Đô An, Hoa Viên, Hải Đô, Cảo Trinh, La
Hoàng trải dài từ tả ngạn sông Lam kéo dài sang vùng Bùi Khổng, Bùi Chu
tức Hưng Yên, Hưng Trung ra mãi Quả Khê, Yên Lãng (Nghi Hưng) lên Cổ
Văn, Cổ Lãm (Nghi Văn) rồi xuống La Nham, Hải Thanh sát bờ biển Nghi
Yên, Nghi Tiến của huyện Nghi Lộc hiện nay. Đến cuối thế kỷ XIX, theo
Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí lược Hưng Nguyên lúc này thuộc phủ Anh
Sơn cũng có 7 tổng như trên với 106 xã, thôn, sách. Đến đời Khải Định năm
1919 Hưng Nguyên được gọi là phủ Hưng Nguyên và còn có 6 tổng.

8
Đến khoảng năm 1940
(1)
theo Danh sách xã thôn Trung kỳ thì Hưng Nguyên
có 6 tổng và 119 xã thôn là: tổng Anh Đô (20 xã thôn), An Tường (29 xã
thôn), Phù Long (23 xã thôn), Thông Lãng (13 xã thôn), Hải Đô (24 xã

thôn), Văn Viên (10 xã thôn). Từ đó, Hưng Nguyên đã có nhiều lần thay đổi
về địa giới và đơn vị hành chính, mãi đến ngày 15/9/1998 theo nghị định số
73/1998 NĐ – CP của Chính Phủ thị trấn Hưng Nguyên được thành lập lại
(2)
và từ đó đến nay Hưng Nguyên có 23 đơn vị hành chính với 22 xã và 1 thị
trấn.
1.3. Văn hóa tín ngưỡng và nền giáo dục cổ.
1.3.1. Văn hóa tín ngưỡng.
1.3.1.1. Thờ phụng tổ tiên.
Mở đầu mỗi cuốn Gia Phả của một số dòng họ, để răn dạy con cháu
về việc phụng thờ, tôn trọng và kính cẩn với tổ tiên, yêu quý ngồn gốc của
mình, các dòng họ đã viết:
“千 流 萬 派, 水 同 一 原
千 柯 萬 葉, 木 同 一 根”
Phiên âm:
Thiên lưu vạn phái, thủy đồng nhất nguyên,
Thiên kha vạn diệp, mộc đồng nhất căn.
Chú thích:
(1)
Tài liệu được lưu hành tại thư viện Huế, người biên soạn không ghi rõ năm nào, theo chủ
trương của cơ quan nào, Ninh Viết Giao đoán nó có thể ra đời vào khoảng năm 1935 – 1940.

9
(2)
Trước đó thị trấn của Hưng Nguyên là thị trấn Thái Lão (thành lập ngày13/11/1986) đến
ngày 17/12/1993 theo nghị quyết 99 CP của chính phủ: “Giải thể thị trấn Thái Lão thuộc huyện
Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An"
Dịch nghĩa:
Nghìn muôn dòng nước cũng từ một nguồn,
Nghìn muôn cành lá cũng từ một gốc.

Tại huyện Hưng Nguyên cũng như tất cả các địa phương khác trên đất
nước Việt Nam đều thờ cúng tổ tiên. Bởi, tổ tiên chính là ngọn nguồn để cắt
nghĩa sự thành đạt của con cháu trong dòng họ, đã là người thì phải biết ơn
công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Cây có gốc thì
cành mới có thể sinh sôi, nước có nguồn thì bể mới rộng, sông mới dài…
Đối với mỗi người dân Hưng Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung tổ
tiên chính là niềm tự hào của cả dòng tộc, “tổ tiên là một giá trị tinh thần
thuộc về “cái ta” của cả dòng họ, của mỗi gia đình, mỗi thành viên” [ 4, tr .
490] .Chính vì thế, mỗi “cái ta” trong mỗi dòng họ phải trân trong quý mến
“cái ta” ấy trước khi hòa nhập vào “cái ta” của làng xã.
Ngoài việc thờ phụng tổ tiên thì ở các dòng họ tại huyện Hưng
Nguyên còn có tục thờ “ Bà Tổ Cô”. “Bà Tổ Cô” thường là con gái hay em
gái của thủy tổ, không xuất giá mà ở vậy trong nhà cha mẹ cho đến ngày
chết. Theo quan niệm của người dân nơi đây thì “Bà Tổ Cô” cũng như “Ông
Thủy Tổ”, cũng phù hộ giúp đỡ con cháu trong họ tộc. “Bà Tổ Cô” linh
thiêng thường chỉ giúp cho con cháu bằng cách chiêm bao, nhằm giúp con
cháu vượt qua được những tai ương không đáng có. Việc thờ cúng “Bà Tổ
Cô” là một hình thức văn hóa tâm linh đáng quý ở Hưng Nguyên nói riêng
mà người dân xứ Nghệ nói chung.
1.3.1.2. Tín ngưỡng Thành hoàng.
Xét các làng xã trên toàn đất Nghệ An nói chung và mảnh đất Hưng
Nguyên nói riêng, hầu như làng xã nào cũng có một vài đền thờ thần, trong
đó có cả thần Thành hoàng.

10
Việc thờ cúng Thành hoàng bắt nguồn từ Trung Quốc và đến đời
Đường thì du nhập vào nước ta và phát triển cho đến ngày nay. Thành hoàng
theo sách Trung Quốc thần bí văn hóa viết: “Thành hoàng là Thành hào, hào
có nước thì gọi là trì, không có nước thì gọi là hoàng. Đắp đất làm thành,
đào hào làm hoàng”.

Thành hoàng của người Việt là những vị thần bảo hộ cho thôn làng
nơi có lũy tre làng bao quanh chứ không phải là nơi có thành quách như
Trung Quốc, chính vì thế mà người Việt gọi là thần Thành hoàng làng.
Ở Hưng Nguyên, những vị Thành hoàng được thờ cúng không phải
chỉ là những người khai canh lập làng, mà trong đó còn có cả những thần “là
anh hùng dân tộc (Lê Lợi), có thần là Hoàng đế lừng danh (Lê Thánh Tông),
có thần là danh thần lương tướng (Lê Khôi, Đinh Bạt Tụy, …), có thần là
Nghĩa sĩ (Nguyễn Biểu), có thần đỗ đạt cao (Ngô Quang Tổ, Thái Tất Tiên,
…), có những thần là tổ sư nghề nghiệp vừa khai canh lập làng như Già
Xuân, Già Hiếu, Già Rằng”… [4, tr. 500], Điều này đã chứng tỏ rằng nhân
dân Hưng Nguyên rất kính trọng, yêu mến, sùng bái những người tài giỏi có
công lập ấp lập làng, những người có công chiến đấu bảo vệ làng xã, đất
nước, những con người học giỏi tài ba… Những vị thần này được nhân dân
gọi với những tên gọi như Bản cảnh Thành hoàng, Đương cảnh Thành
hoàng, Bản thổ Thành hoàng.
Việc thờ Thành hoàng là để nhân dân nhớ lại lịch sử. Bởi Thành
Hoàng là tượng trưng cho lịch sử, phong tục cùng đạo đức, hy vọng của cả
làng. Thành hoàng là một thứ quyền uy siêu việt, là sợi dây, mối liên hệ siêu
hình để gắn kết cả làng, khiến cho cả làng thành một cộng đồng có tổ chức
và hệ thống chặt chẽ.
Ở Hưng Nguyên, trong tín ngưỡng của mỗi người dân, của làng xã
Thành hoàng dù là nhiên thần, thiên thần hay nhân thần thì cũng đều biểu thị
lòng tôn kính, tin tưởng và luôn thành tâm cầu nguyện đối với cái linh
thiêng, cao cả. Theo PGS Ninh Viết Giao thì toàn bộ Thành hoàng ở Hưng

11
Nguyên đều là phúc thần và đều là âm phù cho những cá nhân trong cộng
đồng làng. Thành hoàng chính là nơi tụ hợp tâm linh của cư dân cộng đồng
làng xã ở Hưng Nguyên cũng như của cả cư dân Việt.
1.3.2. Nền giáo dục cổ.

1.3.2.1. Giáo dục và khoa cử ở Hưng Nguyên dưới các
triều đại phong kiến.
Ngay từ những ngày đầu của nền Nho học, hình ảnh những ông Đồ
Nghệ đeo khăn gói đỏ đi từ bắc chí nam để truyền tải ý nghĩa sâu xa của đạo
đạo lý, dạy những câu kinh của bậc thánh hiền để uốn nắn con người đã in
sâu vào tâm trí mỗi người. Từ sự nghèo khó, từ những cái bình dị của quê
hương mà con người xứ Nghệ nói chung và Hưng Nguyên nói riêng đã hun
đúc cho mình tinh thần hiếu học. Chính vì thế nơi đây đã có nhiều danh sĩ
nổi tiếng.
Ở Hưng Nguyên phong trào học tập cũng nổi lên mạnh mẽ, đã có
nhiều lớp học tư do các thầy đồ mở ra để dạy chữ Nho cùng với những đạo
lý của Nho giáo. Còn theo PGS Ninh Viết Giao đến đời Gia Long, ở Hưng
Nguyên có trường Giáo (do quan Giáo thụ quản lý) và trường Huấn (do
quan Huấn đạo quản lý). Dưới chính những ngôi trường công và những
trường tư do các cụ đồ tự mở này đã có nhiều danh sĩ nổi danh.
Mảnh đất Hưng Nguyên với đúng tên gọi của nó mãi đến 1469 mới có
và người mở đầu cho nền khoa bảng Hưng Nguyên ở bậc đại khoa là Đinh
Bạt Tụy. Ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ đệ tam danh chế khoa Giáp Dần năm
Thuận Bình thứ 6 (1554), ông làm quan đến chức Thương Thư bộ Binh,
tước Khê Quận Công.
Từ đó về sau các danh sĩ Hưng Nguyên ngày càng nhiều và nổi tiếng
khắp cả nước. Đến năm 1919 thì đất Hưng Nguyên đã có 10 người đỗ Tiến
sĩ và Phó bảng. Hương cống ở đời Lê thì hiện nay chưa có sách sử nào thống

12
kê, nhưng ở đời Nguyễn Hưng Nguyên có 21 người đỗ Cử nhân và số người
đỗ Tú Tài thì phải gấp 3 gấp 4 lần số Cử nhân.
1.3.2.2. Danh sĩ đất Hưng Nguyên.
Đất Hưng Nguyên có nhiều người đỗ đạt thành tài, từ đời Lê cho
đến Nguyễn. dưới đây tôi xin liệt kê một số danh sĩ đỗ đại khoa (Tiến sĩ và

Phó bảng).
1. Đinh Bạt Tụy, đậu Đệ nhất giáp Tiến sĩ đệ tam danh chế khoa
Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình thứ 6 (1554) vua Lê Trung Tông. Làm quan
đến chức Thượng Thư bộ Binh, tước Khê Quận Công.
2. Lê Giám, đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Mậu Tuất niên hiệu
Hồng Đức thứ 9 (1478) vua Lê Thánh Tông. Làm quan Hữu Hình Thị Lang
ở bộ Lại.
3. Ngô Quang Tổ, đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên
hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508) vua Lê Uy Mục. Làm quan đến Hiến sát sứ.
4. Thái Tất Tiên, đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ đồng xuất thân khoa
Bính Tuất niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466) vua Lê Thánh Tông. Làm
quan đến chức Tham chính.
5. Nguyễn Quang Thiện, đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Giáp Thìn
niên hiệu Cảnh Trị 2 (1664) vua Lê Huyền Tông. Làm đến chức Giám sát
ngự sử.
6. Dương Trí Dụng, đậu Đệ nhất giáp chế khoa Ất Dậu niên hiệu
Chính Trị thứ 8 (1565). Làm quan đến Hộ bộ Hữu thị lang, Binh bộ Tả thị
lang, Tham chính sứ trấn Sơn Nam.
7. Lê Văn Thông, đậu Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Quý Mùi niên
hiệu Quang Hưng thứ 6 (1583) vua Lê Thế Tông. Làm quan đến Binh khoa
cấp sự trung.
8. Ngô Trạch, đậu Phó bảng khoa Kỷ Mão niên hiệu Tự Đức thứ
32 (1879). Làm quan đến Đốc học Thanh Hóa.

13
9. Hoàng Nghĩa Vĩ, đậu Hương cống năm Cảnh Hưng thứ 37, đậu
Tiến sĩ năm Cảnh Hưng thứ 45 (1784). Con đường hoạn lộ chưa rõ.
10. Ngô Đình Hy, đậu Tiến sĩ đời Lê, chưa rõ khoa nào, đời nào và
con đường hoạn lộ ra sao.
Trên đây là danh sách Tiến sĩ và Phó bảng tại đất Hưng Nguyên, trên

mảnh đất này còn có nhiều danh sĩ đậu cử nhân, hương cống như: Dương
Hữu Thanh đậu khoa Canh Tý năm Thành Thái thứ 12 (1900), Đặng Huy
Khuê đậu khoa Mậu Tý năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), Hoàng Nghĩa Bích
đậu khoa Đinh Dậu năm Thành Thái thứ 9 (1897), Hồ Trí Trung đậu khoa
Bính Ngọ năm Thành Thái thứ 18 (1906), Ngô Hữu Tạo đậu khoa Quý Dậu
năm Tự Đức thứ 26 (1873)…

14
Chương2:
KHÁI QUÁT SẮC PHONG TẠI
HUYỆN HƯNG NGUYÊN TỈNH NGHỆ AN
2.1. Khái quát về sắc phong tại huyện Hưng Nguyên.
2.1.1.Khái quát chung về sắc phong.
2.1.1.1. Khái niệm.
Sắc phong là những văn bản phong tặng danh hiệu cho các thần linh,
có thể là nhân thần hay nhiên thần. Việc phong tặng này đã chứng tỏ hoàng
đế là chủ nhân của bách thần cho nên khi mới lên ngôi hay có lễ lớn nhà vua
nào cũng làm thủ tục này.
2.1.1.2. Thủ tục ban cấp.
Việc ban cấp sắc phong cho các vị thần hay quan chức từ trước đến
nay chưa từng được cấp sắc phải trải qua những thủ tục khá nghiêm cẩn.
Trước hết cộng đồng làng xã, địa phương muốn được cấp sắc phải làm làm
đơn xin phong tặng sắc, đơn phải có đầy đủ chữ kí của các quan viên chức
sắc. Tiếp đó bộ Lễ sẽ tư cho các huyện biết, các huyện sẽ cử thừa phái đi về
thực địa để xem xét các yếu tố liên quan như: xem miếu thờ và bài vị, nếu là
người địa phương thì xem mộ chí, rồi thừa phái sẽ kí biên bản và đem về
cho bộ Lễ, bộ Lễ làm thủ tục viết sắc và cấp sắc.
2.1.1.3. Chất liệu viết sắc.
Chất liệu giấy để viết sắc cũng rất phong phú và đã được quy định rõ
ràng theo phẩm trật của những vị được cấp sắc. Thể thức giấy viết sắc theo

niên hiệu Minh Mệnh năm thứ 10 (1829) quy định:

15
- Quan nhất phẩm: dùng thứ giấy rắc vàng hạng nhất, cao 1 thước 4
tấc, dài 4 thước 5 tấc, mặt vẽ rồng to mây kín, rồng nhiễu 4 mặt, mặt sau vẽ
tứ linh.
- Quan nhị, tam phẩm: dùng giấy rắc bạc mạ vàng hạng nhì, cao 1
thước 3 tấc, dài 4 thước, mặt giấy vẽ rồng to mây kín, 4 chung quanh vẽ liên
vân, mặt sau vẽ lân, phượng.
- Quan tứ, ngũ phẩm: dùng thứ giấy rắc bạc mạ vàng hạng ba, cao 1
thước 3 tấc, dài 3 thước 5 tấc, mặt giấy vẽ rồng to mây thưa, 4 chung quanh
vẽ hoa văn hoa dây, mặt sau vẽ cổ đồ.
- Quan lục, thất phẩm: dùng giấy rắc bạc hạng bốn, cao 1 thước 2 tấc,
dài 3 thước 2 tấc, mặt giấy vẽ long vân, 4 chung quanh vẽ hoa văn liên đằng.
- Quan bát, cửu phẩm: dùng thứ giấy rắc bạc hạng năm, cao 1 thước 2
tấc, dài 3 thước 1 tấc, mặt giấy vẽ giao long và mây, 4 chung quanh vẽ hoa
văn liên đằng.
Đến năm thứ 13 (1832) vua Minh Mệnh lại quy định: “ … quan nhất
phẩm nguyên dùng giấy hạng nhất, quan nhị phẩm nguyên dùng giấy hạng
nhì, quan tam phẩm nay nên dùng giấy hạng ba, quan tứ phẩm nên dùng
giấy hạng tư, quan ngũ phẩm và chánh lục phẩm như đồng tri phủ kinh diên
tri huyện, tòng lục phẩm như các huyện tri huyện, đều dùng giấy hạng năm”
[7, tập 3, tr. 48, 49]
2.1.2. Hiện trạng sắc phong tại huyện Hưng Nguyên.
Theo kết quả điền dã tại 10 nhà thờ, đền thờ trên địa bàn huyện người
nghiên cứu đã sưu tầm được 111 đạo sắc phong trong đó có 31 đạo là sắc
phong cho thần, 70 đạo là sắc phong cho nhân vật. Sắc phong có niên đại
sớm nhất là sắc phong có niên đại Thuận Bình năm thứ 7 (1555), sắc phong
muộn nhất là sắc phong niên đại Bảo Đại năm thứ 18 (1943). Theo khảo sát
từng di tích cho thấy, hiện tại nhà thờ Đinh Bạt Tụy còn giữ lại 36 đạo sắc

phong trong đó có 28 đạo thời Lê, 8 đạo thời Nguyễn; đình làng Bùi Ngõa

16
còn giữ lại 17 đạo sắc trong đó có 6 đạo thời Lê, 11 đạo thời Nguyễn; nhà
thờ họ Lê Sĩ còn giữ lại 7 đạo sắc phong trong đó có 3 đạo thời Lê, 4 đạo
thời Nguyễn; dòng họ Nguyễn Trọng còn giữ 3 đạo sắc đều là sắc thời
Nguyễn; nhà thờ Trạng Nguyên Bạch Liêu còn giữ 6 đạo sắc phong trong đó
có 2 đạo thời Lê, 4 đạo thời Nguyễn; nhà thờ họ Ngô còn giữ lại 5 đạo sắc
đều là sắc thời Nguyễn; đền thờ Thánh Vương Bạch Đế còn giữ lại 6 đạo sắc
trong đó có 4 đạo sắc thời Lê và 2 đạo thời Nguyễn; đền thờ đức thánh
Khổng Lồ còn giữ lại 8 đạo sắc đều là sắc thời Nguyễn; nhà thờ họ Hoàng
còn giữ lại 10 đạo sắc đều là sắc thời Lê; đền Xuân Hòa còn giữ 13 đạo sắc
trong đó có 4 đạo thời Lê và 9 đạo thời Nguyễn. Thế nhưng, hơn nửa số đó
là sắc photo và chép tay. Trong quá trình tổng hợp thống kê, xác định văn
bản học, người nghiên cứu đã thống kê được số lượng sắc phong qua các đời
vua như bảng sau:
Niên hiệu Thời kỳ nắm quyền Số sắc phong
Thuận Bình (Lê TrungTông) 1549 – 1556 2 đạo
Chính Trị (Lê Anh Tông) 1558 – 1571 3 đạo
Gia Thái (Lê Thế Tông) 1573 – 1577 1 đạo
Quang Hưng (Lê Thế Tông) 1578 – 1599 15 đạo
Hoằng Định (Lê Kính Tông) 1600 – 1619 4 đạo
Vĩnh Tộ (Lê Thần Tông) 1619 – 1628 4 đạo
Đức Long (Lê Thần Tông) 1629 – 1643 5 đạo
Phúc Thái (Lê Chân Tông) 1643 – 1649 1 đạo
Thịnh Đức (Lê Thần Tông) 1653 – 1657 1 đạo
Cảnh Trị (Lê Huyền Tông) 1663 – 1671 3 đạo
Vĩnh Trị (Lê Huy Tông) 1676 – 1680 1 đạo
Chính Hòa (Lê Huy Tông) 1680 – 1705 1 đạo
Vĩnh Thịnh (Lê Dụ Tông) 1705 – 1719 3 đạo


17
Niên hiệu Thời kỳ nắm quyền số sắc phong
Vĩnh Khánh (Lê Duy Phương) 1729 – 1732 2 đạo
Cảnh Hưng (Lê Hiển Tông) 1740 – 1786 8 đạo
Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) 1793 – 1801 4 đạo
Gia Long (Nguyễn Thế Tổ) 1802 – 1819 1 đạo
Minh Mệnh (Nguyễn Thánh Tổ) 1820 – 1840 2 đạo
Thiệu Trị (Nguyễn Hiến Tổ) 1841 – 1847 3 đạo
Tự Đức (Nguyễn Dực Tông) 1848 – 1883 10 đạo
Đồng Khánh (Nguyễn Cảnh Tông) 1886 – 1888 7 đạo
Thành Thái (Nguyễn Thành Thái) 1889 – 1907 10 đạo
Duy Tân (Nguyễn Duy Tân) 1907 – 1916 10 đạo
Khải Định (Nguyễn Hoằng Tông) 1916 – 1925 8 đạo
Bảo Đại (Nguyễn Bảo Đại) 1925 -1945 2 đạo
Từ kết quả trên người nghiên cứu có thể đưa ra một số đánh giá sau:
- Hiện nay trên địa bàn huyện Hưng Nguyên có 61 di tích, nhưng chỉ
còn lại số ít các di tích giữ lại được những bản sắc phong quý giá này.
Nguyên nhân dẫn đến sự việc đó là do bị đánh cắp, do chiến tranh, thiên tai,
và do cách bảo quản của nhân dân. Những sắc phong còn lại thì cũng đã hư
hỏng rất nhiều. Có những đền thờ như đền thờ Thánh Vương Bạch Đế, đền
thờ đức thánh Khổng Lồ, nhà thờ Trạng Nguyên Bạch Liêu thì hầu hết các
đạo sắc đã hư hỏng rất nặng, có những đạo không còn đọc được chữ. Bên
cạnh đó, tại một số di tích, nhà thờ đền thờ họ tài liệu sử về các vị được thờ
phụng không còn hoặc người lưu giữ không có mặt tại địa phương. Chính
vì thế, quá trình khảo, cứu để thực hiện đề tài của người nghiên cứu đã gặp
nhiều khó khăn và hạn chế.
- Qua quá trình khảo sát thực tế, người nghiên cứu nhận thấy hầu hết
tất cả những bản sắc phong trên địa bàn huyện Hưng Nguyên đều được cất
giữ trong những tráp gỗ hình chữ nhật, một số nhà thờ lại cất giữ trong một

ống tre. Tất cả những sắc phong này đều được bảo quản kỹ lưỡng và thờ tự
ngay trong chính điện của nhà thờ hay đình thờ. Điều đặc biệt mà người
nghiên cứu được biết đến trong quá trình điền dã là lễ hội rước sắc của dòng

18
họ Lê Sĩ ở xã Hưng Thông vào ngày rằm tháng giêng hàng năm, lễ nghi này
không chỉ để con cháu trong dòng họ tưởng nhớ đến công lao và thành quả
của ông cha mình mà nó còn góp sức vào xây dựng lại một nét văn hóa của
dân tộc. Tại nhà thờ họ Lê Sĩ này, các bản sắc phong cũng được photo màu
nguyên khổ và cho vào khung kính treo trong chính điện của nhà thờ, còn
các bản sắc gốc thì được cất giữ và thờ tự rất cẩn thận.
2.2. Nội dung sắc phong tại huyện Hưng Nguyên.
Sắc phong tại huyện Hưng Nguyên đa dạng và phong phú, có cả sắc
cho các vị thiên thần, nhiên thần và sắc cho nhân vật. Tất cả các đạo sắc đó
đều là sắc phong thêm chức bậc, ca ngợi công lao của mỗi vị được cấp sắc.
Tuy nhiên ở mỗi triều đại, mỗi loại văn sắc lại chuyển tải một nội dung
riêng.
2.2.1. Sắc phong nhân vật.
Qua khảo sát, hiện tại trên địa bàn huyện Hưng Nguyên (tại 10 đền
thờ, nhà thờ đã khảo sát) có 70 đạo sắc phong cho các nhân vật.
- Tại đền thờ Tướng Công Đinh Bạt Tụy gồm 36 đạo, những đạo sắc
này được vua ban xuống để ghi nhận và ca ngợi công lao của Tướng Công,
cùng với những người thân thích trong gia đình ông như:
Niên hiệu Quang Hưng thứ 12, ngày 7 tháng 4 (1589) đã ban 6 đạo
sắc cho ông nôi, bà nội, cha, mẹ, chính thất và kế thất của ông. Ông nội và
cha ngài được vua tặng hàm Thái Bảo, bà nội và mẹ ngài thì được tặng là
Liệt Phu Nhân, hai bà vợ của ông thì được phong là Tào Xuyên Tư Phu
Nhân.
Niên hiệu Hoằng Định thứ 8, ngày 26 tháng 10 (1608); niên hiệu Đức
Long nguyên niên, ngày 6 tháng 5 (1629); niên hiệu Phúc Thái thứ 3, ngày

19 tháng 3 (1645) đã ban sắc cho Mai Lĩnh Hầu Đinh Bạt Tuấn, con trưởng
của ngài.

19
Các niên hiệu như Vĩnh Tộ thứ 8, ngày 18 tháng 12 (1626); niên hiệu
Phúc Thái thứ 3, ngày 19 tháng 3 (1645); niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5, ngày
15 tháng 12 (1709); niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 15, ngày 8 tháng 4 (1720);
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 46, ngày 17 tháng 9 (1785) đã lần lượt phong sắc
cho con cháu, hậu duệ của ngài.
Niên hiệu Duy Tân thứ 3, ngày 11 tháng 8 (1909) đã tăng sắc phong
hợp thần cho 4 vị thần của thôn Đông, xã Bùi Ngõa, huyện Hưng Nguyên,
trong đó có ngài Đinh Bạt Tụy và con trai ngày là Đinh Bạt Tuấn.
Những đạo sắc còn lại là do các đời vua phong tặng cho Tướng Công
Đinh Bạt Tụy để ca ngợi công lao và tưởng nhớ tới ngài.
- Tại đình làng Bùi Ngõa có 5 đạo sắc thờ nhân vật. Tất cả các đạo
sắc này đều là sắc phong cho dòng họ Đinh Bạt Tụy
(1)
. Cụ thể là:
Niên hiệu Quang Hưng thứ 10, ngày 5 tháng 11 (1587); niên hiệu
Cảnh Hưng thứ 44, ngày 16 tháng 7 (1783); niên hiệu Tự Đức thứ 3, ngày
15 tháng 11 (1850) đã phong sắc cho Tướng Công Đinh Bạt Tụy.
Niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8, ngày 18 tháng 12 (1626) phong sắc cho
Đinh Bạt Sĩ.
Niên hiệu Đức Long nguyên niên, ngày 6 tháng 5 (1629) phong sắc
cho Đinh Bạt Tuấn.
- Tại nhà thờ dòng họ Lê Sĩ có 7 đạo sắc thì đều là sắc phong cho các
nhân vật trong dòng họ. Đó là sắc phong cho thủy tổ Lê Sĩ Triệt, cho Lê Sĩ
Cẩn (con trưởng Lê Sĩ Triệt), hai vị này đều đậu Tiến sĩ ở đời nhà Lê và có
công lớn trong công cuộc xây dựng đất nước, dẹp giặc ngoại xâm.
Chú thích:

(1)
Những sắc thờ ở đình đều là bản chép tay, giống hệt sắc được cấp ở nhà thời
Đinh Bạt Tụy.
Các niên hiệu như Cảnh Trị thứ 2, ngày 5 tháng 12 (1664); niên hiệu
Thành Thái thứ 6, ngày 15 tháng 9 (1894); niên hiệu Thành Thái thứ 16,
ngày 15 tháng 11 (1904); niên hiệu Khải Định thứ 9, ngày 25 tháng 7 (1924)
đã cấp tặng sắc cho Lê Sĩ Triệt.

20
Niên hiệu Chính Hòa thứ 10, ngày 9 tháng 4 (1689); niên hiệu Vĩnh
Thịnh thứ 8, ngày 28 tháng 6 (1712) cấp sắc tặng cho Tiến sĩ Lê Sĩ Cẩn.
- Tại dòng họ Nguyễn Trọng, tất cả 3 đạo sắc đều phong cho Tú Tài
Nguyễn Huy Trác đó là những đạo sắc dưới các niên hiệu như: niên hiệu Tự
Đức thứ 30, ngày 6 tháng 8 (1877); niên hiệu Tự Đức thứ 30, ngày 1 tháng
11 (1877); niên hiệu Đồng Khánh nguyên niên, ngày 1 tháng 10 (1886).
- Tại nhà thờ Trạng nguyên Bạch Liêu, tất cả 6 đạo sắc đều là sắc của
các triều đại phong cho Trạng nguyên họ Bạch đời Trần. Gồm các sắc của
các niên hiệu như: niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44, ngày 26 tháng 2 (1783)
gồm 2 đạo; niên hiệu Thành Thái thứ 2, ngày 20 tháng 2 (1890); niên hiệu
Duy Tân thứ 3, ngày 11 tháng 8 (1909); niên hiệu Bảo Đại thứ 15, ngày 20
tháng 12 (1940); niên hiệu Bảo Đại thứ 18, ngày 15 tháng 8 (1943).
- Tại nhà thờ họ Ngô có 3 đạo sắc phong cho Ngô Tướng Quân, đó là
những sắc dưới các niên hiệu như: Thành Thái thứ 6, ngày 25 tháng
9(1894); niên hiệu Duy Tân thứ 3, ngày 11 tháng 8 (1909); niên hiệu Khải
Định 25 tháng 7 (1924).
- Tại nhà thờ họ Hoàng gồm có 10 sắc phong nhân vật như:
Niên hiệu Hoằng Đinh thứ 2, ngày 17 tháng 12 (1602); niên hiệu
Hoằng Định thứ 9, ngày 17 tháng 7 (1608); niên hiệu Hoằng Định thứ 18,
ngày 27 tháng 10 (1617); niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 4, ngày 25 tháng 10 (1622)
cấp sắc tặng cho Hoàng Đăng Quỹ.

Niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8, ngày 24 tháng 7 (1626) cấp sắc cho Hoàng
Thanh Mai.
Niên hiệu Đức Long thứ 7, ngày 24 tháng 10 (1635); niên hiệu Thịnh
Đức thứ 5 ngày 25 tháng 7 (1657);niên hiệu Cảnh Trị thứ 3, ngày 6 tháng 12
(1665) đã cấp sắc tặng cho Hoàng Đăng Bạt.

21
Niên hiệu Cảnh Trị thứ 3, ngày 6 tháng 12 (1665); niên hiệu Vĩnh Trị
thứ 9, ngày 23 tháng 12 (1684) đã cấp sắc cho Hoàng Đăng Tướng.
Qua khảo sát chung ta có thể thấy sắc phong nhân vật ở Hưng Nguyên
hầu hết là sắc phong cho các nhân vật học tài đỗ đạt ra làm quan giúp nước,
duy chỉ có sắc ở nhà thờ Đinh Bạt Tụy là có sắc phong cho người thân thích
trong gia đình ông.
2.2.2. Sắc phong thần.
Trên địa bàn huyện Hưng Nguyên qua khảo sát người nghiên cứu
được tiếp xúc với 31 đạo sắc phong cho các vị thần. Trong đó có phong cho
Bản cảnh Thành Hoàng, Cao Sơn Cao Các, Liễu Hạnh Công Chúa, Song
Đồng Ngọc Nữ,… cụ thể như:
- Đình Bùi Ngõa thờ Bản cảnh Thành hoàng, Cao Sơn Cao Các, nữ
thần Bạch Y Công Chúa, Công chúa Liễu Hạnh.
- Đền Xuân Hòa thờ Cao Sơn Cao Các, Bản cảnh Thành hoàng.
- Đền thờ đức thánh Khổng Lồ thờ Lam Giang thần.
- Đền Thánh Vương Bạch đế thờ Thánh Vương Bạch đế và Bản cảnh
Thành hoàng.
- Nhà thờ họ Ngô thờ Lam Thành Thần Nữ .
2.3. Hình thức sắc phong tại huyện Hưng Nguyên.
2.3.1. Hoa văn trang trí.
Để thể hiện sự uy nghi của triều đại mình, khi mỗi một triều đại giành
được ngôi báu, có ngày lễ lớn đều thực hiện hình thức ban cấp sắc cho các
vị thần và các vị quan đã có công giúp đỡ đất nước, bảo vệ nhân dân.

Tuy về hình thức chung của các đạo sắc là đều được trang trí lộng lẫy
trên giấy long đằng, theo kiểu “long vân ẩn hiện”… Thế nhưng mỗi triều đại
cũng có những quy định riêng của mình. Do quá trình khảo cứu người
nghiên cứu chỉ được tiếp xúc với hầu hết những văn bản sắc photo hay sao

22
chụp lại nên không thể đo đạc được đầy đủ các niên đại đã phong sắc cho
các nhà thờ, đền thờ trên địa bàn huyện Hưng Nguyên. Vì thế, người nghiên
cứu chỉ có thể đưa ra được đặc điểm về hoa văn trang trí sắc của một số triều
đại sau:
- Niên hiệu Gia Thái: giấy sắc có nền vàng, vẽ long đằng hồi thủ, rồng
được hiện ra giữa những đám mây nhỏ bằng những nét vẽ mộc mạc, đầu
rồng hướng về mặt trời, rắc ngân nhũ. Chữ sắc đầu tiên được đài cao lên,
niên hiệu viết ngang hàng với các dòng khác, ấn đóng vào giữa chữ thứ hai.
Mặt sau của sắc vẽ Tứ linh: Long, Li, Quy, Phụng, hiện ra giữa những đám
mây lớn, được rắc ngân nhũ nổi bật.
- Niên hiệu Quang Hưng: nền sắc màu vàng, vẽ long đằng hồi thủ,
những vòng tròn tụ lại ở bốn góc tạo thành bốn đám mây lớn, rồng ẩn hiện
giữa những đám mây thưa và nhỏ, đầu rồng hướng về mặt trời, có rắc ngân
nhũ. Chữ sắc đầu tiên cũng viết đài cao còn các dòng khác và dòng niên
hiệu ngang nhau. Dấu được đóng dưới chữ thứ hai. Mặt sau cũng vẽ Tứ linh
và rắc ngân nhũ.
- Niên hiệu Phúc Thái: nền sắc vàng nhạt, rắc ngân nhũ, rồng ẩn hiện
trong những đám mây, rồng nhỏ và được vẽ nhạt, những đám mây theo
hướng thưa dần, phía đầu sắc những đám mây dày và những vòng tròn to, ra
giữa sắc và cuối sắc thì nhỏ và nhạt dần, nền sắc còn vẽ những đường nhỏ
uốn lượn theo mình rồng nhưng rất nhạt. Niên hiệu đựơc đài lên ngang với
chữ sắc đầu tiên, ấn đóng ngay dưới chữ thứ hai của niên hiệu.
- Niên hiệu Thịnh Đức: nền giấy vàng, rắc ngân nhũ, vẽ long đằng hồi
thủ, rồng ẩn hiện giữa những đám mây bằng bạc tròn to nhỏ khác nhau, phía

đầu sắc những đám mây tụ lại thành hình chữ thọ, trên nền sắc có những
đường nhỏ lượn sóng theo thân rồng được kết từ những chuỗi chấm tròn
nhỏ. Niên hiệu được đài lên cao ngang với chữ sắc đầu tiên. Ấn được đóng
giữa chữ thứ hai của niên hiệu.

23
- Niên hiêu Cảnh Trị: nền giấy màu vàng sẫm, vẽ long đằng hồi thủ,
rồng ẩn hiện giữa những đám mây, rồng đầu nhỏ mắt to chân dẫm mây,
những đám mây bằng những vòng tròn lớn đậm được vẽ theo thân rồng uốn
lượn, phía đầu sắc những chuỗi hạt tròn nhỏ kết thành những vòng xoáy lớn,
những chuỗi hạt nhỏ cũng được phân bố trên toàn nên sắc. Nền sắc có rắc
ngân nhũ nhưng nhìn nhã, không nổi bật. Còn niên hiệu và ấn thì cũng viết
như sắc thời Thịnh Đức.
- Niên hiệu Chính Hòa: nền giấy vàng tươi, rắc ngân nhũ, vẽ long
đằng hồi thủ, rồng đầu nhỏ mắt nhỏ đang hướng về quả cầu mây được năm
chấm tròn kết thành. Bốn góc của sắc có bốn vòng tròn lớn được những đám
mây kết thành. Nền sắc có những chuỗi hạt nhỏ tạo thành những đường gợn
sóng. Sắc viết đài chữ “Khâm”, “Đại”, niên hiệu cũng được đài lên. Ấn đóng
vào giữa chữ thứ hai của niên hiệu.
- Niên hiệu Vĩnh Thịnh: màu sắc và hoa văn trang trí cũng như sắc
thời Chính Hòa. Viết đài chữ “Đại”, “Nguyên”, “Tiên”.
- Niên hiệu Vĩnh Khánh: nền vàng tươi, có rắc ngân nhũ, vẽ long
đằng hồi thủ, đầu rồng nhỏ hướng về quả cầu mây được kết thành từ năm
vòng tròn nhỏ, ở bốn góc, các hình tròn nhỏ chụm lại thành bốn vòng tròn
lớn, rồng uốn lượn trên nền sáng rõ rệt, nền sắc có những chuỗi hạt nhỏ uốn
lượn theo thân rồng. Ấn được đóng ngay giữa chữ thứ hai của niên hiệu, viết
đài chữ “Tự”.
- Niên hiệu Cảnh Hưng: nền sắc vàng tươi có khi là màu sẫm, có rắc
ngân nhũ, sắc vẽ long đằng hồi thủ, đầu rồng hướng về chữ thọ, đầu rồng to
mắt dữ, bốn góc của sắc có bốn chữ thọ vuông lớn, hầu hết sắc không có

khoảng trống nào. Mặt sau của sắc có vẽ rồng, mây nhưng chỉ là nét bút giản
đơn mà không rắc ngân nhũ.
- Niên hiệu Cảnh Thịnh: nền sắc vàng có rắc ngân nhũ, rồng uốn lượn
nhẹ nhàng đơn giản dưới những đám mây nhẹ bằng những chấm tròn nhỏ,
đầu rồng đang hướng về chữ thọ, bốn góc của sắc có bốn chữ thọ vuông.

24
Viết đài chữ “Hoàng”, niên hiệu ngang hàng với chữ sắc đầu tiên, ấn được
đóng ở dòng thứ hai của niên hiệu.
- Niên hiệu Minh Mệnh: giấy nền vàng nhạt có rắc ngân nhũ, vẽ long
đằng hồi thủ, đầu rồng hướng về chữ thọ, đầu rồng ngắn, mắt to đuôi rộng
toàn thân đang ẩn hiện trong những đám mây, bốn góc của sắc có bốn chữ
thọ vuông. Giữa sắc có những chấm tròn nhỏ nhạt. Sắc viết đài chữ “Thế
Tổ”, ấn được đóng dưới chữ thứ hai của niên hiệu.
- Niên hiệu Thiệu Trị: nền vàng sẫm rắc ngân nhũ đậm, vẽ long đằng
hồi thủ, đầu rồng hướng về chữ thọ, rồng ẩn hiện trong những đám mây,
những hình tròn nhỏ rải rác thưa thớt trên toàn mặt sắc. Bốn góc sắc có bốn
chữ thọ, sắc viết đài chữ “Tặng Sắc”, “Cảnh Mệnh”, “Thế Tổ”, “Bảo”.
- Niên hiệu Tự Đức: nền sắc màu vàng có rắc ngân nhũ, vẽ long đằng
hồi thủ, đầu rồng hướng về chữ thọ, bốn góc của sắc có bốn chữ thọ vuông,
rồng lớn uốn lượn mạnh mẽ trong những đám mây dày, đậm. Nhưng có khi
cũng chỉ là những nét nhạt thưa thớt. Sắc đài chữ “Sắc Phong”, “Tặng Sắc”.
“Cảnh Mệnh”.
- Niên hiệu Đồng Khánh: nền màu vàng nghệ có rắc ngân nhũ, vẽ
long đằng hồi thủ, rồng uốn lượn nhẹ nhàng đơn giản, nền sắc có những
chấm tròn nhỏ thưa thớt điểm quanh, bốn góc có bốn chữ thọ. Cách viết niên
hiệu, đóng dấu và viết đài giống như thời Tự Đức.
- Niên hiệu Thành Thái: cách trang trí và cách viết của niên hiệu
Thành Thái cũng gần giống với thời Đồng Khánh. Nhưng điều đặc biệt là có
một số sắc không chỉ có bốn chữ thọ bốn góc và một chữ thọ trên đầu rồng

mà còn có một chữ thọ ngay dưới thân rồng, đối diện với chữ thọ đầu rồng
đang hướng về.
- Niên hiệu Duy Tân: nền sắc vàng có rắc ngân nhũ, vẽ long đằng hồi
thủ, đầu rồng đang hướng về chữ thọ, bốn góc của sắc có bốn chữ thọ hoa
văn ở bốn góc được trang trí tinh tế sắc nét, trong mỗi chữ thọ đều có cánh
chim phượng, có những sắc ngân nhũ được rắc kín cả mặt sắc nhìn đậm nét,

25

×