Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

khảo sát thành phần hóa học của quả quất trên địa bàn tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 45 trang )


1
MỤC LỤC

DANH MỤC HÌNH VẼ 2
DANH MỤC BẢNG 3
MỞ ĐẦU 4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tìm hiểu chung về cây quất 8
1.2. Tìm hiểu chung về tinh dầu 9
1.3. Phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước 14
1.4. Ly trích bằng chiếu xạ vi sóng 16
1.5. Đánh giá chất lượng tinh dầu bằng phương pháp hóa lý 18

CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất và dụng cụ 24
2.2. Nguyên liệu và xử lí nguyên liệu 26
2.3. Ly trích tinh dầu từ vỏ quả quất 26
2.4. Khảo sát các chỉ số hóa lý và thành phần hóa học
của tinh dầu vỏ quả quất 29
2.5. Khảo sát thành phần hóa học ngoài tinh dầu của vỏ quả quất 31
2.6. Khảo sát thành phần hóa học của nước quả quất 32

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Độ ẩm nguyên liệu 33
3.2. Ly trích tinh dầu từ vỏ quả quất 33
3.3. Khảo sát thành phần hóa học ngoài tinh dầu của vỏ quả quất 39
3.4. Định tính sơ bộ thành phần hóa học của nước quả quất 41

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 43
KẾT LUẬN 43


KIẾN NGHỊ 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO 45

PHỤ LỤC

2
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Đặc điểm hình thái cây quất và quả quất 8
Hình 2.1. Quy trình chưng cất lôi cuốn hơi nước
theo phương pháp đun nóng cổ điển 27
Hình 2.2. Hệ thống chưng cất lôi cuốn hơi nước
theo phương pháp đun nóng cổ điển 27
Hình 2.3. Quy trình chưng cất lôi cuốn hơi nước
theo phương pháp chiếu xạ vi sóng 28
Hình 2.4. Hệ thống chưng cất lôi cuốn hơi nước
theo phương pháp chiếu xạ vi sóng 28
Hình 2.5. Quy trình ly trích các hợp chất ngoài tinh dầu của vỏ quả quất 31
Hình 2.6. Sắc kí cột hai mẫu vỏ quả quất dùng
xác định thành phần hóa học ngoài tinh dầu 32
Hình 3.1. Sắc kí đồ tinh dầu vỏ quả quất thu được
từ phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước cổ điển. 36
Hình 3.2. Sắc kí đồ tinh dầu vỏ quả quất thu được từ phương pháp
chưng cất lôi cuốn hơi nước kết hợp với chiếu xạ vi sóng. 36

3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Thành phần hóa học của tinh dầu vỏ quả quất 12
Bảng 1.2. Thành phần hóa học của tinh dầu vỏ quả quất 12
Bảng 1.3. Các chỉ số hóa- lý của tinh dầu 13
Bảng 3.1. Độ ẩm của vỏ quả quất 33

Bảng 3.2. Các chỉ số hóa lý của tinh dầu 34
Bảng 3.3. Thành phần hóa học của tinh dầu vỏ quả quất qua chụp phổ GC/MS 37
Bảng 3.4. Kết quả thử hoạt tính sinh học của mẫu tinh dầu
thu được từ phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước cổ điển 38
Bảng 3.5. Kết quả thử hoạt tính sinh học của mẫu tinh dầu thu được từ
phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước kết hợp với chiếu xạ vi sóng 39
Bảng 3.6. Thành phần hóa học ngoài tinh dầu của vỏ quả quất
qua chụp phổ GC/MS 40


4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vỏ các loài cây citrus: cam, chanh, bưởi… từ lâu đã được sử dụng để sản
xuất tinh dầu ở các nước công nghiệp trên thới giới như Mỹ, Ý. Tinh dầu citrus có
mùi thơm dễ chịu, hàm lượng limonen cao được sử dụng rộng rãi trong thực phẩm
và mỹ phẩm. Trong các nghiên cứu gần đây còn cho thấy limonen còn có tác dụng
tán sỏi, phá khối u…Ngoài ra theo một vài nghiên cứu mới đây cho thấy thành phần
của nước quả quất đã cô lại thành cao quất có chứa flavonoid, phytostereol, steroid,
carotenoid…đặc biệt có chứa ankaloit dược tính cao.
Ở nước ta, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long trong đó có tỉnh Đồng
Tháp, một loài cây thuộc loài Citrus họ Rutaceae (họ cam) khác là cây quất phổ
biến là loài citrus japonica Thumb. (fortunella japonica Swing) được trồng khắp
nơi. Cây quất (cây tắc, cây hạnh) trở nên quen thuộc với chúng ta với công dụng
làm cây cảnh. Từ xa xưa, trong dịp tết Nguyên Đán, người ta đã biết dung cây quất
trang trí không phải bằng hoa mà bằng quả. Những quả quất tròn trĩnh với màu đỏ
cam hấp dẫn không những làm đẹp cảnh quan ngày tết mà còn là vị thuốc hay trong
y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Theo Đông y quả quất vị ngọt chua, tính
ấm vào các kinh phế, vị, can. Có công năng hóa đàm, trị ho, lý khí, giải uất, tiêu
thực, giải rượu. Vỏ quất có nhiều tác dụng như kháng khuẩn, giảm tress giúp ngủ

ngon, trị đau đầu, khử mùi, trị đầy hơi, hạ đường huyết… Quả quất được thu hái
quanh năm vỏ có thể ở dạng tươi, khô hay đông lạnh để tách lấy tinh dầu.
Các nghiên cứu về tinh dầu quất được thực hiện khá nhiều trên thới giới nhưng
tại Việt Nam còn rất hạn chế, gần đây mới có một số ít công trình nghiên cứu về
tinh dầu quất. Tuy nhiên tất cả chỉ tập trung nghiên cứu thành phần hóa học của tinh
dầu, các nghiên cứu về hoạt tính sinh học của tinh dầu quất ít được quan tâm. Đặc
biệt việc nghiên cứu tách chiết các hợp chất có dược tính cao ngoài tinh dầu từ quả
quất là vấn đề mới mẻ, chưa được quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu tách chiết
tinh dầu và các hợp chất ngoài tinh dầu có dược tính cao đồng thời thử hoạt tính
sinh học của tinh dầu quất là việc làm cần thiết góp phần vào việc sử dụng các hợp
chất thiên nhiên trong các lĩnh vực thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm. Qua nghiên
5
cứu của đề tài sẽ làm tăng giá trị kinh tế của cây quất ở tỉnh Đồng Tháp, góp phần
vào việc phát triển nền nông nghiệp của ở tỉnh nhà.

Để góp phần xác định thành phần hóa học và khảo sát hoạt tính sinh học của
quả quất chúng tôi chọn đề tài: “Khảo sát thành phần hóa học của quả quất trên
địa bàn tỉnh Đồng Tháp”.


2.

Mục tiêu nghiên cứu


Khảo sát thành phần hóa học của tinh dầu và ngoài tinh dầu của quả quất, thử

hoạt tính sinh học của tinh dầu quất.



3.

Nhiệm vụ nghiên cứu

-

Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.

-

Tiến hành thực nghiệm ly trích tinh dầu từ vỏ quả quất bằng phương pháp
chưng

cất

lôi

cuốn

hơi

nước



chưng

cất

lôi


cuốn

hơi

nước

kết

hợp

chiếu

xạ

vi
sóng.

-

Xác

định

một

số

chỉ


số

hóa





thành phần

hóa học

của

tinh

dầu

từ

hai
phương pháp chưng cất trên.

-

Chiết, sắc kí bản mỏng và sắc kí cột từ dung môi ít phân cực đến phân cực
để khảo sát thành phần hóa học ngoài tinh dầu.

-


Định tính sơ bộ và xác định thành phần hóa học ngoài tinh dầu có trong quả

quất qua các thuốc thử hữu cơ, GCMS.

-

Thử hoạt

tính

sinh học về

khả năng

kháng khuẩn

của

tinh dầu

quất

từ hai
phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước và chiếu xạ vi sóng.


4.

Các phương pháp nghiên cứu


-

Nghiên cứu lí thuyết: thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu

-

Thực nghiệm hóa học:


+

Các phương pháp tách chiết các hợp chất hợp cơ: Phương pháp chưng cất
lôi

cuốn hơi nước

cổ điển và

chưng

cất

lôi

cuốn hơi nước kết hợp

với

chiếu


xạ

vi
sóng.


+ Các phương pháp xác định các hợp chất hữu cơ: Sắc kí bản mỏng, sắc kí
cột, Phổ UV, GC-MS.


+ Phương pháp sinh hóa: Thử hoạt tính sinh học của tinh dầu


5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Quả quất ở Cao lãnh Đồng tháp

6
6. Lịch sử của vấn đề nghiên cứu
Các nghiên cứu về tinh dầu quất được thực hiện khá nhiều trên thới giới như
Mỹ Ý nhưng tại Việt Nam còn rất hạn chế, gần đây mới có một số ít công trình
nghiên cứu về tinh dầu quất
1. Khảo sát tinh dầu vỏ trái giống Citrus họ rutaceae - ThS. Nguyễn Minh Hoàng
Đại học Mở Tp HCM -2006. Nội dung của công trình là khảo sát thành phần hóa học
của tinh dầu bưởi da xanh, cam sành, chanh giấy và thử hoạt tính kháng khuẩn của các
loại tinh dầu này.
2. Tách chiết tinh dầu và ankaloit từ quả quất- Nguyễn Thị Lý, Lê Thị Đề Oanh,

Phan Thị Bảo Vy. Khoa Công nghệ Hóa Học – ĐHBK TP HCM – 2009 đã tách và
xác định thành phần hóa học của tinh dầu quất, bước đầu chiết và định tính ankaloit có
trong nước quả quất.
3. Ly trích tinh dầu vỏ trái và lá tắc- Trịnh Hoàng Hiếu, Nguyễn Thị Bảo
trân, Lê Ngọc Thạch. Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, tập 12, số 10-2009.
Nhóm tác giả đã nghiên cứu ly trích tinh dầu từ lá và vỏ quả tắc bằng hai phương
pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước và chưng cát lôi cuốn hơi nước có sự kết hợp của
chiếu xạ vi sóng, thử hoạt tính sinh học của tinh dầu lá và vỏ tắc thu được từ hai
phương pháp chưng cất trên.
4. Duong Phuoc An, Huynh Thi Bich Tuyen, Nguyen Ngoc Khoi * Y Hoc
TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 1 - 2010: 35-40.
Nội dung của công trình là khảo sát thành phần hóa học và thử hoạt tính giải lo
âu của tinh dầu bưởi, cam, chanh, quýt, quất, kết quả cho thấy tinh chỉ có tinh dầu
quất có hoạt tính giải lo âu là do sự khác biệt về thành phần hóa học của tinh dầu. Ở
tinh dầu quất có sự hiện diện của 7,7-dimethyl-2-methylen bicyclo[2.2.1]heptan
(0,21%) và 1,2,3,4a,5,6,8a-octahydro-7-methyl-4-methylen-1-(methylethyl)
naphthalen (1,32%) mà không phát hiện ở 4 loại tinh dầu còn lại. Tuy nhiên hai chất
này không tìm thấy trong thành hóa học của tinh dầu quất ở tài liệu (2) và (3)
7. Những đóng góp mới của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung vào kết quả nghiên cứu thành phần
hóa học của tinh dầu quất và thử hoạt tính sinh học của tinh dầu quất.

7
Tăng cường hướng nghiên cứu mới về thành phần hóa học ngoài tinh dầu
của quả quất góp phần tìm ra hợp chất các hợp chất thiên nhiên có dược tính cao từ
quả quất.

8
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN


1.1. Tìm hiểu chung về cây quất
Cây quất hay còn gọi là cây tắc, cây hạnh.
Cây Tắc, Quất, Hạnh thuộc họ cam Rutaceae, có tên khoa học là Citrus
microcarpa (Hassk) Bunge. Tiếng Anh, Pháp gọi là Kumquat, Clementine. Có
nguồn gốc từ châu Á nhiệt đới, Trung Quốc, Nhật Bản, được trồng từ lâu ở nước ta
nhất là ở Cái Mơn, để lấy quả làm nước uống, làm mứt ăn hoặc làm cây cảnh để
trang trí vào những dịp Tết [4], [10].
1.1.1. Đặc điểm hình thái cây quất
Cây quất là cây nhỏ, cao cở 1m - 1,5m, thân dẻo màu xanh xám, phân nhiều
cành nhánh, lá đơn hình bầu dục, màu xanh thẫm, cuốn có cánh rất nhỏ, có đốt ở
đầu. Hoa thường đơn độc, nở xòe 5 cánh màu trắng tươi, rất thơm, chùm nhụy rất
ngắn. Hoa đậu thành quả hình cầu, lúc còn non màu xanh bóng, khi già chín đổi
thành màu vàng cam, rất đẹp. Bên trong ruột có nhiều múi màu vàng nhạt, chứa
nhiều nước chua gắt nên thường dùng để làm nước uống với đường rất đã khát hoặc
làm mứt để ăn…

Hình 1.1. Đặc điểm hình thái cây quất và quả quất
1.1.2. Phân bố và thông dụng trong đời sống
Cây quất một loài cây thuộc loài Citrus, họ Rutaceae (họ Cam), phổ biến là
loại Citrus japonica Thumb (Fortunella jabonica Swing) được trồng khắpnơi ở nước
ta nhất là ở Cái Mơn. Quả quất được thu hái quanh năm, vỏ có thểởdạng vỏ khô,
tươi hoặc vào mùa đông lạnh để tách lấy tinh dầu là một thuận lợi lớn trong nghiên
cứu và trong sản xuất đại trà thu tinh dầu Citrus [9]. Quả quất có mùi thơm, vị ngọt,
chua và tinh dầu thơm cay của vỏ. Quả quất được dùng dưới dạng quả còn non hoặc
đã chín. Theo Đông y, quả quất vị ngọt chua, tính ấm, vào các kinh phế, vị, can. Nó
có công năng hóa đảm, trị ho, giải uất, tiêu thực, giải rượu. Vỏ có tác dụng mạnh
hơn. Quất để càng lâu càng tốt.
Hạt quất có tác dụng giảm ho, cầm máu, chống nôn, lá quất có nhiều tinh
dầu, có tác dụng chữa cảm mạo phong hàn rất tốt [4].


9
1.2. Tìm hiểu chung về tinh dầu
1.2.1. Những nét đặc trưng của tinh dầu
Tinh dầu gồm nhiều hợp chất dễ bay hơi ( chủ yếu là các tecpen và
các
tritecpenonit), có mùi đặc trưng tùy thuộc vào nguồn gốc cung cấp nguyên liệu
tinh
dầu. Hệ thực vật có tinh dầu khoảng 3000 loài, trong đó có 150- 200 loài có ý
nghĩa
công
nghiệp.

Tinh dầu là hỗn hợp các chất hữu cơ tan lẫn vào nhau, có mùi đặc trưng. Ở
nhiệt độ thường hầu hết tinh dầu ở thể lỏng, có khối lượng riêng bé hơn 1 (trừ một
vài tinh dầu như quế, đinh hương…), không tan trong nước hoặc tan rất ít, nhưng lại
hòa tan tốt trong dung môi hữu cơ như ancol, ete, chất béo…Tinh dầu bay hơi với
hơi nước, có vị cay và ngọt, nóng bỏng và có tính sát trùng mạnh [15].
Tinh dầu có hai loại: Nguyên chất và tinh dầu hỗn hợp.
Tinh dầu nguyên chất: Hoàn toàn không có độc tố

không có chất bảo quản
hóa học nên rất an toàn cho người sử dụng

và mang lại kết quả nhanh khi điều trị.
Tinh dầu xuất phát từ nhiều quốc gia. Một trong các nhà cung cấp tinh dầu tại Việt
Nam là công ty Tinh Dầu Thiên Nhiên.
Tinh dầu không nguyên chất được pha trộn với các loại tinh dầu khác nhau.
Thành phần hóa học của tinh dầu gồm tecpen và những dẫn xuất chứa oxi
của tecpen (như ancol, anđehit, xeton, ete…). Mặc dù có nhiều cấu tử như vậy
nhưng thường một vài cấu tử chính có giá trị và có mùi đặc trưng cho tinh dầu đó

[4].
Phương pháp phổ biến để tách tinh dầu từ cây cỏ là chưng cất bằng lôi
cuốn
hơi
nước. Nếu các chất trong tinh dầu bị phân hủy bằng chưng cất lôi cuốn
hơi nước
thì
người ta sử dụng phương pháp chiết bằng dung môi hữu cơ (ví dụ
như ete dầu
hỏa,
benzen…). Về mặt thực hành tinh dầu có thể xem như “một hỗn
hợp thiên nhiên

mùi, phần lớn có nguồn gốc từ thực vật”, chỉ có một số ít nguồn
gốc từ động
vật.
Tinh dầu được phân bố rộng trong hệ thực vật, đặc biệt tập trung
một số họ như
họ
hoa tán, họ cúc, họ hoa môi, họ long não, họ sim, họ cam, họ
gừng…Tinh dầu
được
chiết từ mọi bộ phận của cây như cánh hoa, lá, cành, rễ,
vỏ trái, hạt,
vỏ cây…

Tinh dầu chứa trong thực vật có thành phần không ổn định. Hàm lượng tinh
dầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, di truyền, đất
trồng,
phân bón, thời tiết,


10

ánh sáng, thời điểm thu hoạch. Trong các bộ phận của cây hàm lượng tinh dầu
cũng khác nhau. Cần phải hiểu biết như vậy để xác định thời gian thu hái cho hàm
lượng tinh dầu nhiều nhất và chất lượng tốt nhất. Tinh dầu là sản phẩm cuối
cùng
của quá trình trao đổi chất và không được sử dụng trở lại cho hoạt động sống
của cây [14].
1.2.2 Tính chất lý-hóa của tinh dầu
1.2.3.1. Tính chất vật lý
Ở nhiệt độ thường, tinh dầu ở thể lỏng, trừ một số trường hợp đặc biệt như
menthol, camphor…là ở thể rắn.
Tinh dầu gần như không tan trong nước và dễ bay hơi, do vậy có thể tách thu
tinh dầu bằng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước. Tinh dầu rất ít tan trong
nước, tan tốt trong cồn và các dung môi hữu cơ, các loại dầu mỡ, có thể tan một
phần trong dung dịch kiềm,…
Đa số tinh dầu không có màu hoặc màu vàng nhạt, một số tinh dầu có màu,
như tinh dầu quế có màu nâu sẫm, tinh dầu thymus có màu đỏ. Tinh dầu thường có
vị cay và hắc.
Tỷ trọng của tinh dầu thường khoảng 0,80 - 0,95, có một số tinh dầu nặng
hơn nước như tinh dầu đinh hương, tinh dầu quế. Tỷ trọng thay đổi theo thành phần
hóa học. Nếu tinh dầu có thành phần chủ yếu là hydrocarbon tecpenic thì tỷ trọng
thấp, tinh dầu có hợp chất chứa oxi hoặc nhân thơm thì tỷ trọng cao hơn.
Tinh dầu thường có chỉ số khúc xạ vào khoảng 1,45 - 1,56. Chỉ số khúc xạ
cao hay thấp tùy theo thành phần các chất chứa trong tinh dầu là no, không no hoặc
nhân thơm. Nếu trong tinh dầu có nhiều thành phần có nhiều nối đôi thì có chỉ số
khúc xạ cao. Chỉ số khúc xạ bị ảnh hưởng bởi yếu tố nhiệt độ. Khi đo chỉ số khúc
xạ ở những nhiệt độ khác nhau thì cho kết quả khác nhau, nhiệt độ càng lớn thì chỉ
số khúc xạ biến thiên theo hướng giảm và ngược lại.

Góc quay cực (α)
D
của tinh dầu thể hiện khả năng hòa tan của tinh dầu trong
các loại dung môi, nếu (α)
D
càng lớn thì có thể hòa tan tốt trong dung môi phân cực,
ngược lại (α)
D
càng bé thì có thể hòa tan tốt trong dung môi không phân cực. Nhiệt
độ ảnh hưởng tới góc quay cực, nhiệt độ khi đo góc quay cực tăng thì góc quay cực
cũng tăng theo và ngược lại [15].

11

Vì tinh dầu là hỗn hợp nên không có nhiệt độ sôi nhất định. Điểm sôi của
tinh dầu thay đổi tùy theo thành phần hợp chất. Ví dụ, hợp chất tecpen có điểm sôi
là 150-160
0
C, hợp chất sesquitecpen có điểm sôi cao hơn khoảng 250-280
0
C, còn
các hợp chất polytecpen có điểm sôi trên 300
0
C. Từ đó, ta có thể tách riêng các
thành phần khác nhau trong tinh dầu bằng phương pháp chưng cất phân đoạn. Khi
hạ nhiệt độ một số tinh dầu có thể kết tinh như tinh dầu hồi, tinh dầu bạc hà, tinh
dầu xá xị…
1.2.3.2. Tính chất hóa học
Dưới ảnh hưởng của nhiệt độ, ánh sáng, không khí, nước, tinh dầu dễ bị oxi
hóa và có thể bị nhựa hóa một phần. Ancol trong tinh dầu bị oxi hóa biến thành

anđehit, anđehit biến thành axit.
Các hợp chất có nối đôi dễ bị oxi hóa hoặc tham gia vào phản ứng cộng hợp.
Các hợp chất xeton và anđehit dễ bị ancol hóa tạo nhựa khi có mặt của kiềm.
Nhiều thành phần có các nhóm chức khác nhau có thể tham gia các phản ứng
hóa học, làm thay đổi tính chất của tinh dầu.
1.2.3. Thành phần và tính chất lý-hóa của tinh dầu vỏ quả quất
Tinh dầu vỏ quả quất là chất lỏng trong suốt, có màu vàng nhạt, có mùi thơm
đặc trưng rất dễ chịu. Trong tinh dầu có chứa khoảng 25 thành phần, trong đó thành
phần chủ yếu của tinh dầu là D – Limomen chiếm trên 85%, bên cạnh đó còn có
một số chất khác như 1R-alpha-pinen, Beta-pinen, sabinen, limonen, b-ocimen,
linalol Đặc biệt là ở tinh dầu vỏ quất có sự hiện diện của 7,7-dimethyl-2-methylen
bicyclo [2.2.1] heptan và 1,2,3,4a,5,6,8a-octahydro-7-methyl-4-methylen-1-
(methylethyl) naphthalen mà không phát hiện ở 4 loại tinh dầu cam, chanh, bưởi,
quýt. Rất có thể sự khác biệt trong thành phần hóa học này góp phần vào sự khác
biệt về hoạt tính sinh học, cụ thể là tác dụng giải lo âu của tinh dầu quất.
Từ công trình nghiên cứu Tách tinh dầu và alkaloid từ quả quất trong Hội
nghị Khoa học và Công nghệ lần 9 đã tìm ra thành phần hóa học của tinh dầu vỏ
quất.



12

Bảng 1.1. Thành phần hóa học của tinh dầu vỏ quả quất [6]
STT Thành phần hóa học a (%) b(%)
1 Limonen 93,12 89,02
2 1R-alpha-pinen 1,16 -
3 Beta-pinen - 1,29
4 Beta-myrcen - 4,59
5 p-men-6,8-dien-2-one - 0,57

6 Bixylo [3.1.3]-heptan-6,6-đimethyl-2-methylen 2,21 -
7 m-Metha-4,8-dienee,(1S,3S)-(+)- 0,23 -
8 Santolia triene 0,32 -
9 Germacrene D 1,71 0,79
10 Hexanedioc axit, mono (2-ethylhexyl) este 1,25 -
11 p-menth-8-ene-1,2-epoxy - 0,31
12 Axetic axit, geraniol este - 0,92
13 Diisooctyl phthalate - 0,47
14 Lauraldehyde - 0,47
15 3-carene - 1,19
16 Pinal-2,3-epoxy - 0,31
17 Nonanal - 0,17
a (%): hàm lượng thành phần theo phương pháp chưng cất hơi nước.
b (%): hàm lượng thành phần theo phương pháp chiếu xạ vi sóng.
Từ việc khảo sát hoạt tính giải lo âu của một số tinh dầu từ vỏ quả cây chi
Citrus họ Rutacece của Dương Phước An, Huỳnh Thị Bích Tuyền, Nguyễn Ngọc
Khôi cũng đã tìm ra được các thành phần trong tinh dầu vỏ quả quất
Bảng 1.2. Thành phần hóa học của tinh dầu vỏ quả quất [1]
STT

Thành phần Công thức Tắc (%)
1 4-methyl-(1-methylethyl) bicyclo[3.1.0]hex-2-en C
10
H
16
0,15
2 1R-alpha-pinen C
10
H
16

0,64
3 4-methylen-1-(1-methylethyl) cyclohexen C
10
H
16
0,77

13

4 Beta-pinen C
10
H
16
2,17
5 Limonen C
10
H
16
94,74
6 2-methyl-5,1-methylethyl bicyclo[3.1.0]hexan-2-ol C
10
H
18
-
7 7,7-dimethyl-2-methylen bicyclo[2.2.1]heptan C
10
H
16
0,21
8

1,2,3,4,4a,5,6,8a-octahydro-7-methyl-4-methylen-
1-(methylethyl) naphthalen
C
15
H
24
1,32

Bảng 1.3. Các chỉ số hóa- lý của tinh dầu

Chỉ số hóa-lý Giá trị
Tỷ trọng d
25

Chiết suất n
D
30

Tỷ lệ tinh dầu hòa tan trong cồn 90
0
ở 25
0
C
Độ sôi,
0
C
Năng suất quay cực, [α]
D
30


Chỉ số axit
Chỉ số xà phòng
Chỉ số este
Chỉ số iod
0,84
1,4673
1:4,775
176
+ 92,8
0,54
6,86
6,32
56,375

1.2.4. Ứng dụng của tinh dầu vỏ quả quất
Tinh dầu cam, chanh, quất, có mùi hương thanh thản, dễ chịu. Cây quất
ngoài công dụng làm cảnh, tinh dầu từ quả quất có rất nhiều công dụng, rất thiết
thực trong đời sống như: Chống nấm móng tay, giúp ngủ ngon, trị đau đầu, tạo cảm
giác ngon miệng, khử mùi, hạ đường huyết, giảm đầy hơi… Ngoài ra tinh dầu quất
còn giúp ngăn ngừa phát sinh ung thư gan, thực quản, đại tràng, da Các nhà khoa
học Nhật Bản cho biết, ăn quất cả vỏ sẽ cho vitamin C, chất xơ rất có lợi cho tiêu
hóa và hạ được cholesterol, làm vững chắc thành mạch, chữa bệnh tăng huyết áp…
Dùng vỏ quýt hay quất ngâm rượu trong một thời gian, rượu sẽ có mùi thơm
dễ chịu hơn. Nếu cho vào ly nước vài miếng vỏ quýt, quất nước sẽ rất thơm ngon.

14

Vỏ cam, quýt, bưởi, quất khô khi đốt lên giúp xua muỗi. Đốt vỏ quất khô trong
phòng thì mùi khó chịu sẽ biến mất.
1.3. Phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước

1.3.1. Nguyên tắc chung
Phương pháp lôi cuốn tinh dầu bằng hơi nước dựa trên nguyên lý của quá
trình chưng cất một hỗn hợp không tan lẫn vào nhau là nước và tinh dầu. Khi hỗn
hợp này được gia nhiệt, hai chất này dều bay hơi. Nếu áp suất của nước cộng với áp
suất của tinh dầu bằng với áp suất của môi trường, thì hỗn hợp sôi và tinh dầu được
lấy ra cùng với hơi nước.
Phương pháp này có ưu điểm về năng lượng do nhiệt độ sôi của hỗn hợp
thấp hơn nhiệt độ sôi của nước (100
0
C) trong khi nhiệt độ sôi của tinh dầu lớn hơn
100
0
C ở áp suất khí quyển. Ví dụ, khi chưng cất lôi cuốn tinh dầu thông bằng hơi
nước ở áp suất khí quyển, nhiệt độ sôi của dầu thông là 158
0
C nhưng nhiệt độ sôi
của hỗn hợp khoảng 95
0
C.
Chưng cất lôi cuốn hơi nước không đòi hỏi nhiều thiết bị phức tạp, nhưng có
khả năng cất gần như triệt để tinh dầu có trong nguyên liệu. Ngoài ra, phương pháp
còn cho phép phân ly các cấu tử có trong tinh dầu thành những phần riêng biệt có
độ tinh khiết cao hơn dựa vào sự khác biệt về tính chất bay hơi [15].
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng chính trong quá trình chưng cất [4]
1.3.2.1. Sự khuếch tán
Khi nguyên liệu được làm vỡ vụn thì chỉ có một số mô chứa tinh dầu bị vỡ
và cho tinh dầu thoát tự do ra ngoài theo hơi nước lôi cuốn đi. Phần lớn tinh dầu còn
lại trong các mô thực vật sẽ tiến dần ra bề mặt nguyên liệu bằng sự hòa tan và thẩm
thấu. Ở nhiệt độ nước sôi, một phần tinh dầu hòa tan vào trong nước có sẵn trong tế
bào thực vật. Dung dịch này sẽ thẩm thấu dần ra bề mặt nguyên liệu và bị hơi nước

cuốn đi. Còn nước đi vào nguyên liệu theo chiều ngược lại và tinh dầu lại tiếp tục
hòa tan vào lượng nước này. Quy trình này lặp đi lặp lại cho đến khi tinh dầu trong
các mô thoát ra ngoài hết. Đồng thời những hợp chất nào dễ hòa tan trong nước sẽ
được lôi cuốn trước.
Như vậy, sự hiện diện của nước rất cần thiết, cho nên trong chưng cất phải sử
dụng hơi nước quá nhiệt, chú ý tránh để nguyên liệu bị khô. Nhưng nếu lượng nước
sử dụng thừa quá thì cũng không có lợi, nhất là trong trường hợp tinh dầu có chứa

15

những cấu phần dễ tan trong nước. Nguyên liệu được làm vỡ vụn càng nhiều càng
tốt, cần cho lớp nguyên liệu có một độ xốp nhất định nào đó để hơi nước có thể đi
vào lớp này đồng đều và dễ dàng hơn.
1.3.2.2. Sự thủy giải
Những cấu phần este trong tinh dầu thường dễ bị thủy giải cho ra axit và
ancol khi đun nóng trong một thời gian dài với nước. Do đó, để hạn chế hiện tượng
này, sự chưng cất lôi cuốn hơi nước phải thực hiện trong thời gian càng ngắn càng
tốt.
1.3.2.3. Nhiệt độ
Nhiệt độ cao làm phân hủy tinh dầu. Do đó, khi tiến hành chưng cất phải
điều chỉnh nhiệt độ cho phù hợp với từng giai đoạn. Sau khi cấu phần dễ bay hơi đã
lôi cuốn đi hết có thể dùng hơi nước quá nhiệt (trên 100
0
C) để chưng cất (nên thực
hiện việc này ở giai đoạn cuối cùng của chưng cất). Tuy nhiên, hầu hết các tinh dầu
đều kém bền dưới tác dụng của nhiệt nên ta phải hạn chế thời gian chịu nhiệt độ cao
của tinh dầu.
Các yếu tố trên đều có mối liên hệ lẫn nhau khi tăng nhiệt độ thì sự khuếch
tán thẩm thấu sẽ tăng, sự hòa tan tinh dầu trong nước cũng sẽ tăng nhưng sự phân
hủy tinh dầu cũng sẽ tăng theo.

1.3.3. Chưng cất lôi cuốn hơi nước trực tiếp
Một số chất không tan trong nước nhưng dễ bị hơi nước nóng cuốn
theo,
người ta lợi dụng tính chất này để tách chất ra khỏi hỗn hợp phản
ứng.

Cách tiến hành chưng cất lôi cuốn hơi nước trực tiếp:
Cho chất định cất lôi cuốn hơi nước vào bình cất (tối đa bằng 1/3 thể tích
của
bình). Nối hệ thống bình cất với bình đun hơi nước nóng. Bình nước nóng

nối
với ống thủy tinh dài tận đáy để theo dõi áp suất của hệ thống cất. Khi áp
suất
hệ
thống cao thì nước ở ống thủy tinh tăng hoặc phun ra ngoài, lúc đó cần
mở khóa
3
thông để thông với áp suất khí
quyển.
Sau khi lắp xong hệ thống, mở khóa 3 thông để theo dõi áp suất của hệ
thống,
đun nước sôi ở bình nước. Nước ở bình nước sôi chỉ khoảng 2/3 thể tích
bình.
Mở
nước ở ống sinh hàn để làm lành hơi. Đ
óng
khóa 3 thông để hơi nước
sôi qua
bình

cất. Theo dõi lượng chất cất ra, khi kết thúc ngừng đun, mở khóa 3
thông, lấy
chất
cất
ra. [2].


16

Khi chưng cất cần chú ý chất có thể đóng rắn trong sinh hàn gây tắc ống,
dễ
nổ
nên cần phải thận trong khi sử dụng ống sinh
hàn.
Những ưu nhược điểm chung của phương pháp chưng cất:
* Ưu điểm:
- Thiết bị khá gọn gàng, dễ chế tạo, qui trình sản xuất đơn giản,
- Trong quá trình chưng cất, có thể phân chia các cấu tử trong hỗn hợp bằng
cách ngưng tụ từng phần theo thời gian,
- Thời gian chưng cất tương đối nhanh, nếu thực hiện gián đoạn chỉ cần 5-10
giờ, nếu liên tục thì 1 giờ đến 2 giờ 30 phút.
- Có thể tiến hành chưng cất với các cấu tử tinh dầu chịu được nhiệt độ cao.
* Nhược điểm:
- Không áp dụng phương pháp chưng cất vào những nguyên liệu có hàm
lượng tinh dầu thấp vì thời gian chưng cất sẽ kéo dài, tốn rất nhiều hơi và nước
ngưng tụ.
- Tinh dầu thu được có thể bị giảm chất lượng nếu có chứa các cấu tử dễ bị
thủy phân.
- Không có khả năng tách các thành phần khó bay hơi hoặc không bay hơi
trong thành phần của nguyên liệu ban đầu mà những thành phần này rất cần thiết vì

chúng có tính chất định hương rất cao như sáp, nhựa thơm
- Tiêu tốn một lượng nước khá lớn để làm nhưng tụ hỗn hợp hơi.
- Khó điều chỉnh các thông số kỹ thuật (nhiệt độ, áp suất), thời gian chưng
cất kéo dài.
- Nguyên liệu dễ bị cháy, khét, do bị thiếu nước, bị dính vào thiết bị.
1.4. Ly trích bằng chiếu xạ vi sóng [13]
1.4.1. Đại cương về vi sóng
Vi sóng (micro-onde, microwave) là sóng điện từ lan truyền với vận tốc ánh
sáng. Sóng điện từ này được đặc trưng bởi:
- Tần số f, tính bằng Hetz (Hz = cycles/s), là chu kỳ của trường điện từ trong
một giây, nằm giữa 300 MHz và 30 GHz.
- Vận tốc c là 300.000 km/giây.
- Độ dài sóng  (cm) là đoạn đường đi của vi sóng trong một chu kỳ, liên hệ
với tần số theo công thức  = c/f.

17

Hầu hết các lò vi sóng gia dụng đều sử dụng tần số 2450 MHz, ở tần số này
 = 12,24 cm.
1.4.2. Hiện tượng làm nóng
Một số phân tử, thí dụ như nước, phân chia điện tích trong phân tử một cách
bất đối xứng. Như vậy các phân tử này là những lưỡng cực có tính định hướng trong
chiều của điện trường. Dưới tác động của điện trường một chiều, các phân tử lưỡng
cực có khuynh hướng sắp xếp theo chiều điện trường này. Nếu điện trường là một
điện trường xoay chiều, sự định hướng của các lưỡng cực sẽ thay đổi theo chiều
xoay đó. Cơ sở của hiện tượng phát nhiệt do vi sóng là sự tương tác giữa điện
trường và các phân tử phân cực bên trong vật chất. Trong điện trường xoay chiều có
tần số rất cao (2,45x10
9
Hz), điện trường này sẽ gây ra một xáo động ma sát rất lớn

giữa các phân tử, đó chính là nguồn gốc sự nóng lên của vật chất.
Với một cơ cấu có sự bất đối xứng cao, phân tử nước có độ phân cực rất lớn,
do đó nước là một chất rất lý tưởng dễ đun nóng bằng vi sóng. Ngoài ra, các nhóm
định chức phân cực như: -OH, -COOH, -NH
2
… trong các hợp chất hữu cơ cũng là
những nhóm chịu sự tác động mạnh của trường điện từ.
Do đó, những hợp chất càng phân cực càng rất mau nóng dưới sự chiếu xạ
của vi sóng. Việc này có liên quan đến hằng số điện môi của hợp chất đó. Tóm lại,
sự đun nóng bởi vi sóng rất chọn lọc, trực tiếp và nhanh chóng.
1.4.3. Tính chất
Vi sóng có đặc tính là có thể đi xuyên qua được không khí, gốm sứ, thủy
tinh, polimer và phản xạ trên bề mặt các kim loại. Độ xuyên thấu tỉ lệ nghịch với
tần số, khi tần số tăng lên thì độ xuyên thấu của vi sóng giảm. Đối với một vật chất
có độ ẩm 50% với tần số 2450 MHz có độ xuyên là 10 cm. Ngoài ra, vi sóng có thể
lan truyền trong chân không, trong điều kiện áp suất cao…
Năng lượng của vi sóng rất yếu, không quá 10
-6
eV, trong khi năng lượng
của một nối cộng hóa trị là 5 eV, do đó bức xạ vi sóng không phải là một bức xạ ion
hóa.
Có một số công trình đã khẳng định được tính vô hại của vi sóng đối với sinh
vật. Chẳng hạn, khi nghiên cứu sự phát triển của enzim trong điều kiện vi sóng,
người ta nhận thấy rằng ảnh hưởng của vi sóng rất giống ảnh hưởng của các gia
nhiệt thông thường.

18

Vi sóng cung cấp một kiểu đun nóng không dùng sự truyền nhiệt thông
thường. Với kiểu đun nóng bình thường, sức nóng đi từ bề mặt của vật chất lần vào

bên trong, còn trong trường hợp sử dụng vi sóng, vi sóng xuyên thấu vật chất và
làm nóng vật chất ngay từ bên trong. Vi sóng tăng hoạt những phân tử phân cực,
đặc biệt là nước. Nước bị đun nóng do hấp thu vi sóng bốc hơi tạo ra áp suất cao tại
nơi bị tác dụng, đẩy nước đi từ tâm của vật đun ra đến bề mặt của nó.
1.4.4. Ly trích dưới sự hỗ trợ của vi sóng
Dưới tác dụng của vi sóng, nước trong các tế bào thực vật bị nóng lên, áp
suất bên trong tăng đột ngột làm các mô chứa tinh dầu bị vỡ ra. Tinh dầu thoát ra
bên ngoài, lôi cuốn theo hơi nước sang hệ thống ngưng tụ (phương pháp chưng cất
hơi nước) hoặc hòa tan vào dung môi hữu cơ đang bao phủ bên ngoài nguyên liệu
(phương pháp tẩm trích).
Lưu ý là mức độ chịu ảnh hưởng vi sóng của các loại mô tinh dầu không
giống nhau do kiến tạo của các loại mô khác nhau, ngay khi nguyên liệu được làm
nhỏ. Kết quả này được phản ánh qua thời gian ly trích.
Trong sự chưng cất hơi nước, việc ly trích tinh dầu có thể thực hiện trong
điều kiện có thêm nước hay không thêm nước vào nguyên liệu (trường hợp nguyên
liệu chứa nhiều nước, đây là đặc điểm của phương pháp chưng cất hơi nước dưới sự
hỗ trợ của vi sóng). Ngoài ra, nước có thể thêm một lần hoặc thêm liên tục (trường
hợp lượng nước thêm một lần không đủ lôi cuốn hết tinh dầu trong nguyên liệu) cho
đến khi sự ly trích chấm dứt.
Ngoài việc nước bị tác dụng nhanh chóng, các cấu phần phân cực (hợp chất
có chứa oxigen) hiện diện trong tinh dầu cũng bị ảnh hưởng bởi vi sóng. Ngược lại
các cấu phần hidrocarbon ít chịu ảnh hưởng của vi sóng (do chúng có độ phân cực
kém) nên sự ly trích chúng tựa như trong sự chưng cất hơi nước bình thường nhưng
với vận tốc nhanh hơn rất nhiều vì nước được đun nóng nhanh bởi vi sóng.
1.5. Đánh giá chất lượng tinh dầu bằng phương pháp hóa lý
1.5.1. Xác định chỉ tiêu cảm quan
1.5.1.1. Xác định dạng bề ngoài và màu sắc [15]
Xác định dạng bề ngoài và màu sắc của tinh dầu bằng cách quan sát một mẫu
tinh dầu có thể tích là 20ml đựng trong ống nghiệm thủy tinh xem tinh dầu trong
hay đục.


19

1.5.1.2. Xác định vị
Xác định vị của tinh dầu bằng cách trộn một giọt dầu với 1g đường kính rồi
nếm.
1.5.1.3. Xác định mùi
Xác định mùi của tinh dầu bằng cách nhỏ vài giọt tinh dầu lên một mảnh
giấy thấm rồi ngửi cứ 15 phút 1 lần trong khoảng 1 giờ.
1.5.2. Xác định chỉ tiêu lý-hóa
1.5.2.1. Xác định tỷ trọng [2]
Tỷ trọng của tinh dầu là tỷ số của khối lượng tinh dầu ở 25
0
C với khối lượng
của cùng một thể tích nước cất cũng ở nhiệt độ 25
0
C.
Cách xác định:
Lấy lọ đo tỷ trọng có ngấn chuẩn thể tích 25ml hoặc 50ml đem rữa sạch bằng
hỗn hợp sunfocromic, tráng kỹ bằng nước cất rồi tráng lại bằng axeton hay bằng
cồn và ete.
Đặt lọ và nút đã khô, nguội lên đĩa cân bên phải của một cân phân tích cùng
một số quả cân có khối lượng G đủ để cân bằng một bình cố định đã đặt ở đĩa cân
bên trái. G xác định chính xác đến 0,001g.
Lấy lọ ra, rót nước cất vào cho đầy quá ngấn chuẩn một chút, chú ý đừng để
cho bọt khí bám vào thành lọ. Đặt lọ vào môi trường ổn nhiệt ở 25
0
C ngập cho đến
cổ lọ. Để trong khoảng 20 – 30 phút cho nhiệt độ của nước đạt đến 25
0

C rồi lấy giấy
lọc hay giấy thấm đã cắt thành dãy nhỏ thấm đỡ nước thừa trong lọ vừa đúng đến
ngấn chuẩn. Lau khô cổ lọ kể cả phần phía trên ngấn chuẩn rồi đậy nút kín rồi lấy lọ
ra khỏi môi trường đều nhiệt. Lau khô bên ngoài lọ và để yên trong khoảng 15 – 20
phút cho nhiệt độ trở lại bình thường.
Sau đó đặt lọ lên đĩa cân bên phải cùng với một số lượng quả cân có khối
lượng G
1
đủ để cân bằng với bì cố định đã đặt ở đĩa cân bên trái. G
1
xác định với độ
chính xác như đối với G ở trên.
Lại lấy lọ ra đổ hết nước đi, vẩy cho khô, tráng lại bằng axeton hay bằng cồn
ete rồi làm cho khô như đã chỉ dẫn ở trên.
Qua phễu có cuốn nhỏ (hoặc ống tiêm kéo dài thành phễu) đổ tinh dầu vào lọ
cho đầy quá ngấn chuẩn một chút, chú ý đừng để cho tinh dầu dây vào cổ lọ và
đừng để bọt khí bám vào thành lọ. Đặt vào môi trường đều nhiệt ở 25
0
C trong

20

khoảng 20 – 30 phút, đều chỉnh tinh dầu cho đến đúng ngấn chuẩn, lấy ra lau khô,
đem cân, tất cả đều làm như chỉ dẫn ở trên. Khối lượng các quả cân dung lần này là
G
2
với độ chính xác như trên.
Tính kết quả:
Tỷ trọng (d) tính bằng công thức:


2
1
G G
d
G G




Trong đó:
G: khối lượng của các quả cân ứng với khi cân lọ không, tính bằng gam (g).
G
1
: khối lượng của các quả cân ứng với khi cân lọ có đựng nước cất, tính
bằng gam (g).
G
2
: khối lượng của các quả cân ứng với khi cân lọ có đựng tinh dầu, tính
bằng gam (g).
Sai lệch giữa hai lần xác định liên tiếp không lệch quá 0,001.
Kết quả cuối cùng là trung bình cộng của kết quả hai lần xác định liên tiếp.
Nếu không thể xác định tỷ trọng của tinh dầu ở nhiệt độ 25
0
C thì xác định ở
nhiệt độ ghi trong bảng tiêu chuẩn về tinh dầu đó.
1.5.2.2. Xác định chỉ số khúc xạ [2]
Xác định chỉ số khúc xạ ở 25
0
C theo phương pháp đo góc giới hạn bằng khúc
xạ kế kiểu Abbe có đèn natri hay bộ phân bổ chính triệt tiêu hiện tượng tán sắc.

Cách xác định:
Điều chỉnh máy: Cho một dòng nước có nhiệt độ thích hợp chảy qua bộ lăng
kính, lấy bông hút nước hay vải mềm tẩm ete hoặc axeton lau sạch mặt lăng kính.
Nhỏ hai đến ba giọt nước cất lên mặt lăng kính mờ bên dưới, nhanh tay và nhẹ
nhàng nâng lăng kính này lên áp vào lăng kính bên trên rồi khóa lại. Khi nhiệt kế
chỉ đúng 25
0
C vặn núm xoay độ lăng kính và vành chia độ cho đến khi số 1,3325
của vành chia độ trùng với vật chuẩn. Nhìn vào thị kính, nếu không có đèn natri mà
dùng ánh sáng thường thì sẽ có hiện tượng tán sắc, khi đo vặn núm xoay bộ phân bổ
chính nhằm triệt tiêu hiện tượng đó để thấy rõ ranh giới giữa hai miền sáng và tối
của thị trường. Rồi xoay thị kính để nhìn thấy thật sắc nét vạch chuẩn chữ thập giữa
thị trường. Nếu ranh giới giữa hai miền sáng và tối của thị trường cắt đúng ngay
vạch chữ thập thì máy tốt. Nếu cắt chưa đúng dùng chìa khóa riêng kèm theo máy

21

cắm vào trụ vuông nhỏ ở sườn ống ngắm và vặn từ từ đưa ranh giưới giữa hai miền
sáng và tối cắt đúng giao điểm của vạch chữ thập. Rút chìa khóa cất đi.
Như thế là máy điều chỉnh xong.
Đo chỉ số khúc xạ:
Mở hộp lăng kính, lấy bông hút nước (hay vải mềm) lau khô mặt lăng kính
rồi lại lấy bông hút tẩm ete hoặc axeton lau lại một lần nữa. Rỏ 2 -3 giọt tinh dầu
lên mặt lăng kính mờ bên dưới rồi lắp lăng kính này vào lăng kính bên trên như đã
chỉ dẫn. Khi nhiệt kế chỉ đúng 25
0
C thì nhìn vào thị kính, sữa hiện tượng tán sắc
nếu có rồi từ từ vặn núm xoay bộ lăng kính để đưa ranh giới giữa hai miền sáng tối
cắt đúng giao điểm của vạch chữ thập. Nhìn sang vành chia độ và đọc chỉ số khúc
xạ ở ngang vạch chuẩn. Xác định lại vị trí giữa hai ranh giới sáng và tối và đọc chỉ

số ba lần.
Lấy giá trị trung bình làm kết quả.
Sai số cho phép của kết quả là 0,0002.
1.5.2.3. Xác định góc quay cực [2]
Góc quay cực được xác định ở nhiệt độ phòng.
Cách tiến hành:
Điều chỉnh máy: Đổ nước cất vào đày ống của phân cực kế, chú ý tránh có
bọt khí bên trong. Vặn chặt nắp đậy ống. Đặt ống vào máng của phân cực kế đã bật
đèn sáng. Nhìn vành thị kính, lúc đó sẽ nhìn thấy những miền sáng không đồng đều
nhau. Xoay thị kính cho vừa mắt để nhìn ranh giới giữa các miền cho thật sắc nét.
Xoay đĩa chia độ (tức là xoay kính phân tích) cho những mền của thị trường đều
sáng như nhau. Xem vạch chuẩn trên vành chia độ để xác định sai lệch của điểm 00
so với điểm 0 của du xích.
Đo góc quay cực: Lấy ống trong máy ra, tháo nước đi và lau ống cho thật
khô. Đổ tinh dầu cho đầy ống và tiếp tục làm như khi điều chỉnh máy. Sau khi đã
chia dĩa chia độ cho những miền của thị trường sáng điều nhau xem vạch chuẩn trên
vành chia độ và đọc kết quả. Hiệu chỉnh với độ sai lệch của điểm 00 so với điểm 0
của du xích (kết quả khi điều chỉnh máy) để được trị đúng của góc quay cực.
1.5.2.4. Xác định độ hòa tan trong etanol [2]
Tỷ trọng của etanol 90% (% theo thể tích) ở 25
0
C là 0,8098 – 0,8117, etanol
96% là 0,8038 - 0,8063.

22

Cách pha:
Muốn pha etanol 90% lấy 937,5ml etanol 96% rồi pha loãng bằng nước cất
cho tới 1 lít, đo tỷ trọng và điều chỉnh.
Cách xác định:

Ngâm lọ đựng tinh dầu cần thử cho đến khi tinh dầu có nhiệt độ 25
0
C. Dùng
pipet có ống nghiệm hay một ống đo dung tích 20ml có chia vạch và có nút mài.
Nếu không có ống chia vạch có thể dung một bình nón dung tích 50ml.
Từ buret nhỏ dần dần etanol có nồng độ xác định vào ống đựng tinh dầu.
Ống này phải ngâm trong nước có nhiệt độ 20
0
C. Sau mỗi lần nhỏ khoảng 0,2ml
vào đậy nút lại và lấy ống ra lắc đều cho đến khi tan hết tinh dầu rồi lại ngâm vào
nước ở 25
0
C. Tiếp tục nhỏ etanol và làm như trên cho đến khi được một dung dịch
trong suốt. Ghi lượng etanol đã dùng.
Để đỡ mất thời giờ có thể sử dụng sơ bộ bằng cách cho mỗi lần 0,5 hay 1ml
etanol để biết độ hòa tan ở khoảng nào. Sau đó làm lại để xác định độ hòa tan chính
xác đến 0,2ml.
Trường hợp nhiệt độ phòng trên 25
0
C có thể hòa tan một cách bình thường
nghĩa là không cần phải ngâm ống sau mỗi lần nhỏ dung môi. Chỉ sau khi dung dịch
trở nên trong suốt mới cần ngâm ống vào nước có nhiệt độ thích hợp để nhiệt độ
của dung dịch trở về 25
0
C. Nếu không có hiện tượng đục trở lại thì coi là được và
ghi thể tích etanol đã dùng.
1.5.2.5. Xác định chỉ số axit [2]
Phương pháp xác định dựa trên sự trung hòa axit tự do trong chất thử dung
dịch kiềm:
RCOOH + KOH RCOOK + H

2
O
Từ lượng kiềm đã dùng, biết khối lượng của phân tử axit, tính ra lượng axit.
Hàm lượng axit được biểu thị bằng chỉ số axit nghĩa là lượng mg KOH cần
để trung hòa 1g chất thử hoặc biểu thị bằng phần trăm.
Cách tiến hành:
Cân chính xác 2g tinh dầu không lẫn nước cho vào một bình cầu để và phòng
hóa dung tích từ 100 – 200ml có ống làm lạnh bằng không khí dài 1m, đường kính
0,1cm. Cho vào 10ml etanol trung tính 96% ở 20
0
C, nhỏ vào 10 giọt dung dịch
phenolphthalein trung tính 0,2g trong 100ml etanol.

23

Chuẩn độ đến xuất hiện màu hồng vững bền trong 30 giây.
Tính kết quả:
Chỉ số axit (X
1
) tính theo công thức:

1
.5,61
v
X
G


Trong đó:
V (ml): thể tích dung dịch KOH 0,1N trong rượu đã dùng để chuẩn độ

G: lượng chất thử đã cân tính bằng gam.
5,61: số mg KOH có trong 1ml dung dịch KOH 0,1N trong rượu
Hàm lượng axit theo phần trăm (X
2
) tính bằng công thức:
2
. .100 .
10. .1000. .100.
v M v M
X
G b G b
 

Trong đó:
M: khối lượng phân tử của axit
b: độ bazơ của axit
G: lượng chất thử đã cân tính bằng gam
















24

CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất và dụng cụ
2.1.1. Hóa chất
- Na
2
SO
4
rắn - Dietyl ete (CH
3
CH
2
)
2
O
- NaCl rắn - Clorofom CHCl
3

- KOH rắn - Axeton
- HCl đặc - n-hexan
- FeCl
3
- Thuốc thử Tollens
- [K
3
Fe(CN)
6

] - Thuốc thử Felling
- Silicagen - Thuốc thử Wagner
2.1.2. Dụng cụ
* Dụng cụ
- Hệ thống chưng cất lôi cuốn hơi nước cổ điển
- Hệ thống chưng cất lôi cuốn hơi nước với lò vi sóng
- Bản mỏng, cột sắc kí
- Phễu chiết, bình tam giác, và các dụng cụ cơ bản khác.
* Máy móc
- Tủ sấy, cân phân tích
- Hệ thống chưng cất lôi cuốn hơi nước theo phương pháp đun nóng
cổ điển
- Hệ thống chưng cất bằng chiếu xạ vi sóng
- Bộ cô quay chân không
- Máy đo phổ GC-MS

2.1.3. Các thuốc thử dùng cho định tính [7]
 Thuốc thử dùng để nhận biết Flavonoid
Flavonoid được xác định bởi phản ứng Shibata còn gọi là phản ứng Ciandin
của Wilstatter. Thuốc thử là tập hợp các hóa chất gồm: dung dịch HCl đậm đặc, bột
Mg kim loại, rượu isoamylic → nếu có một vòng màu hồng xuất hiện rồi từ từ chuyển
sang màu cam hay đỏ tím thì trong dịch thử có chứa Flavonoid.

25

Khảo sát sự hiện diện của flavonoid bằng thuốc thử sắt (III) clorua 3% trong
etanol → phản ứng dương tính khi dung dịch có màu từ xanh nhạt đến nâu (tùy theo
số lượng nhóm –OH).
Khảo sát sự hiện diện của flavonoid bằng thuốc thử sắt (III) clorua 1% +
kalihexaxianoferat (III) (K

3
[Fe(CN)
6
])→ phản ứng dương tính khi dung dịch có
màu xanh thẫm.
 Một số thuốc thử dùng để nhận biết Glycosid
- Thuốc thử Felling:
Dung dịch A: 40g CuSO
4
.5H
2
O trong 1 lít nước cất
Dung dịch B: 150g NaOH trong nước cất, thêm 50ml glyxerin vào NaOH.
Thêm nước cất đến 1 lít dung dịch
→ Khi sử dụng trộn 2 dung dịch A và B với thể tích bằng nhau. Hỗn hợp này
cho kết tủa vàng nhạt với dụng dịch có chứa glycosid.
- Thuốc thử Tollen: AgNO
3
trong dung dịch NH
3
tạo kết tủa khi tiếp xúc dịch
etanol
- Thuốc thử Baljet: Dung dịch axit picric 1% 20ml hỗn hợp với dung dịch
NaOH 5% 10ml →Nếu có xuất hiện 1 vòng màu vàng dịch chứa glycosid.
- Thuốc thử Molish: Dung dịch thymol 2% 1-2 giọt, H
2
SO
4
đậm đặc 1ml
→ Thuốc thử có màu tím nhạt, cho dịch etanol vào chuyển sang tím đậm

hơn. Trong dịch etanol có glycosid.
 Một số thuốc thử dùng nhận biết ankaloit
Có ba thuốc thử thông dụng
- Thuốc thử Mayer: Hòa tan 1.36g HgCl
2
trong 60ml nước cất và hòa tan 5g
KI trong 10ml nước cất. Hỗn hợp hai dung dịch và thêm nước cho đủ 100ml.
Cách thử: Nhỏ vài giọt thuốc thử Mayer vào dung dịch axit loãng có chứa
alkaloid, phản ứng dương tính sẽ cho kết tủa màu trắng hoặc vàng nhạt. Cần lưu ý
lượng kết tủa tạo thành có thể hòa tan trở lại trong lượng dư thuốc thử hoặc hòa tan
bởi metanol, etanol có sẵn trong dung dịch thử.
- Thuốc thử Wagner: Hòa tan 1.27g I
2
và 2g KI trong 20ml nước cất thêm
nước cho vừa đủ 100ml.
Cách thử: Nhỏ vài giọt thuốc thử Wagner vào dung dịch axit loãng có chứa
alkaloid, phản ứng dương tính sẽ cho kết tủa màu nâu.

×