Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Nghiên cứu tình hình ô nhiễm môi trường và đề xuất giải pháp quản lý nhằm khắc phục hạn chế ô nhiễm khu vực làng nghề thêu ren An Hoà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.38 MB, 122 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Những năm vừa qua, ở nhiều vùng nông thôn nước ta các làng
nghề đã phát triển khá mạnh và đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế -
xã hội của các địa phương. Song bên cạnh đó, tại đây cũng đã nảy sinh
nhiều vấn đề môi trường bức xúc, đòi hỏi sự quan tâm tháo gỡ kịp thời
của các ngành, các cấp, đặc biệt là chính quyền các địa phương nơi có
làng nghề.
Việc phát triển làng nghề là một phần quan trọng của công nghiệp
hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm đầu của
thế kỷ 21. Phát triển mạnh những ngành nghề, đẩy mạnh xuất khẩu các
sản phẩm truyền thống có giá trị kinh tế cao, sử dụng được nhiều lao
động là lợi thế của làng nghề địa phương. Đời sống nông dân ở nhiều
vùng nông thôn trong cả nước đã khấm khá lên do sản xuất nông nghiệp
phát triển đồng thời với việc khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhiều
làng nghề đã nêu được bài học về làm giàu ở nông thôn. Tuy nhiên chính
những nơi này đã và đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi
trường, cần phải giải quyết kịp thời.
Hiện nay, việc khôi phục và phát triển làng nghề nông thôn đang
có nhiều thuận lợi, được Nhà nước hộ trợ kinh phí và tìm đầu ra cho sản
1 | P a g e
phẩm. Tuy nhiên, do phát triển tự phát, ồ ạt và thiếu quy hoạch nên đã
dẫn tới hậu quả là môi trường ở các làng nghề đang bị ô nhiễm nghiêm
trọng. Tại nhiều làng nghề hiện nay đang bị ô nhiễm cả về: Vật lý, hóa
học và sinh học. Hiện trạng về ô nhiễm biểu hiện: Không khí thì bị ô
nhiễm về nhiệt, tiếng ồn, hơi độc, bụi khói và không gian sống thì ngày
càng bị thu hẹp do đất phải nhường chỗ cho sản xuất công nghiệp và các
công trình khác. Đất sản xuất nông nghiệp và nguồn nước sinh hoạt nhiều
nơi đang có nguy cơ bị ô nhiễm nặng do phế thải công nghiệp và sinh
hoạt. Cây xanh vốn là đặc trưng của nông thôn Việt Nam, nhưng nay đã
bị thu hẹp dần nhường chỗ cho các công trình xây dựng.


Ô nhiễm môi trường đã và đang tác động xấu đến sức khoẻ con
người, người dân làng nghề đang có nguy cơ mắc bệnh mà do ô nhiễm
môi trường gây nên.Ở làng giấy Phong Khê (Bắc Ninh) có 30% dân số bị
mắc các bệnh về da liễu, hô hấp và đường ruột. Tại làng nghề Bát Tràng
qua khảo sát 223 người dân thì có 76 người mắc bệnh đường hô hấp, 23
người bị lao. Còn tại làng nghề tái chế kim loại tỷ lệ người mắc bệnh
hiểm nghèo như ung thư, dị tật bẩm sinh tương đối cao [15, tr14].
Ô nhiễm môi trường nông thôn nói chung và môi trường các làng
nghề nói riêng hiện đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm.
Thêu ren là một nghề thủ công truyền thống đang phát triển mạnh ở
Thanh Liêm, Hà Nam. Công nghệ nhuộm, tẩy, giặt sợi đã sử dụng nhiều hoá
2 | P a g e
chất gây tác động xấu đến môi trường đất, nước. Để tìm hiểu hiện trạng môi
trường của làng nghề thêu ren huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tôi đã lựa
chọn đề tài: " Nghiên cứu tình hình ô nhiễm môi trường và đề xuất
giải pháp quản lý nhằm khắc phục hạn chế ô nhiễm khu vực làng
nghề thêu ren An Hoà ".
Đề tài thực hiện sẽ cung cấp thông tin cụ thể về hiện trạng môi
trường của khu vực làng nghề và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế
ô nhiễm môi trường phục vụ cho sự phát triển làng nghề bền vững.
3 | P a g e
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tình hình ô nhiễm môi trường và đề xuất giải pháp
quản lý nhằm khắc phục hạn chế ô nhiễm khu vực làng nghề thêu ren An
Hoà, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
* Yêu cầu:
- Khảo sát các hoạt động sản xuất của làng nghề phát sinh ô nhiễm môi
trường.
- Đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghề thêu ren An Hoà,
xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, dựa trên các hoạt động của

làng nghề.
- Tìm hiểu ảnh hưởng của hoạt động sản xuất của làng nghề, đến
môi trường trong làng nghề và sức khỏe người dân.
- Phân tích, dự báo ô nhiễm môi trường của làng nghề.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế ô nhiễm.
4 | P a g e
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Làng nghề với phát triển kinh tế xã hội nông thôn
2.1.1.1. Khái niệm và tiêu chí làng nghề
Có nhiều ý kiến đưa ra về khái niệm làng nghề. Theo Trần Minh
Yến khái niệm làng nghề bao gồm những nội dung sau.
Làng nghề là một thiết chế kinh tế xã hội ở nông thôn, được cấu
thành bởi hai yếu tố ngành và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý
nhất định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ
công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, văn hóa và xã hội.
Xét về mặt định tính: làng nghề ở nông thôn nước ta được hình
thành và phát triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn
hóa sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và chịu sự chi phối của
nông nghiệp và nông thôn. Làng nghề gắn liền với những đặc trưng của
nền văn hóa lúa nước và nền kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ tự cấp tự túc.
Xét về mặt định lượng: làng nghề là những làng mà ở đó có số
người chuyên làm nghề thủ công và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ
nghề đó chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng dân số của làng.
Tiêu chí để xem xét một cách cụ thể đối với một làng nghề điển
hình là: số hộ chuyên làm một hoặc nhiều nghề thủ công, phi nông nghiệp
5 | P a g e
chiếm ít nhất 30% tổng số hộ và lao động, ở làng nghề có ít nhất 50%
tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng, doanh thu hàng năm từ
ngành nghề ít nhất 300 triệu đồng (tính theo giá trị năm 2002) [4, tr25].

6 | P a g e
2.1.1.2. Đặc điểm chung của làng nghề
Ở mỗi làng nghề tuy bao giờ cũng có sự khác nhau về quy mô sản
xuất, quy trình công nghệ, tính chất sản phẩm nhưng đều có chung một số
đặc điểm sau:
- Lực lượng lao động trong làng nghề đa số là người dân sống
trong làng. Các ngành nghề phi nông nghiệp trong làng sẽ tạo ra sản
phẩm giúp cho người dân tăng thu nhập trong lúc nông nhàn.
- Hộ gia đình là đơn vị cơ bản của sản xuất với nguồn nhân lực từ
thành viên trong gia đình và cơ sở hạ tầng tự có. Nhờ vào nhân lực gia
đình đã tạo cho các hộ gia đình khả năng thu nhập không phân biệt lứa
tuổi và giới tính vì nó đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên trong
gia đình. Do đó, nó có thể huy động mọi người trong gia đình tham gia
tích cực vào việc tăng sản phẩm sản xuất của gia đình.
- Cơ sở sản xuất dịch vụ tại làng xã là nơi có nhiểu hộ gia đình
cùng tham gia. Điều này tạo nên tính chất riêng biệt của làng nghề, dẫn
đến xu thế độc quyền những nghề nghiệp, sản phẩm.
- Tính chuyên môn hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau trong các làng
nghề rất rõ rệt. Một số trường hợp, sự phân chia lao động trong làng nghề
phụ thuộc vào từng khâu trong quy trình sản xuất. Nghề càng phức tạp,
càng có nhiều công đoạn sản xuất thì tính chuyên môn hóa càng cao. Sự
7 | P a g e
phân chia này không chỉ trong một làng mà còn có thể mở rộng trong
nhiều làng.
- Phần lớn kỹ thuật - công nghệ của làng nghề còn lạc hậu, chủ yếu
vẫn sử dụng các thiết bị thủ công, bán cơ khí hoặc đã đã được cải tiến
một phần, đa số mua lại từ các cơ sở công nghiệp quốc doanh, các thiết bị
này đã cũ, không đồng bộ, không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật và điều
kiện làm việc cho người lao động. Công nghệ sản xuất đơn giản (đôi khi
còn lạc hậu), cần nhiều sức lao động (với kỹ thuật cũ mang lại lợi nhuận

thấp so với sức lao động đã bỏ ra).
- Biết tận dụng nguyên vật liệu và nhân lực thông qua kỹ năng lao
động và sự khéo léo để tạo thu nhập trong điều kiện thiếu vốn.
2.1.1.3 Phân loại và đặc trưng sản xuất của các làng nghề
Làng nghề với những hoạt động phát triển đã tạo ra những tác động
tích cực và tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội và môi trường nông thôn
Việt Nam với đặc thù hết sức đa dạng. Cần phải nhìn nhận theo nhiều
khía cạnh, góc độ khác nhau mới có thể hiểu rõ được bản chất cũng như
sự vận động của loại hình kinh tế này và các tác động của nó gây ra đối
với môi trường. Để giúp cho công tác quản lý hoạt động sản xuất cũng
như quản lý, bảo vệ môi trường và làm cơ sở thực tiễn để thấy được bức
tranh tổng thể về làng nghề Việt Nam, có thể phân loại làng nghề theo
một số dạng sau:
8 | P a g e
(1). Phân loại theo làng nghề truyền thống và làng nghề mới: dựa
trên đặc thù văn hoá, mức độ bảo tồn các làng nghề đặc trưng cho các
vùng văn hoá lãnh thổ khác nhau.
(2). Phân loại theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm: nhằm xác
định nguồn và khả năng đáp ứng nguyên liệu cho hoạt động sản xuất
cũng như phần nào thấy được xu thế và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của xã
hội.
(3). Phân loại theo quy mô sản xuất, theo quy trình công nghệ:
nhằm xác định trình độ công nghệ sản xuất và quản lý sản xuất của các
làng nghề qua đó có thể xem xét tiềm năng phát triển đổi mới công nghệ
sản xuất đáp ứng cho các nhu cầu đa dạng hoá sản phẩm và giảm thiểu ô
nhiễm môi trường.
(4). Phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm: nhằm phục vụ
mục tiêu đánh giá đặc thù, quy mô nguồn thải từ hoạt động sản xuất của
làng nghề.
(5). Phân loại theo mức độ sử dụng nguyên, nhiên liệu: nhằm xem

xét, đánh giá mức độ sử dụng tài nguyên tại các làng nghề, tiến tới có
được giải pháp quản lý và kinh tế trong sản xuất nhằm giảm lượng tài
nguyên sử dụng cũng như hạn chế tác động đến môi trường.
(6). Phân loại theo thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiềm năng tồn tại
và phát triển: nhằm xem xét tới các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và quan
9 | P a g e
trọng nhất đối với sự phát triển của làng nghề. Tuỳ thuộc vào các tiêu chí
mà ta áp dụng cách phân loại này hay phân loại kia.
Với mục đích nghiên cứu về môi trường làng nghề, cách phân loại
theo ngành sản xuất và loại hình sản phẩm là phù hợp hơn cả. Vì thực tế
cho thấy nếu đánh giá được ngành sản xuất, quy trình công nghệ sản
xuất, quy mô sản xuất thì sẽ đánh giá được tác động của sản xuất ngành
nghề đến môi trường.
Làng nghề nước ta phong phú về chủng loại, đa dạng về hình thức
đã tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng.
Cách tiếp cận tốt nhất là nhóm các làng nghề lại theo các kiểu sản phẩm
và phương thức sản xuất chính. Theo cách tiếp cận này, làng nghề được
xem xét đồng thời trên các mặt: quy trình sản xuất, sản phẩm sản xuất và
quy mô sản xuất. Phân loại làng nghề theo 6 nhóm: biểu đồ 2.1.
(Nguồn: tổng cục môi trường tổng hợp năm 2008)
10 | P a g e
BIỂU 2.1: PHÂN LOẠI LÀNG NGHỀ VIỆT NAM THEO NGÀNH NGHỀ SẢN
XUẤT
Sự phân chia theo nhóm ngành cho chúng ta thấy:
- Mỗi ngành chính có nhiều ngành nhỏ liên quan phụ thuộc vào
nhau tạo thành các nhóm ngành.
- Mỗi nhóm ngành làng nghề trong hoạt động sản xuất, sẽ gây ảnh
hưởng khác nhau đến môi trường.
2.1.1.4. Một số làng nghề chính ở Việt Nam
* Làng nghề chế biến lương thực phẩm, đi kèm với chăn nuôi có số

lượng làng nghề lớn (chiếm 20% số lượng làng nghề) phân bố đều trên cả
nước, phần nhiều sử dụng lao động nông nghiệp, không yêu cầu trình độ
cao, hình thức sản xuất thủ công, ít có thay đổi về quy trình sản xuất.
Nước ta có nhiều làng nghề thủ công truyền thống như nấu rượu, làm
bánh đa nem, đậu phụ , với các nguyên liệu chính là gạo, ngô, khoai,
sắn, đậu , các nghề này thường gắn với hoạt động chăn nuôi ở quy mô
gia đình.
* Làng nghề thêu, dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da đã có từ lâu đời,
nhiều sản phẩm đã gắn liền với truyền thống lịch sử, văn hoá đậm nét địa
phương. Những sản phẩm như lụa, tơ tằm, thổ cẩm, thêu ren, dệt may ,
không chỉ là những sản phẩm hàng hoá có giá trị mà còn là những tác
phẩm nghệ thuật được đánh giá cao. Tại các làng nghề nhóm này, lao
11 | P a g e
động nghề thường là lao động chính (chiếm tỷ lệ cao hơn lao động nông
nghiệp)
* Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá có từ lâu
đời, tập trung ở các vùng có sẵn nguyên liệu xây dựng. Lao động loại
làng nghề này chủ yếu là thủ công, quy trình công nghệ thô sơ, tỷ lệ cơ
khí hoá thấp. Khi nhu cầu về xây dựng nhà cửa, công trình tăng, hoạt
động sản xuất vật liệu xây dựng phát triển mạnh đặc biệt là các vùng núi
đá vôi.
* Làng nghề tái chế phế liệu chủ yếu mới hình thành, nên số lượng
ít nhưng lại được phát triển nhanh về loại hình tái chế (chất thải kim loại,
giấy nhựa, vải đã qua sử dụng). Ngoài ra, các làng nghề cơ khí, chế tạo và
đúc kim loại phế liệu sắt vụn, cũng là loại hình làng nghề.
* Làng nghề thủ công mỹ nghệ: bao gồm các làng nghề gốm, sành
sứ, thuỷ tinh mỹ nghệ, chạm khắc đá, chạm mạ vàng bạc, sản xuất mây
tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Đây là
nhóm làng nghề chiếm tỷ lệ lớn về số lượng (khoảng 40% tổng số làng
nghề) có truyền thống lâu đời, sản phẩm có giá trị cao, đậm nét văn hoá

dân tộc, có tính địa phương cao. Quy trình sản xuất của các làng nghề này
gần như không thay đổi, lao động thủ công nhưng đòi hỏi tay nghề cao,
đòi hỏi chuyên môn hoá và có tính chuẩn trong sáng tạo.
* Các nhóm ngành khác: bao gồm các làng nghề chế tạo công cụ
thô sơ như cầy bừa, quốc xẻng, liềm hái, đóng thuyền, làm quạt giấy, đan
12 | P a g e
vó đan lưới, làm lưỡi câu , những làng nghề nhóm này có từ lâu đời, sản
phẩm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của địa phương.
Lao động chủ yếu thủ công, thu hút nhiều lao động, sản phẩm ít có cải
tiến thay đổi.
13 | P a g e
2.1.1.5. Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội
(1). Chủ trương phát triển làng nghề
Thời gian qua, xác định vai trò quan trọng của làng nghề, ngành
nghề nông thôn, Đảng và Nhà nước đã tập trung chỉ đạo và ban hành
nhiều chính sách như Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2006 của
Chính phủ về chính sách phát triển ngành nghề nông thôn, nhằm thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, giải quyết việc làm tại chỗ, nâng
cao chất lượng cuộc sống thu nhập của người dân, tăng cường hoạt động
xuất khẩu.
Nghị định số 73/1995/NĐ-CP ngày 01/11/1995, Chính phủ đã giao
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước lĩnh vực ngành nghề nông thôn (Nghị quyết số 01/2008/NĐ-CP
ngày 03/01/2008 quy định chức năng của bộ NN &PTNT). Trên cơ sở đó,
Bộ NN &PTNT đã xây dựng, ban hành nhiều chính sách mà cụ thể là
Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 hướng dẫn thực hiện
một số nội dung của nghị định 66/2006/NĐ-CP, Chỉ thị số 28/2007/CT-
BNN ngày 18/04/2007 về việc đẩy mạnh thực hiện quy hoạch phát triển
ngành nghề nông thôn và phòng chống ô nhiễm môi trường làng nghề

cũng như đã có nhiều văn bản chỉ đạo nhằm thúc đảy phát triển làng
nghề.
14 | P a g e
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2006 - 2015 của
bộ NN &PTNT là thực hiện chương trình “mỗi làng một nghề”, với mục
tiêu khôi phục và phát triển làng nghề nông thôn để tạo việc làm, tạo thu
nhập từ phi nông nghiệp với các hoạt động như: hỗ trợ phát triển làng nghề
nông thôn, khuyến khích các hộ gia đình, tư nhân, HTX, doanh nghiệp vừa
và nhỏ, đầu tư phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đa dạng, đào
tạo nghề và hỗ trợ chuyển lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp, xây
dựng cơ chế quản lý chất thải làng nghề
(2). Làng nghề với sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn
Điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một yếu tố cực kỳ quan trọng hỗ trợ
phát triển các làng nghề. Khả năng tiếp cận thông tin, điện, nước sạch, giao
thông và các yếu tố khác về cơ sở vật chất là rất cần thiết cho sự phát triển của
các làng nghề. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt sẽ góp phần mục tiêu nâng
cao chất lượng cuộc sống của người dân, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo ở
nước ta thông qua việc phát triển các ngành nghề tại các làng nghề. Ngược lại,
sự phát triển kinh tế của các làng nghề cũng góp phần đổi mới bộ mặt nông
thôn, cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại đây. (Biểu đồ 2.2)
15 | P a g e
BIỂU ĐỒ 2.2: TỶ LỆ CÁC LÀNG NGHỀ CÓ CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI TRONG
TỔNG SỐ CÁC LÀNG NGHỀ ĐƯỢC KHẢO SÁT
Hạ tầng cơ sở ở những nơi tập trung nhiều làng nghề như khu vực
đồng bằng sông HồngH, Bắc trung bộ và Đông Nam Bộ nhìn chung phát
triển khá tốt do các làng nghề phần lớn được hình thành, phát triển ở
những nơi tiếp cận thuận lợi mạng lưới đường quốc lộ, tỉnh lộ, cùng sự hỗ
trợ của các chính sách từ chính quyền tỉnh, thành phố nhằm thúc đẩy
mạnh mẽ phát triển làng nghề. Khu vực miền núi, cũng có một số làng
nghề phát triển, tuy nhiên điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật vẫn không

được chú trọng đầu tư do phần lớn làng nghề ở đây không nhằm mục tiêu
phục vụ thị trường mà chủ yếu sản phẩm chỉ phục vụ đời sống nhân dân
khu vực lân cận.
(3). Làng nghề và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn
Tại các làng nghề, đại bộ phận dân cư làm nghề thủ công nhưng vẫn
tham gia sản xuất nông nghiệp ở một mức độ nhất định. Tại nhiều làng
nghề, trong cơ cấu kinh tế địa phương, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch
16 | P a g e
(Nguồn: Bộ kế h daoạch và đầu tư, 2007)
vụ đạt 60 - 80% và ngành nông nghiệp chỉ đạt 20 - 40%. Trong những năm
gần đây, số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn đang ngày một tăng lên với
tốc độ bình quân từ 8,8 - 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu từ các sản phẩm
làng nghề không ngừng gia tăng (biểu đồ 2.3). Chính vì vậy, có thể thấy,
làng nghề đóng vai trò rất quan trọng, trực tiếp giải quyết việc làm cho
người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu nhập, nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người lao động ở khu vực nông thôn. Bên cạnh việc
tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động ở khu vực nông thôn còn tạo thêm
việc làm cho lao động phụ như người già, trẻ em, người khuyết tật .
(Nguồn: Bộ NN &PTNT - 2008)
BIỂU ĐỒ 2.3: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU TỪ CÁC SẢN PHẨM LÀNG NGHỀ
CỦA VIỆT NAM
Mức thu nhập của người lao động ngành nghề cao gấp 3 đến 4 lần so
với thu nhập của người lao động thuần nông. Điều này cũng khiến số hộ gia
đình chuyển từ sản xuất thuần nông sang sản xuất thủ công nghiệp và
17 | P a g e
Đơn vị tính: triệu USD
chuyên làm nghề ngày càng tăng nhanh. Báo cáo “Nghiên cứu về quy hoạch
phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá nông thôn của
nước CHXHCN Việt Nam” do bộ NN &PTNT thực hiện năm 2004 đã chỉ
ra rằng, tỷ lệ hộ nghèo trung bình trong số hộ sản xuất thủ công nghiệp là

3,7% thấp hơn nhiều mức trung bình cả nước là 10,4%.
(4). Làng nghề truyền thống và hoạt động phát triển du lịch
Lợi ích của việc phát triển làng nghề không chỉ là ở kinh tế, giải
quyết việc làm cho lao động địa phương mà còn góp phần bảo tồn được
giá trị văn hoá lâu dài. Điểm chung của làng nghề là thường nằm trên trục
giao thông đường bộ hay đường sông. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc
xây dựng các điểm hoặc tuyến du lịch lữ hành. Ngoài những lợi thế như
cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn hoá đặc sắc, các làng nghề
còn có sức hút đặc biệt bởi mỗi làng lại gắn với một vùng văn hoá hay
một hệ thống di tích lịch sử. Bên cạnh đó, khách tham quan còn được tận
mắt theo dõi quá trình sản xuất ra các sản phẩm thậm chí là tham gia thực
hành vào một khâu sản xuất nào đó, chính điều này tạo nên sức hấp dẫn
của du lịch làng nghề.
Nhận thức được tiềm năng phát triển du lịch tại làng nghề sẽ góp
phần gia tăng tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp hoặc dịch vụ ở địa
phương, đồng thời tăng thêm cơ hội cho các cơ sở sản xuất thông qua các
hoạt động giới thiệu và bán sản phẩm truyền thống, nâng cao đời sống của
18 | P a g e
người dân thông qua các dịch vụ phụ trợ , điển hình như các tỉnh Hà Tây
(trước đây), Hoà Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng , đã và đang
phát triển mạnh mẽ loại hình du lịch làng nghề. đây là điểm đến của nhiều
tuyến du lịch lữ hành của khách tham quan trong nước đồng thời thu hút
nhiều khách du lịch
19 | P a g e
2.1.1.6. Những tác động tiêu cực đến môi trường của làng nghề
Bên cạnh mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại làng
nghề đã phát sinh một số tác động tiêu cực đến môi trường. Những tác
động xấu đến môi trường nhiều năm qua đã làm cho chất lượng môi
trường nhiều làng nghề ngày càng suy giảm, ảnh hưởng không chỉ tới sự
phát triển bền vững ở làng nghề, mà còn ảnh hưởng đến cả tính bền vững

của nhiều ngành kinh tế khác.
* Một số tồn tại của làng nghề ở Việt Nam:
Làng nghề Việt Nam trong quá trình phát triển, đến nay đã bộc lộ
một số tồn tại sau:
- Quy mô sản xuất của làng nghề nhỏ, phần lớn quy mô hộ gia đình
(chiếm 72% tổng số cơ sở sản xuất) [15, Tr11].
Quy mô sản xuất tại nhiều làng nghề là quy mô nhỏ, khó phát triển
vì mặt bằng sản xuất trật hẹp xen kẽ với khu vực sinh hoạt. Sản xuất càng
phát triển thì nguy cơ lấn chiếm khu vực sinh hoạt, phát thải ô nhiễm tới
khu dân cư càng lớn, dẫn đến chất lượng môi trường càng xấu đi.
- Nếp sống tiểu nông của người chủ sản xuất nhỏ xuất thân từ nông
dân đã ảnh hưởng mạnh tới sản xuất làng nghề, làm tăng mức độ ô nhiễm
môi trường.
20 | P a g e
Người sản xuất không nhận thức được tác hại lâu dài của ô nhiễm,
chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt, các cơ sở sản xuất tại làng nghề
thường lựa chọn quy trình sản xuất thô sơ tận dụng nhiều sức lao động
trình độ thấp. Hơn thế nhằm hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh,
nhiều cơ sở sản xuất còn sử dụng các nhiên liệu rẻ tiền, hóa chất độc hại (kể
cả đã cấm sử dụng) không đầu tư phương tiện, dụng cụ bảo hộ lao động không
đảm bảo điều kiện lao động nên đã làm tăng mức độ ô nhiễm môi trường. Ví dụ
như các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, là nguồn chất thải rắn tạo bụi. ở
làng nghề bún Phú Đô mỗi năm sử dụng 5.250 tấn than, làng nghề Dương Liễu là
34.000 tấn. Như vậy theo ước tính của viện KHCN &MT cứ một tấn than cháy
tạo ra 0, 2 tấn xỉ than thì chỉ riêng làng nghề bún Phú Đô đã thải ra 7.850 tấn xỉ
than/năm.
- Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, dòng tộc, làng
xã. Nhiều làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống, sử dụng
lao động có tính gia đình, sản xuất theo kiểu "bí truyền", giữ bí mật
cho dòng họ, tuân theo "hương ước" không cải tiến áp dụng những

khoa học kỹ thuật, nên đã cản trở việc áp dụng giải pháp khoa học kỹ
thuật mới, không khuyến khích sáng kiến mang hiệu quả BVMT của
người lao động.
- Công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc hậu chắp vá, kiến
thức tay nghề không toàn diện dẫn tới quá trình sản xuất tiêu tốn nhiều nhiên,
21 | P a g e
nguyên liệu làm tăng phát thải nhiều chất ô nhiễm môi trường nước, đất, khí ảnh
hưởng tới gia thành sản phẩm và chất lượng môi trường. Kỹ thuật lao động sản
xuất ở các làng nghề chủ yếu là thủ công, bán cơ khí, chưa có làng nghề nào áp
dụng tự động hóa được thể hiện qua bảng 2.1:
BẢNG 2.1: TRÌNH ĐỘ KỸ THUẬT Ở CÁC LÀNG NGHỀ
Đơn vị tính: %
Trình độ kỹ thuật
Chế biến nông,
lâm, thủy sản
Thủ công mỹ nghệ và
vật liệu xây dựng
Các ngành
dịch vụ
Các ngành
khác
Thủ công, bán cơ khí 61,51 70,69 43,90 59,44
Cơ khí 38,49 29,31 56,10 40,56
Tự động hóa 0 0 0 0
(Nguồn: báo cáo môi trường quốc gia năm 2008)
- Vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề quá thấp, khó có
điều kiện phát triển hoặc đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi
trường.
Sản xuất mang tính tự phát, không có kế hoạch lâu dài, nên khó huy
động tài chính và vốn đầu tư lớn từ các nguồn khác (quỹ tín dụng, ngân

hàng). Do đó, khó chủ động trong đổi mới kỹ thuật và công nghệ, lại càng
không thể đầu tư cho xử lý môi trường.
- Trình độ người lao động, chủ yếu là lao động thủ công, đang học
nghề, văn hóa thấp, nên hạn chế nhận thức đối với công tác BVMT.
Theo điều tra của bộ NN &PTNT thì chất lượng lao động và trình
độ chuyên môn kỹ thuật ở các làng nghề nhìn chung còn thấp chủ yếu là
22 | P a g e
lao động phổ thông, số lao động chỉ tốt nghiệp cấp I, II chiếm trên 60%.
Mặt khác đa số người lao động xuất thân từ nông dân nên chưa có ý thức
về môi trường lao động, chỉ cần việc làm có thu nhập cao hơn thu nhập từ
nông nghiệp hoặc bổ sung thu nhập trong lúc nông nhàn, nên ngại học
hỏi, không quan tâm tới BVMT .
- Nhiều làng nghề chưa quan tâm tới xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật cho BVMT.
Cạnh tranh trong 1 số loại hình sản xuất đã thúc đẩy một số làng nghề
đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Tuy nhiên đây không phải là
đầu tư cho kỹ thuật bảo vệ môi trường. Vì vậy hầu hết các cơ sở sản xuất
trong làng nghề đều không có các hệ thống xử lý chất thải trước khi thải ra
môi trường.
Hầu hết các làng nghề không có đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật để thu
gom và xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường, như không có hệ thống
thu gom và xử lý nước thải, không có bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ
sinh, không chú ý đầu tư phương tiện thu gom quản lý chất thải nguy hại.
Đây là một thách thức lớn vì để khắc phục điều này đòi hỏi nhiều kinh
phí và thời gian.
23 | P a g e
2.1.1.7. Xu thế phát triển làng nghề đến năm 2015
Các yếu tố chính tác động đến sự phát triển của làng nghề bao gồm
các yếu tố chủ quan như nội lực sản xuất và các yếu tố khách quan như
chính sách của Nhà nước, vấn đề thị trường .

Các yếu tố chính sách tác động đến sự phát triển của làng nghề:
Có 5 yếu tố chính làm cho làng nghề có thể được hình thành, phát
triển hoặc bị mai một:
(1). Nội lực sản xuất, trong đó đóng vai trò quan trọng là: người đúng
đầu cơ sở sản xuất, cơ sở vật chất và mặt bằng, công nghệ sản xuất, nguyên
nhiên liệu, bản sắc văn hóa, vốn và năng lực kinh doanh của một cơ sở sản xuất
trong làng nghề.
(2). Chính sách Nhà nước, bao gồm các thể chế và chính sách của
các cấp quản lý từ trung ương đến địa phương, như tổ chức hiệp hội,
chính sách thuế, hỗ trợ vốn, hậu thuẫn của các cơ quan quản lý địa
phương.
(3). Tác động của thị trường và vấn đề hội nhập quốc tế.
(4). Yếu tố xã hội như tạo công ăn việc làm, đa dạng hóa loại hình
kinh tế, bảo tồn giá trị văn hóa.
(5). Yếu tố môi trường như tác hại của ô nhiễm tới sức khỏe cộng
đồng, cảnh quan gây tổn thất kinh tế, xã hội.
24 | P a g e
Các yếu tố này được lượng hóa bằng đánh giá của các chuyên gia
trong nhiều lĩnh vực, sẽ cho biết xu thế phát triển của các loại hình làng
nghề. Vì quá nhiều nhân tố khó có thể lường trước được nên kết quả dự
đoán sẽ chỉ là xu thế trong một tương lai gần với một giả thiết nhất định.
25 | P a g e

×