Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 1 giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.84 KB, 14 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐĂKMIL
TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG HOA THÁM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số giải pháp giúp học sinh lớp 1
học tốt giải toán có lời văn
Giáo viên: Nhâm Thị Ngọc
Năm học: 2009 – 2010
1
PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG.
I. Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lý luận
Theo kế hoạch giáo dục trong Chương trình Giáo dục phổ thông cấp
Tiểu học (2006), thì môn Toán là một trong hai môn học (bao gồm cả
Tiếng Việt) có thời lượng dạy học nhiều nhất chiếm tới 22,82% tổng thời
lượng dạy học ở Tiểu học.
Nội dung môn toán ở tiểu học bao gồm nhiều chủ đề, tuyến kiến thức
lớn như: Số học, Đại lượng và đo đại lượng, Một số yếu tố đại số và yếu
tố thống kê, Yếu tố hình học và Giải toán có lời văn.
Trong môn toán ở bậc tiểu học giải toán có lời văn có một vị trí rất
quan trọng. Việc dạy học giải toán có lời văn giúp HS củng cố, vận dụng
và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về Số học, về Đo lường, về các
yếu tố đại số, về các yếu tố hình học đã được học trong môn Toán ở Tiểu
học.
Dạy học giải toán có lời văn là nội dung dạy học mang tính truyền
thống trong dạy học toán Tiểu học ở Việt Nam. Các khái niệm và quy tắc
trong SGK Toán thường được dạy học thông qua việc giải toán. Qua giải
toán, học sinh biết diễn đạt đâu là giả thiết, kết luận của bài toán, biết
cách trình bày bài giải, biết viết câu trả lời ngắn gọn, đủ ý,… Dạy học
giải toán là gíúp HS tăng cường khả năng diễn đạt bằng tiếng Việt (ngôn
ngữ nói và viết).
Ngoài ra thông qua nội dung thực tế nhiều hình, nhiều vẻ của các đề


toán, học sinh sẽ tiếp nhận được những kiến thức phong phú về cuộc sống
và có điều kiện để rèn luyện khả năng áp dụng các kiến thức toán học vào
cuộc sống. Bên cạnh đó giải toán cũng góp phần rèn luyện cho học sinh
năng lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới…
2. Cơ sở thực tiễn
Chương trình môn Toán lớp 1 là một bộ phận của chương trình môn
Toán ở Tiểu học, có vị trí mở đầu cho chương trình môn Toán của các lớp
tiếp theo ở bậc Tiểu học. Việc giúp học sinh lớp 1 làm tốt giải bài toán có
lời văn sẽ giúp các em tăng tính tích cực và tự tin trong học toán sẽ là tiền
đề thuận lợi để các em học tốt môn Toán và các môn học khác trong
những năm sau đó.
Tuy nhiên rèn kĩ năng giải toán thành thạo cho học sinh tiểu học là
công việc khó, đòi hỏi thời gian và tâm huyết của giáo viên và đối với
học sinh lớp 1 thì lại càng khó. Bởi với học sinh lớp 1 trong giai đoạn học
2
dạng toán này các em còn chưa hoàn thành phần học vần của môn Tiếng
Việt, kĩ năng đọc viết chưa thật thành thạo lại phải làm quen với một
dạng toán đầy mới mẻ, đòi hỏi tư duy mang tính khái quát.
Bản thân tôi là giáo viên giảng dạy ở trường Tiểu học Hoàng Hoa
Thám được 6 năm, được phân công giảng dạy ở nhiều khối lớp nhưng
phần lớn là phụ trách khối lớp 1. Đặc điểm của trường là học một buổi và
là một trường thuộc xã vùng ba khó khăn, học sinh chủ yếu là người dân
tộc thiểu số kết quả học tập nói chung, học tập môn Toán của các em nói
riêng vẫn thường vẫn thấp hơn so với các đối tượng khác. Trong số các
tuyến kiến thức toán học thì các em gặp khó khăn nhất với việc giải các
bài toán có lời văn.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy học giải toán ở tiểu học
nói chung nhất là ở khối lớp 1 - khối đầu cấp nói riêng nên tôi chọn đề
tài: "Một số giải pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt giải toán có lời văn" để
nghiên cứu nhằm giúp các em phát huy những thuận lợi, khắc phục

những rào cản để đạt chuẩn kĩ năng môn học, trên cơ sở đó phát triển các
năng lực cá nhân của các đối tượng học sinh.
II-Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng học giải toán có lời văn của học sinh lớp 1
trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám, tìm ra nguyên nhân từ đó đề xuất các
giải pháp phù hợp để áp dụng vào quá trình giảng dạy. Giúp học sinh
bước đầu nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn. Biết giải các bài
toán đơn về thêm, bớt một số đơn vị (giải bằng một phép cộng hoặc một
phép trừ ). Biết trình bày bài giải gồm: câu lời giải, phép tính, đáp số.
Góp phần bước đầu phát triển tư duy, phương pháp giải toán, khả năng
diễn đạt của học sinh.
III-Đối tượng nghiên cứu
- 32 học sinh lớp 1A1 Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám năm học
2008-2009.
- 24 học sinh lớp 1A1 Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám năm học
2009-2010.
- Nghiên cứu các tài liệu liên quan; nghiên cứu cách giảng dạy của
giáo viên lớp1; các bài toán có lời văn của học sinh lớp 1, tìm ra nguyên
nhân và biện pháp khắc phục.
IV-Kế hoạch nghiên cứu
- Điều tra thực trạng học toán giải của học sinh lớp 1 qua những
năm học trước. Đề ra giải pháp tích cực và áp dụng thực hiện giảng dạy
từ tuần 7 đến thời điểm cuối năm của năm học 2009-2010. Quá trình
3
giảng dạy đồng thời với quá trình rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy từ đó
hoàn thiện các giải pháp giúp học sinh lớp 1 làm tốt dạng bài giải toán có
lời văn.
V-Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đọc tài liệu
- Phương pháp điều tra, khảo sát

- Phương pháp phân tích số liệu điều tra.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm, tổng kết đánh giá thực tiễn.

PHẦN B: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I-Đánh giá thực trạng:
1- Về nội dung day học giải toán có lời văn trong SGK Toán 1.
Nội dung dạy học giải toán có lời văn trong SGK Toán 1 được chia
làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: “chuẩn bị” học giải toán có lời văn (học trong học kì
I - Lớp 1). Học sinh được làm quen với các “tình huống” qua tranh vẽ, từ
đó nêu thành “bài toán có lời văn” (nêu miệng đề bài toán), bước đầu có
hướng “giải quyết bài toán” (ở mức độ nêu phép tính thích hợp).
- Giai đoạn 2: “chính thức” học giải toán có lời văn (học trong học
kì II – lớp 1). Học sinh được biết thế nào là bài toán có lời văn, biết cách
giải và trình bày bài giải bài toán có lời văn (ở mức độ tương đối hoàn
chỉnh gồm câu lời giải, phép tính và đáp số).
Cách sắp xếp như vậy là hợp lý, vì thực tế giải toán có lời văn là
dạng bài khó đối với học sinh lớp 1 khi mà đến tuần học 22 không phải
học sinh nào cũng đọc thông viết thạo và hiểu ngay được nội dung văn
bản (điều mà bài toán gợi ra). Giai đoạn 1 sẽ là bước chuẩn bị quan trọng
để học sinh bước đầu làm quen với bài toán có lời văn và cách giải của nó
sau này.
2- Về chất lượng bài làm của học sinh
Nghiên cứu nội dung này tôi đã tiến hành khảo sát 32 học sinh tại
lớp 1A1 giai đoạn cuối năm học 2008-2009 với đề bài sau:
Bài 1: Trong bến có 9 ô tô, có thêm 8 ô tô vào bến. Hỏi trong bến có tất
cả bao nhiêu ô tô?
Bài 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau:
4
Bảo có : 18 viên bi

Cho bạn: 6 viên bi
Còn lại : … viên bi?
Bài 3: Đoạn thẳng AB dài 4cm, đoạn thẳng BC dài 3cm. Hỏi cả hai
đoạn thẳng dài bao nhiêu xăng-ti-mét?
Qua khảo sát tôi thu được kết quả như sau:
Loại bài Số lượng Tỉ lệ
Giải đúng hoàn toàn 9/32 28,2
Đúng phép tính – sai lời
giải
17/32 53,1
Sai hết 6/32 18,7
Như vậy số học sinh giải chưa hoàn chỉnh và không giải được bài
chiếm tỉ lệ khá cao so với tổng số học sinh và chủ yếu là học sinh gặp khó
khăn trong việc suy nghĩ tìm câu trả lời cho bài toán. Có nhiều em không
biết ghi tên đơn vị như thế nào cho đúng (là cm hay đoạn thẳng - ở bài 3).
Một vài học sinh khi được yêu cầu thử đặt đề toán theo tóm tắt đã
cho (bài 2) thì rất ít em làm được, chủ yếu các em chỉ trả lời đúng phép
tính giải.
II- Nguyên nhân:
Số học sinh làm sai bài hoặc làm chưa hoàn chỉnh là do những
nguyên nhân sau:
- Do trong quá trình làm bài các em đọc đề chưa kĩ, chủ quan dẫn
đến bài làm sai.
- Khi học bài trên lớp các em thường ghi nhớ một cách máy móc,
chưa có thói quen phân tích đề toán, lại không thường xuyên rèn kĩ năng
giải toán nên rất lúng túng khi viết câu lời giải
- Do các em chưa hiểu được nội dung các bài toán có lời văn là
những bài toán thực tế xung quanh ta được thể hiện bằng những từ ngữ,
câu văn có liên quan đến cuộc sống hàng ngày nên hầu hết các em không
viết được đề toán dựa vào tóm tắt đã cho.

5
- Do 1 bộ phận học sinh kĩ năng đọc và viết Tiếng Việt chưa thành
thạo, học sinh đọc chậm hoặc còn phải đọc đánh vần nên các em đọc đề
nhưng chưa có khả năng hiểu đề.
- Do giáo viên chưa tìm được cách dạy phù hợp với dạng toán này,
nên chủ yếu mới chỉ phân tích đề lướt qua và gợi ý học sinh tìm lời giải
một cách chung chung không cụ thể, học sinh không hiểu bắt đầu viết lời
giải như thế nào, dựa vào đâu … chính vì vậy kiến thức khắc sâu cho học
sinh chưa đạt dẫn đến học sinh làm sai nhiều và chủ yếu là câu lời giải.
III. Biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 1 giải toán có lời văn.
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thực trạng giải toán của học sinh
trong những năm trước, nội dung dạy học giải toán có lời văn trong
sách Toán 1 và nguyên nhân dẫn đến việc chất lượng giải toán của học
sinh lớp1 chưa cao.
Nhận biết được điều kiện học toán, khả năng tiếp thu toán học đặc
biệt là giải toán có lời văn của học sinh lớp 1 trường mình – trường
vùng 3 khó khăn và có nhiều học sinh DTTS nên tôi nghĩ để dạy có
hiệu quả dạng toán này người giáo viên cần phải làm tốt công tác
“chuẩn bị” ngay từ đầu năm học, kiên trì rèn luyện cho học sinh
phương châm “ tích lũy từng chút một”, chứ không thể trong một thời
gian ngắn mà tham vọng các em có thể lĩnh hội hết kiến thức yêu cầu
và thực hành có kết quả tốt được. Vì vậy tôi đề ra một số biện pháp
hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn như sau:
* Giai đoạn 1: giai đoạn chuẩn bị
Theo chương trình thì đến tuần 22 (học kì II) học sinh mới chính
thức học cách giải toán có lời văn, song ngay từ học kì 1 trong giai
đoạn chuẩn bị học giải toán có lời văn (từ tuần 7), trong sách Toán 1
thường có dạng bài tập “Viết phép tính thích hợp”. Đây là dạng bài
yêu cầu học sinh từ tình huống” trong tranh vẽ viết được phép tính
thích hợp vào dãy 5 ô trống có sẵn.

Mặc dù đó chưa phải là giải toán có lời văn nhưng tôi nhận thấy
đây là cơ hội rất tốt để giúp học sinh làm quen với bài toán có lời văn
và cách giải của nó sau này. Vì vậy ngay từ lúc này tôi chú trọng đến
việc hướng dẫn học sinh từ “tình huống” cụ thể trong tranh quan sát ,
phát hiện rồi tập nêu thành bài toán.
Chẳng hạn như, với bài tập 4 trang 49 – Toán 1. Học sinh quan sát
thấy có 4 con hươu và 1 con hươu đang chạy “hướng vào nhau”. Từ
đó học sinh có thể nêu bài toán bằng lời: “ Có 4 con hươu, thêm 1 con
hươu nữa đang chạy đến. Hỏi tất cả có mấy con hươu?”
6
Hay từ “tình huống” trong tranh vẽ Bài 5b trang 57 – Toán 1, học
sinh quan sát thấy có 4 con vịt, 3 con đang bơi dưới ao, 1 con chạy lên
bờ (một con tách khỏi đàn 4 con vịt để lên bờ). Từ đó học sinh có thể
nêu lên bài toán: “Có 4 con vịt đang bơi dưới ao, có một con chạy lên
bờ. Hỏi dưới ao còn lại mấy con vịt?”.
Sau đó học sinh tập nêu câu trả lời : “ Có tất cả 5 con hươu”; “
Dưới ao còn lại 3 con vịt”, rồi từ chỗ phát hiện ra mối quan hệ giữa
các đối tượng mà viết được phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống cho
sẵn.
4 + 1 = 5
Dạng bài này bắt đầu xuất hiện từ tiết 25 tuần 7 với bài “Phép cộng
trong phạm vi 3” và xuất hiện với mức độ thường xuyên cho đến tuần
16 vì vậy kiên trì rèn luyện nên đến thời điểm này, khoảng ¼ học sinh
lớp tôi đã có thể “tự tin” nhìn vào “tình huống” trong tranh nêu được
đề toán, sau đó nêu câu trả lời và viết được phép tính đúng.
Hầu hết các bài tập về “Viết phép tính thích hợp” trong sách toán 1
là dạng bài “quan sát tranh”. Nhưng đó không phải là dạng bài duy
nhất. Gần cuối học kì I (chuẩn bị cho học giải toán có lời văn ở học kì
II), sách Toán 1 đã có dạng bài viết phép tính thích hợp không phải từ
“quan sát tranh vẽ” mà từ tóm tắt bài toán. Nên qua những bài tập này

học sinh lại có cơ hội làm quen với tóm tắt bài toán – là một trong
những bước quan trọng để giải bài toán có lời văn.
Chẳng hạn: Ở bài 5 trang 89 - Toán 1 :
a) Có: 5 quả b) Có : 7 viên bi
Thêm: 3 quả Bớt : 3 viên bi
Có tất cả: … quả? Còn: … viên bi?
Ở bài này không có tranh vẽ, tôi cho học sinh đọc kĩ tóm tắt (nêu
điều kiện và câu hỏi của bài toán), dựa vào tóm tắt học sinh nêu toàn văn
bài toán. Chẳng hạn như “An có 5 quả bóng, mẹ cho thêm An 3 quả. Hỏi
An có tất cả mấy quả bóng?” hay “ Bình có 7 viên bi, Hà lấy bớt đi 3 viên
bi. Hỏi An còn lại mấy viên bi?”.
Học sinh nêu được câu trả lời bằng lời: “An có tất cả 8 quả bóng”;
“Bình còn lại 4 viên bi” rồi điền số và phép tính thích hợp vào ô trống.
4 - 1 = 3
7
5 + 3 = 8
Tiếp tục rèn luyện từ đây học sinh sẽ quen dần với tóm tắt bài toán,
với điều kiện và câu hỏi bài toán, với cách nêu bài toán, lời giải bài
toán bằng miệng các em sẽ dễ dàng viết được câu lời giải sau này.
* Giai đoạn 2: giai đoạn chính thức học giải toán có lời văn
Bước sang tuần 22 của học kì II học sinh “chính thức” học giải
toán có lời văn (về kĩ năng giải toán). Để có cách giải toán phù hợp
học sinh phải hiểu được ý nghĩa của bài toán, phân tích được nội dung
bài toán. Do vậy ở tiết 81 trang 115 qua bài học “ Bài toán có lời văn”
tôi giúp học sinh nhận biết cấu tạo của một bài toán có lời văn gồm 2
phần: cái đã cho (đã biết – thể hiện ở các số) và cái phải tìm (chưa biết
– thể hiện ở phần câu hỏi). Việc làm này sẽ tạo thuận lợi cho các em
khi học giải toán có lời văn dạng “thêm”, “bớt” một số đơn vị (ngay
sau tiết học đó) đạt hiệu quả tốt với lời giải hoàn chỉnh của một bài
toán cólời văn ở lớp 1.

Điều chủ yếu của việc dạy học giải toán là giúp học sinh tự tìm
hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện
bài toán mà thiết lập các phép tính số học tương ứng, phù hợp. Tôi tiến
hành dạy giải toán cho các em theo 4 bước sau:
-Tìm hiểu nội dung bài toán
-Giải bài toán
-Trình bày bài giải
-Kiểm tra lại kết quả
a-Tìm hiểu nội dung bài toán:
Việc tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc
đề toán (dù bài toán cho dưới dạng lời văn hoàn chỉnh, hoặc bằng dạng
tóm tắt, sơ đồ) học sinh cần phải đọc kĩ, hiểu rõ bài toán cho biết cái gì,
cho biết điều kiện gì, bài toán hỏi gì? Khi đọc bài toán học sinh phải hiểu
thật kĩ một số từ, thuật ngữ quan trọng chỉ rõ tình huống toán học được
diễn đạt theo ngôn ngữ thông thường, chẳng hạn: “thêm”, “có tất cả”;
hoặc “bay đi” hay “cắt đi”, “ăn mất”, “còn lại”, có thể cho học sinh
quan sát tranh vẽ hỗ trợ thêm.
- Nếu trong bài toán có thuật ngữ nào học sinh chưa hiểu rõ, tôi
hướng dẫn học sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa của từ đó trong bài
7 - 3 = 4
8
toán đang làm. Sau đó học sinh thuật lại bằng lời vắn tắt bài toán mà
không cần đọc lại nguyên văn bài đó.
b-Tìm cách giải toán;
Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các
dữ kiện, điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác định mối liên hệ giữa
chúng và tìm được các phép tính số học thích hợp.
Hoạt động này thường diễn ra như sau:
*Minh hoạ bài toán bằng tóm tắt đề toán: dùng ngôn ngữ, dùng sơ đồ,
dùng mẫu vật, tranh vẽ.

Ví dụ: Bài toán trang 117 - Toán 1
"Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả
mấy con gà?"
Đầu tiên cho học sinh đọc lại đề bài toán nhấn mạnh các từ ngữ
quan trọng như:
An - 5 con gà - thêm 3 con gà - có tất cả mấy con gà?
Sau đó tôi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán bằng cách hỏi:
Có mấy con gà? (có 5 con gà)

Thêm mấy con gà? (thêm 3 con gà)
Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả
mấy con gà)
Trình bày bảng
Tóm tắt
Có : 5 con gà
Thêm : 3 con gà
Có tất cả: con gà?

Khi hướng dẫn học sinh viết tóm tắt tôi lưu ý học sinh viết thẳng theo
cột để dễ hiểu và có thể lựa chọn phép tính giải; đồng thời phần cuối tóm
tắt là một câu hỏi (viết gọn lại) và cần phải đặt dấu hỏi ở cuối
câu.
Sau khi hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán tôi hướng dẫn học sinh:
*Lập kế hoạch giải toán nhằm xác định trình tự giải quyết, thực hiện
các phép tính số học bằng việc đi từ câu hỏi của bài toán đến số liệu hoặc
đi từ số liệu đến các câu hỏi của bài toán.
Ví dụ: Với bài toán trên ta có thể xuất phát từ câu hỏi của bài toán
đến các dữ kiện:
- Bài toán hỏi gì? (Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?)
9

- Muốn tìm xem nhà An có tất cả mấy con gà thì phải làm tính gì?
(Phải làm tính cộng 5 con gà + với 3 con gà)
c-Trình bày bài giải:
Một bài giải phải luôn luôn có đủ 3 phần:
- Câu lời giải
- Phép tính (viết bằng số, kèm theo là tên đơn vị đặt trong dấu
ngoặc sau kết quả)
- Đáp số (ghi kết quả và tên đơn vị không có ngoặc đơn)
Đối với học sinh lớp 1 bước đầu làm quen với việc giải toán có lời
giải nên tôi không áp đặt học sinh làm theo ý mình mà để các em nêu câu
lời giải theo sự hiểu biết của mình. Tuy nhiên tôi định hướng cho các em
cần đọc lại đề toán và đọc lại nhiều lần câu hỏi của bài. Nên dựa vào câu
hỏi của bài toán để tìm được câu lời giải đúng và khi viết câu lời giải thì
không viết từ “Hỏi”.
Theo ví dụ trên học sinh có thể có lời giải như:
- Nhà An có tất cả là:
- Nhà An có số con gà là:
- Có tất cả số con gà là:
Sau khi tìm được lời giải học sinh căn cứ vào từ khoá ở câu hỏi để
chọn phép tính thích hợp cho bài toán, phép tính viết theo quy ước có ghi
tên đơn vị, ghi đáp số kèm theo đơn vị.
- Các bước hoàn chỉnh của phần giải bài toán theo ví dụ trên:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số: 9 con gà.
Khi gặp bài toán về số đo độ dài, tôi hướng dẫn học sinh giải toán
dựa trên tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Đoạn thẳng AB dài 3cm và đoạn thẳng BC dài 6cm. Hỏi đoạn thẳng
AC dài mấy xăng-ti- mét?

Nhìn vào sơ đồ đoạn thẳng nên học sinh có thể tự làm bài và viết câu
lời giải. Tuy nhiên hoặc sinh lại lúng túng khi viết tên đơn vị. Tôi nhấn
mạnh với những bài toán về số đo độ dài (ở lớp 1) đơn vị đo luôn là cm.
Bài giải
Độ dài đoạn thẳng AC là:
10
B
6cm3cm
A
C
3 + 6 = 9 (cm)
Đáp số: 9 cm
Đến tuần 28 học sinh được rèn kĩ năng giải các bài toán về “bớt”
(giải bằng một phép trừ) sau khi đã thành thạo các bài toán về “thêm”
(giải bằng một phép tính cộng). Học sinh được tiếp tục củng cố trình bày
bài giải gồm: Câu lời giải, phép tính và đáp số.
Không phải ngay từ đầu học sinh đã quen với cách giải này, để giúp
học sinh nắm vững các bước giải tôi giúp học sinh nắm vững các bài toán
mẫu, sau đó tổ chức và hướng dẫn học sinh làm các bài thực hành, giúp
đỡ và sửa chữa kịp thời khi các em lúng túng hoặc sai sót, khuyến khích
động viên kịp thời khi em có thể tự mình giải quyết bài toán.
d- Kiểm tra lại kết quả
Hoạt động này nhằm kiểm tra đáp số xem có phù hợp với bài toán đặt
ra hay không.
Ở bài toán trên, sau khi đã giải xong bài tập, tôi cho học sinh thử lại
kết quả bằng cách đếm tổng số gà có trong hình vẽ minh hoạ, kết quả
trùng với đáp số là bài toán đúng.
Nhờ phần kiểm tra mà học sinh ít nhầm lẫn trong các dạng toán này.
IV-Đánh giá kết quả.
1-Kiểm tra kết quả

Để kiểm tra tính thực tiễn của đề tài, hiệu quả của việc giảng dạy và
chất lượng giải toán của học sinh, tôi tiến hành khảo sát bằng cách cho đề
bài như sau:
Bài 1: lớp 1A có 10 bạn gái và 16 bạn trai. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu
học sinh?
Bài 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau:
Quyển sách có: 89 trang
Lan đã đọc: 34 trang
Còn phải đọc:… trang?
Bài 3: Một sợi dây dài 40cm, người ta cắt đi 10cm. Hỏi sợi dây còn lại
dài bao nhiêu xăng-ti-mét?
Kết quả thu được như sau:
11
Loại bài Số lượng Tỉ lệ
Giải đúng hoàn toàn 13/24 54,2
Đúng phép tính – sai lời
giải
9/24 37,5
Sai hết 2/24 8,3
2. Kết luận:
Qua các phương pháp đã dùng để dạy “giải toán có lời văn” tôi nhận thấy:
- Các em được luyện tập nhiều qua các dạng toán nên các em nắm
vững các bước giải toán.
- Các em biết cách tóm tắt bài toán bằng lời. Không còn lúng túng
khi tìm câu lời giải như trước và hình thành được phép tính thích hợp.
- Các em hiểu được ý nghĩa của bài toán. Biết cách trình bày bài
toán một cách hợp lí khoa học.
Như vậy với cách dẫn dắt tỉ mỉ và chủ yếu là luyện tập khi dạy “giải
toán có lời văn” cho học sinh như đã áp dụng ở trên đã nâng cao chất
lượng giải toán cho học sinh một cách rõ rệt.

PHẦN III- NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
1. Đối với giáo viên:
- Cần phải nghiên cứu kĩ chương trình môn toán lớp 1, tìm hiểu
thêm các tài liệu tham khảo có liên quan đến việc rèn kĩ năng giải toán có
lời văn cho học sinh, tìm hiểu tâm sinh lý của học sinh lớp mình giảng
dạy để từ đó đưa ra những biện pháp giảng dạy phù hợp tác động tích cực
đến học sinh nhằm đạt được kết quả giáo dục cao nhất.
- Thường xuyên kiểm tra việc học tập của học sinh. Xây dựng được
phương pháp, hình thức học toán theo hướng tập trung vào học sinh, giúp
các em tự học toán có hiệu quả.
- Trao đổi với phụ huynh, tạo môi trường học tập tốt ở nhà cho các
em, hướng dẫn, động viên, khuyến khích các em học tập.
2. Đối với nhà trường
12
Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề để giáo viên
trao đổi kinh nghiệm của mình, đóng góp ý kiến tìm ra phương pháp
giảng dạy hay nhất để nhân rộng trong trường học nhằm nâng cao chất
lượng dạy học.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã thực hiện nhằm giúp học
sinh lớp 1 có kĩ năng giải toán có lời văn. Mặc dù đã cố gắng nhưng vẫn
còn nhiều hạn chế, tôi rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp và
chuyên môn nhà trường để việc nghiên cứu và áp dụng tiếp theo được
hoàn thiện và đạt kết quả tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Đăk Mil, ngày 5 tháng 4 năm 2010
Người viết


Nhâm Thị Ngọc
Phụ lục của đề tài:

Tài liệu tham khảo:
1- Một số biện pháp hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số học tập môn Toán
lớp 1,2,3 (Tác giả :Trần Mạnh Hưởng; Nguyễn Thị Kim Oanh - 2009)
2- Hỏi đáp về dạy học toán 1 (Tác giả: Nguyễn Áng -2007)
3- Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học (2006)
13
14

×