Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

QUAN DIEM CUA MACXIT VE S HINH THANH NHAN CACH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.79 KB, 17 trang )

Giáo dục và sự phát triển nhân cách
Trong xã hội hiện đại, sự phát triển của tuổi trẻ, của học sinh
không thể tách rời với quá trình giáo dục. Đồng thời quá trình giáo
dục có hiệu quả phải tác động phù hợp với quy luật phát triển của
ngời học trong đó quan trọng nhất là phù hợp với những đặc điểm
của quá trình hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Các nhà
giáo dục lỗi lạc nh J.A.Konicxky, J.J.Rouscan, I.G. Pestalozi đã là
những ngời phê phán kịch liệt nền giáo dục, đồng thời chính các
ông đã đòi hỏi mục tiêu giáo dục, nội dung, phơng pháp, hình thức
giáo dục phải phù hợp với đặc điểm của đối tợng giáo dục. Cũng
chính từ đó khoa học giáo dục đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu
những quy luật, những đặc điểm phát triển của trẻ em, của học sinh
coi đó là một cơ sở quan trọng của khoa học s phạm.
Những thành tựu ngày nay của tâm lý học nhân cách, tâm lý học
lứa tuổi và s phạm của khoa học giáo dục cũng nh kinh nghiệm
thực tiễn đòi hỏi quá trình giáo dục phải Athống nhất biện chứng
với quá trình phát triển nhân cách ngời học. Muốn vậy ngời làm
công tác giáo dục cần nắm một số quan điểm cơ bản về bản chất
của nhân cách và sự phát triển nhân cách con ngời.
1. Sự phát triển nhân cách con ngời
1.1. Khái niệm về con ngời nhân cách
Hiện nay trong dân gian cũng nh trong học thuật có nhiều quan
điểm khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau về bản chất nhân cách
con ngời.
1.1.1. Một số quan điểm sai về bản chất con ngời
- Quan điểm tiền định: coi bản chất và số phận của mỗi con ngời
đó đợc quy định trớc khi con ngời đó ra đời. Nó đợc thể hiện với
nhiều màu sắc khác nhau. Do Thợng Đế định sẵn: "Cha mẹ sinh
con, trời sinh tính", "thông minh vốn sẵn tính trời", "mới hay muôn
sợ tại trời", "do kiếp trớc", do mả ông cha để lại đợc hởng "phúc"
hay chịu "hoạ".


Những quan điểm trên đây là những quan điểm khác nhau làm
cho con ngời không tin tởng vào chính bản thân mình và chỉ chờ
mong vào trời đất quỷ thần, số phận hoặc "cũng lắm điều nhắm mắt
đa chân" nó nhủ con ngời không giúp ta tự tin, dũng cảm tái tạo tự
nhiên, đấu tranh xã hội cải tạo chính bản thân mình.
Thuyết di truyền quyết định tất cả thực chất cũng là quan điểm
tiền định.
Thuyết phân tâm học do S.Frend nêu ra từ đầu thế kỷ này, nay
vẫn rất thịnh hành ở phơng Tây. Có ngời vẫn dùng thuyết này để
giải thích những hiện tợng xã hội và hành vi con ngời chủ yếu quy
định bởi những bản năng vô thức, đặc biệt là bản năng tình dục
Thuyết này giải thích mọi hành vi của con ngời đều do sự thôi thúc
của bản năng. Dù trong con ngời có ý thức về đời sống thờng ngày
của bản thân (cái tôi) (cái siêu tôi) nhng tất cả những cái đó đều bất
lực trớc cái bản năng vô cùng sôi sục mãnh liệt (cái nó), nó thúc
đẩy con ngời đến những đam mê vô thức, những hành động bản
năng. Thực chất thuyết này chỉ đi sâu phân tích những bản năng
sinh vật ở con ngời và khuếch đại lên, tuyệt đối hoá đi, không thấy
đợc bản chất xã hội con ngời. Nh vậy nó đã hạ thấp con ngời, bênh
vực khuyến khích những hành vi phi xã hội, nó coi giáo dục chỉ thể
hiện tiếp tục những cái sẵn có của bản năng và hớng cho những cái
đó (thăng hoa) lên, chứ không thể hình thành, phát triển những
năng lực, phẩm chất mới từ xã hội đa lại cho con ngời.
Thuyết hành vi (chủ nghĩa hành vi) cũng đợc hình thành từ đầu
thế kỷ này ở châu Âu và Mĩ. Ngày nay, thuyết này cũng đang đợc
thịnh hành ở Mĩ và nhiều nớc t bản. ở Việt Nam từ khi Mĩ xâm lợc
thuyết hành vi chủ nghĩa thực dụng cũng đợc thâm nhập vào:
thuyết này cho rằng không cần quan tâm đến bản chất xã hội, đến
tâm lý, ý thức, đời sống tâm hồn của con ngời mà chỉ cần biết: cho
một kích thích (S) phản ứng (R) nh thế nào. Phản ứng nào có lợi thì

tiếp tục củng cố duy trì. Những ngời đề ra thuyết này không những
nghiên cứu thực nghiệm ở động vật (chuột, bồ câu, khỉ ) để giải
thích hành vi ngời mà còn áp dụng kết quả nghiên cứu của công
thức S - R ở động vật mang vào xã hội (huấn luyện công nhân,
quân đội, giáo dục trẻ em ). Thuyết này là một trong những cơ sở
cho chủ nghĩa thực dụng của Mĩ. Thực chất đó là cách triệt để khai
thác khả năng lao động của ngời công nhân Mĩ, cũng triệt để kích
thích và củng cố những hành vi chấp hành mù quáng của binh lính
Mĩ Nó nhằm sử dụng con ngời nh những công cụ, tiếp thu những
mệnh lệnh nhanh nhất, phản ứng chính xác nhất, có lợi nhất cho
nhà t sản. Còn đời sống tâm hồn của con ngời chỉ là cái hộp đen
không cần biết đến. Cái đó chủ yếu trông vào sự chăm sóc của nhà
thờ.
Ngày nay, một số học giả phơng Tây đã nêu ra thuyết "Frend"
mới và "chủ nghĩa hành vi mới" nhng cũng chỉ là trình bày mềm
dẻo hơn, tinh vi hơn còn bản chất cũng cha thay đổi.
Thuyết "môi trờng quyết định" cho rằng trẻ em sinh ra nh một tờ
"giấy trắng", mọi tác động của môi trờng sẽ ghi lên tờ "giấy trắng"
một cách máy móc, thuyết này có vẻ tiến bộ hơn nhng thực chất coi
con ngời nh một thực thể thụ động, tiếp thu máy móc mọi thụ động
của hoàn cảnh: nh vậy là hoàn cảnh xã hội của mỗi ngời đã định
sẵn bản chất của con ngời tốt hay xấu đều tại "hoàn cảnh", tại "môi
trờng" cả. Đúng là hoàn cảnh, môi trờng rất quan trọng, nhất là đối
với trẻ em nhng môi trờng chung chung không thể tự nó quyết định
tất cả. Cùng một gia đình, một nhóm ngời nhng ngời ta phát triển
rất khác nhau đó thôi. Quan điểm đó rõ ràng không thấy tính biện
chứng giữa hoạt động của cá nhân với tác động của hoàn cảnh,
không thấy tính tích cực lựa chọn, tính năng động của con ngời
trong việc cải tạo hoàn cảnh vợt lên trên hoàn cảnh để tự rèn luyện
mình.

Chúng ta còn bắt gặp nhiều quan điểm sai lệch khác nữa, cũng
có những nhợc điểm nh quan điểm nêu trên.
1.1.2. Quan điểm Macxit
Dựa trên phơng pháp luận duy vật biện chứng Macxit, trên
những thành quả của khoa học nghiên cứu con ngời, ngày nay
chúng ta có thể nêu lên những quan điểm đúng đắn hơn về bản chất
nhân cách của con ngời, nhằm hiểu con ngời một cách đầy đủ,
đúng đắn hơn để có thể giáo dục con ngời một cách có cơ sở tin
cậy.
Con ngời là một thực thể tự nhiên.
Trớc hết chúng ta thấy rõ con ngời là một thực thể tự nhiên, có
nguồn gốc phát triển lâu dài trong lịch sử tiến hoá động vật lên
trong những điều kiện đặc biệt và đạt tới trình độ phát triển cao
nhất trong giới tự nhiên. Con ngời đã trở thành "Chúa tể muôn loài"
nhng với t cách là thực thể tự nhiên, con ngời đã tuân theo các quy
luật sinh vật mang theo các đặc điểm di truyền về hình thái - giải
phẫu - sinh lý của thế hệ trớc, có đặc điểm riêng về giải phẫu sinh
lý, hoạt động thần kinh, có nhu cầu sinh vật, những phản xạ, bản
năng Nhng con ngời đồng thời là thực thể xã hội và đối với một
ngời bình thờng thì ngay cả những hành vi có tính sinh vật, bản
năng cũng đợc ý thức, cũng có tính xã hội, bị quy định bởi "cái xã
hội".
Con ngời là một thực thể xã hội
Quan điểm Macxit nhấn mạnh rằng bản chất tự nhiên của con
ngời chỉ tồn tại với con ngời xã hội nhờ đặc điểm tự nhiên của loài
ngời phát triển đến trình độ cao mà có năng lực hoạt động lao
động. Và chính "Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ
đời sống con ngời và nh thế đến một mức và trên một ý nghĩa nào
đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra con ngời.
Lao động là một quá trình không ngừng đòi hỏi con ngời phải

nâng cao năng lực của mình (từ bàn tay, cơ bắp đến trí óc) để tác
động vào tự nhiên ngày một hiệu quả hơn, đồng thời đó cũng là quá
trình hình thành phát triển các mối quan hệ xã hội giữa ngời và ng-
ời ngày càng phát triển, chính quá trình đó hình thành lên nhân
cách con ngời. K.Maxr đã chỉ rõ: Bản chất con ngời không phải
cái trừu tợng vốn có của mỗi cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con ngời là tổng hoà các mối quan hệ xã hội.
Đối với sự phát triển sinh học cá thể, điều này càng rõ. Đứa trẻ
ra đời không thể tự sống và phát triển. Nó phải nhờ sự chăm sóc
nuôi dạy của những ngời lớn mới có thể biết cời, biết nói, mới có
hành vi ngời, trở thành ngời. Đó là quá trình đứa trẻ lĩnh hội những
kinh nghiệm xã hội lịch sử của loài ngời đã đúc kết lại trở thành
con ngời của xã hội đơng thời (chứ không phải lặp lại lịch sử phát
triển của các thế hệ cha ông). Chính nhờ bản chất xã hội đó mà loài
ngời không ngừng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, hoàn thiện bản
thân mình để tiến lên mãi. (Động vật chỉ hiện thực hoá chơng trình
di truyền đã định sẵn trong gien và thích nghi với hoàn cảnh. Do đó
không thể có phơng thức phát triển nh của loài ngời).
Vẫn là một con ngời nhng khi đại diện cho loài thì con ngời là
một cá thể, khi là thành viên của xã hội thì con ngời là một cá
nhân, khi là chủ thể hoạt động thì con ngời là một nhân cách.
Từ một con ngời tự nhiên để phát triển thành một nhân cách, con
ngời phải chịu hàng loạt những tác động, những chi phối của những
yếu tố chủ quan và khách quan, theo cả quy luật tự nhiên và quy
luật xã hội.
1.2. Khái niệm về sự phát triển nhân cách
Nh trên đã trình bày, nhân cách không sẵn có mà nó đợc nảy
sinh, hình thành, phát triển trong cuộc đời mỗi con ngời.
Sự phát triển của con ngời là sự trởng thành cả về thể chất và
tinh thần. Sự phát triển về thể chất là sự phát triển sinh học, là sự tr-

ởng thành về cơ bắp, thần kinh và các cơ quan nội tạng theo quy
luật tự nhiên. Sự phát triển về tinh thần là sự trởng thành về tâm lý,
ý thức theo quy luật tâm lý và quy luật xã hội trên cơ sở lĩnh hội
nền văn minh nhân loại. Sự phát triển thể chất gắn liền với sự phát
triển về tinh thần, theo quy luật phát triển tâm, sinh lý lứa tuổi đó là
sự biến đổi về số lợng, chất lợng và sự chuyển hoá chúng cho nhau,
là bớc phát triển nhảy vọt tiến lên của từng cá nhân về tài năng và
phẩm hạnh phù hợp với lịch sử xã hội và thời đại. Sự phát triển đó
tạo nên nhân cách con ngời.
Sự phát triển của nhân cách thể hiện ở mức độ năng lực ngày
càng cao, ở bề rộng và tính bền vững của xu hớng, ở tính cách ngày
càng phong phú và có dấu ấn độc đáo của riêng mình.
Sự phát triển nhân cách con ngời là một trong những vấn đề rất
phức tạp của khoa học giáo dục. Nó chịu sự tác động và là kết quả
tác động của nhiều yếu tố tự nhiên và xã hội, bên trong và bên
ngoài, khách quan và chủ quan, tự phát và có ý thức Dựa trên
những thành tựu mới của tâm lý học và giáo dục học Macxit, có thể
và cần phải nêu một số điểm dới đây:
- Đứa trẻ ra đời đã là một con ngời nhng nó phải đợc sống trong
xã hội loài ngời, tiếp thu những kinh nghiệm xã hội lịch sử của loài
ngời mới phát triển thành một nhân cách.
- Sơ sinh học của bản thân đứa trẻ là tiền đề, tiềm năng của sự
phát triển nhân cách.
- Mối quan hệ của trẻ với môi trờng tự nhiên và xã hội là điều
kiện của sự phát triển nhân cách. Nhng đó không phải là môi trờng
chung chung mà là quan hệ của mỗi chủ thể với những đối tợng
nhất định của môi trờng, những cái mà hoạt động của chủ thể nhằm
vào, những cái lôi cuốn hấp dẫn chủ thể hoạt động đó.
- Hoạt động và quan hệ giao tiếp của mỗi cá nhân nhằm tiếp thu
những kinh nghiệm tiên tiến của loài ngời là phơng thức và động

lực của sự phát triển nhân cách.
- Giáo dục là nhân tố chủ đạo trong quá trình phát triển nhân
cách thế hệ trẻ.
2. Vai trò của di truyền và môi trờng trong sự phát triển nhân
cách
2.1. Vai trò của di truyền
Đứa trẻ ngay từ lúc sinh ra đã kế thừa những phẩm chất sinh vật
của các thể hệ cha ông, nó mang dấu ấn đặc trng của nòi giống, đó
là hiện tợng di truyền. Các đặc điểm sinh học (thông tin sinh học)
của mỗi con ngời và cả sinh vật nói chung đợc ghi lại thành một
chơng trình độc đáo gọi là mã di truyền, gien là vật mang mã di
truyền của thế hệ trớc truyền lại cho thế hệ sau. Nhờ di truyền mà
đặc điểm của loài đợc giữ lại, đợc phát triển và hoàn thiện theo con
đờng tiến hoá tự nhiên.
Di truyền học đã chứng minh rằng các thế hệ con ngời có thể
truyền lại cho nhau những đặc điểm về cấu tạo cơ thể, về các loại
hình thần kinh, về chức năng hoạt động của chúng tạo thành sức
sống tự nhiên của con ngời. Sức sống tự nhiên là những tiền đề vật
chất và có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển nhân
cách.
Tất cả đều thừa nhận rằng ở mỗi con ngời có thể có một khả
năng bẩm sinh nào đó. Nếu khả năng này phù hợp với một loại hoạt
động thì nó giúp con ngời thực hiện công việc ấy một cách dễ
dàng, nhanh chóng và có hiệu quả. Hơn thế nữa, ở những ngời đặc
biệt còn có khả năng khiếu, tài năng bẩm sinh biểu hiện dới dạng
mầm mống t chất, nếu biết phát hiện và bồi dỡng thì họ có thể trở
thành nhân tài có ích cho đất nớc.
Tuy nhiên, quá trình phát triển về mặt phẩm chất xã hội thì con
ngời bắt đầu từ số không. Các thuộc tính tâm lý phức tạp nh ý thức,
thế giới quan, tình cảm, niềm tin đạo đức không có trong một ch-

ơng trình di truyền nào cả. ở đây hoàn cảnh sống, hoạt động, giao
tiếp của cá nhân và giáo dục có vai trò quan trọng đối với quá trình
hình thành và phát triển các phẩm chất đó của nhân cách.
Do vậy, cần phải đánh giá đúng vai trò của yếu tố sinh học, vừa
thấy vị trí quan trọng của nó, vừa không tuyệt đối hoá nó, để tránh
những sai lầm trong nhận thức, cũng nh trong tổ chức các hoạt
động giáo dục.
2.2. Vai trò của môi trờng
Bên cạnh những yếu tố sinh học, con ngời trong quá trình phát
triển để trở thành nhân cách còn chịu sự tác động của môi trờng
sống. Môi trờng là hệ thống phức tạp những hoàn cảnh bên ngoài,
kể cả các điều kiện tự nhiên xã hội, có ảnh hởng trực tiếp đến cuộc
sống, hoạt động và phát triển nhân cách. Cả hai loại môi trờng: môi
trờng tự nhiên và môi trờng xã hội.
Môi trờng tự nhiên là điều kiện địa lý - sinh thái. Môi trờng sinh
thái có ảnh hởng rất lớn đến sự phát triển thể chất. Vị trí địa lý tự
nhiên và môi trờng và môi trờng địa lý kinh tế tốt tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc sống và hoạt động của ngời.
Môi trờng xã hội là điều kiện sống trong xã hội với các mối
quan hệ giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với tập thể.
Gia đình là môi trờng sống đầu tiên của đứa trẻ. Gia đình là nơi
sinh ra và cũng là nơi giáo dục đứa trẻ, cha mẹ là những nhà giáo
dục đầu tiên. Mức sống, trình độ học vấn, đời sống văn hóa, thói
quen, nền nếp sống của gia đình, mối quan hệ tình cảm của các
thành viên, tính mẫu mực của ngời lớn và phơng pháp giáo dục gia
đình có ảnh hởng hàng ngày, hàng giờ đến đứa trẻ.
Tập thể trẻ em, trong đó là những nhóm bạn bè, lớp học, đội
thiếu niên có ảnh hởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách của trẻ
em. Tập thể với t cách là cộng đồng xã hội đặc biệt đợc tổ chức ở
trình độ cao đã tạo điều kiện tốt cho trẻ em hoạt động và giao lu.

Trong sinh hoạt tập thể, trẻ em chọn lọc những gì phù hợp với sở tr-
ờng, xu hớng, năng lực của mình để hoạt động và chịu những tác
động có ý thức và không ý thức từ bên ngoài mà lớn lên. Các nhà
giáo dục rất coi trọng tập thể, coi tập thể vừa là môi trờng vừa là
phơng tiện để giáo dục trẻ em.
Tuy nhiên những nhóm bạn bè tự phát cũng có ảnh hởng lớn đến
trẻ em. Bạn tốt, trẻ em đợc dìu dắt giúp đỡ, bạn bè xấu có ảnh hởng
không tốt đối với trẻ em. "Chọn bạn mà chơi" là câu châm ngôn rất
đúng mà cha ông ta đã răn dạy.
Môi trờng rộng hơn là cả xã hội với thể chế chính trị, luật pháp,
hệ t tởng, trình độ dân trí, truyền thống văn hoá dân tộc và các
quan hệ xã hội khác có ảnh hởng rất nhiều đến sự phát triển của
trẻ em. Trình độ sản xuất, chế độ chính trị quy định cả chiều hớng
và nội dung của nền giáo dục xã hội và cũng quy định cả chiều h-
ớng phát triển của từng cá nhân.
Các mối quan hệ xã hội phức tạp ảnh hởng theo cả hai hớng tích
cực và tiêu cực đến trẻ em, đó chính là quá trình xã hội hoá con ng-
ời. Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hởng của môi trờng đến với
cá nhân còn tuỳ thuộc vào lập trờng quan điểm của cá nhân, tùy
thuộc vào xu hớng, năng lực của cá nhân, bởi vì ở chừng mực nhất
định con ngời còn tham gia vào cải tạo môi trờng. Đúng nh K.Marx
đã chỉ ra: "Con ngời tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh
cũng tạo ra con ngời đến mức đó".
3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách
3.1. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách
Sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh chỉ đợc diễn ra
trong quá trình các em tích cực tham gia các loại hình hoạt động và
các mối quan hệ muôn hình muôn vẻ trong xã hội, nhằm chiếm
lĩnh các kinh nghiệm trong xã hội, các giá trị văn hoá của loài ngời.

Giáo dục học sinh chính là đa các em gia nhập vào các quan hệ xã
hội mới tổ chức cuộc sống, tổ chức và hớng dẫn các loại hình hoạt
động và giao lu của học sinh, bao gồm cả việc chọn lựa các đối t-
ợng hoạt động và quy định các chuẩn mực giao lu. Kích thích và
điều chỉnh các phơng thức hoạt động và giao lu của các em.
Quá trình giáo dục gồm cả tác động của các yếu tố sinh họccũng
nh tác động của các yếu tố xã hội, cả tác động của hoạt động tổ
chức và lãnh đạo của nhà giáo dục cũng nh tác động của hoạt động
và giao lu của học sinh. Quá trình giáo dục đó đợc kết hợp chặt chẽ
với quá trình xã hội đợc diễn ra không chỉ ở nhà trờng mà ở cả gia
đình, cơ sở sản xuất xã hội
Với quan niệm nh vậy, qúa trình giáo dục là hình thái cơ bản và
chủ yếu của sự phát triển nhân cách học sinh. Giáo dục là con đờng
ngắn nhất giúp thế hệ trẻ phát triển, bỏ qua những mò mẫm không
cần thiết trong cuộc đời một con ngời.
Trong các loại giáo dục: giáo dục gia đình, xã hội và nhà trờng
thì giáo dục nhà trờng là quan trọng nhất.
Nhà trờng là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, có đội ngũ các
nhà s phạm đợc đào tạo, có nội dung chơng trình chọn lọc, có ph-
ơng pháp phù hợp với mọi lứa tuổi, có các phơng tiện kỹ thuật đặc
thù phục vụ cho giáo dục. Mục đích giáo dục nhà trờng phù hợp
với yêu cầu xã hội và thời đại. Giáo dục nhà trờng bằng kiến thức
và phơng pháp khoa học, bằng tổ chức các hoạt động, giao lu trong
thực tiễn, làm cho nhân cách học sinh đợc hình thành. Giáo dục tạo
nên bộ mặt tâm lý của cá nhân phù hợp với những tiêu chuẩn và giá
trị xã hội và thời đại.
Giáo dục gia đình đợc tiến hành trong cả cuộc đời một con ngời.
Với đặc điểm chủ yếu là mối quan hệ hôn nhân và huyết thống,
giáo dục gia đình đợc xây dựng trên cơ sở tình cảm bền chặt có ảnh
hởng rất lớn đến sự phát triển của môĩ con ngời. Ngày nay giáo dục

học đã thừa nhận nề nếp gia phong, truyền thống gia đình nh một
yếu tố giáo dục cực kỳ quan trọng không thể coi thờng.
Giáo dục xã hội là giáo dục của toàn xã hội phải với thể chế
chính trị, pháp luật, với truyền thống văn hoá, đạo đức đợc thực
hiện qua hệ thống tổ chức nhà nớc, qua bộ máy tuyên truyền của hệ
thống thông tin đại chúng, qua d luận xã hội, qua hoạt động giáo
dục của các đoàn thể quần chúng góp phần quan trọng cho sự
phát triển nhân cách.
Gia đình, nhà trờng và xã hội là 3 lực lợng giáo dục to lớn, nếu
đợc phối hợp chặt chẽ, cùng thống nhất một mục đích, một yêu cầu
và cùng một phơng thức giáo dục sẽ đem lại kết quả giáo dục tốt
đẹp.
Giáo dục ngoài việc bồi dỡng những phẩm chất tốt đẹp của con
ngời còn có thể giúp sửa chữa những lệch lạc trong ý thức đạo đức
và hành vi của con ngời (giáo dục lại) và hơn thế nữa giáo dục còn
có thể giúp khắc phục cả những khuyết tật của cơ thể, tinh thần do
bẩm sinh hoặc rủi ro bệnh tật (giáo dục ngời có tật, thiểu năng bẩm
sinh) giúp con ngời hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng.
Giáo dục còn bao gồm cả tự giáo dục, tự giáo dục là bớc tiếp
theo những quyết định kết quả của toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Tự
giáo dục, tự tu dỡng là hoạt động có ý thức là giai đoạn phát triển
cao của nhân cách.
Nh vậy giáo dục là nhân tố chủ yếu trong quá trình phát triển
nhân cách. Một nền giáo dục mạnh, đợc tổ chức tốt, bằng cách
hình thức hoạt động và giao lu phong phú và đa dạng, với những
phơng pháp khoa học có thể làm cho con ngời đạt tới sự phát triển
toàn diện phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Tóm lại, sự phát triển của con ngời là toàn bộ sự phát triển, hoàn
thiện về thể chất và tinh thần, nó bị chi phối bởi hàng loạt những
yếu tố chủ quan và khách quan. Nhân cách con ngời là tổ hợp

những phẩm chất xã hội. Sự phát triển của nhân cách đợc thực hiện
dới ảnh hởng của hệ thống các quan hệ xã hội mà con ngời sống,
hoạt động và giao lu. Giáo dục với t cách là một hoạt động đặc biệt
có vai trò chủ đạo, có ảnh hởng quyết định trong sự phát triển nhân
cách, một nhân cách tốt đẹp không thể phát triển ngoài giáo dục.
3.2. Giáo dục và các giai đoạn phát triển nhân cách của học sinh
theo lứa tuổi
3.2.1. Một vài nét về thời kỳ trớc tuổi học
ở thời kỳ này ngời ta thờng đa ra giai đoạn cơ bản:
* Tuổi sơ sinh (từ 0 đến 1 tuổi) là thời kỳ đứa trẻ rất non yếu,
sống và phát triển đợc phải nhờ vào sự chăm sóc quan hệ trực tiếp
của ngời lớn. Nhờ sự nuôi dậy của ngời lớn chỉ sau 2 - 3 tháng đứa
trẻ đã biết "hóng chuyện", nhoẻn cời, "phức cảm hớn hở", đó là dấu
hiệu sơ khai của cảm xúc ngời đã hình thành ở đứa trẻ qua giao tiếp
trực tiếp với ngời lớn. Rồi ít lâu sau đứa trẻ biết chăm chú nhìn
ngắm những đồ vật xung quanh (một quả bóng bay treo lơ lửng,
một tàu lá lơ lửng đung đa ) trẻ tỏ ra thích thú mỗi khi đợc bế đi
chơi cho nhìn ngắm sự vật xung quanh, đó chính là "nhu cầu về
những ấn tợng bên ngoài" đã nảy nở, là mầm mống của nhu cầu và
khả năng nhận thức ở đứa trẻ.
Hiện tợng biết lẫy, biết ngồi, biết bò, biết đi, bập bẹ nói là những
mốc phát triển quan trọng cả về thể chất và tâm lý của đứa trẻ.
ở giai đoạn này phải tác động giáo dục quan trọng nhất là sự
chăm sóc trực tiếp của ngời lớn, đặc biệt của ngời mẹ với đứa trẻ,
cho bú, vỗ về âu yếm, ru, nựng, bế đi rong chơi
Tuổi vờn trẻ (từ 1 - 3 tuổi) là thời kỳ trẻ thích tự mình chơi với
đồ chơi, một bớc quan hệ gián tiếp hơn với ngời lớn. Chủ yếu trẻ
chơi bên cạnh nhau, nhờ tiếp xúc với đồ chơi trẻ tiến hành các thao
tác rung, lắc, sờ, nắm, đập, ném, leo trèo mà tò mò hiểu biết về
đồ vật, hiện tợng xung quanh, tích luỹ đợc kinh nghiệm c xử với

thế giới đồ vật xung quanh theo kiểu ngời hiện đại. Cũng nhờ đó
đứa trẻ phát triển cảm giác, biểu tợng, trí nhớ, óc tởng tợng, ngôn
ngữ, óc tò mò tìm tòi
Nhiệm vụ giáo dục quan trọng của thời kỳ này là tạo cho trẻ
nhiều đồ chơi chứa đựng nội dung tâm lý phù hợp, hấp dẫn trẻ và tổ
chức hớng dẫn, trẻ biết chơi với đồ chơi. Chính bằng quá trình đó
mà phát triển cơ thể và các chức năng sinh lý, tâm lý đứa trẻ.
Tuổi mẫu giáo (3 - 5 tuổi) là thời kỳ phát triển mạnh mẽ tất cả
các chức năng tâm lý, hình thành nên những cơ sở đầu tiên của một
nhân cách. Bớc phát triển về chất là đứa trẻ có ý thức về "cái tôi",
biết hành động tự ý, biết phân biệt hành động của nó và của ngời
khác. Vì vậy việc giáo dục tính tình, giáo dục những hành vi theo
chuẩn mực xã hội là rất quan trọng. Thông qua các trò chơi với
bạn, trẻ có thể tiếp thu các phơng thức, hành vi chuẩn mực đạo đức
một cách thích thú.
Vì vậy, ở tuổi này phải cho trẻ đến lớp mẫu giáo để đợc giáo dục
toàn diện, có tổ chức là hết sức cần thiết. Việc chuẩn bị cho trẻ tâm
lý sẵn sàng đi học, khả năng học tập và biết giao tiếp trong hoàn
cảnh mới khi vào lớp một trờng phổ thông là những nhiệm vụ giáo
dục quan trọng của giai đoạn này.
3.2.2. Tuổi nhi đồng (6 - 10 tuổi)
Là giai đoạn phát triển nhân cách mạnh mẽ và hài hoà tăng
nhanh về số lợng kiến thức và chất lợng của các chức năng tâm lý ở
đứa trẻ. Hoạt động học tập ở trờng phổ thông là hoạt động chủ đạo
có ý nghĩa quyết định đối với chất lợng của sự phát triển nhân cách
của giai đoạn này. Việc biết chữ, đợc tiếp thu kiến thức về tự nhiên,
xã hội một cách có hệ thống không chỉ làm cho tâm hồn đứa trẻ mở
rộng, phong phú mà quan trọng hơn là đứa trẻ biết cách t duy khoa
học và sống có văn hoá, phát triển ý thức về xã hội và về bản thân
mình. Đây là giai đoạn tạo cơ sở, nền tảng cho toàn bộ sự phát triển

nhân cách về sau này. Vì vậy nội dung giáo dục, phơng pháp giáo
dục và vai trò ngời giáo viên đặc biệt quan trọng đối với trẻ ở giai
đoạn này.
3.2.3. Tuổi thiếu niên (11 - 15 tuổi)
Là giai đoạn phát triển mất cân bằng cả mặt sinh lý lẫn tâm lý,
là bớc quá độ từ trẻ em lên ngời lớn, thời kỳ có những chuyển biến
độc đáo, phức tạp. Đây là thời kỳ gặp nhiều khó khăn trong công
tác giáo dục nên nhiều ngời gọi là giai đoạn "khủng hoảng", "bất
trị"
Sự phát triển sinh lý và tâm lý ở giai đoạn này có những chuyển
biến về chất:
- Sự phát triển cơ thể, nhất là hiện tợng kinh nguyệt ở nữ, những
dấu hiệu sinh dục ở nam đã khiến các em tò mò chú ý đến sự biến
đổi trong bản thân mình, phát triển ý thức về bản thân và cảm giác
trởng thành của cơ thể, ý thức về sự khác biệt giới tính và xa cách
"xung khắc" giữa hai giới.
- ý thức về bản thân, cảm giác trởng thành làm nẩy sinh xu h-
ớng vơn lên ngời lớn, nhu cầu tự khẳng định, lòng tự trọng phát
triển mạnh, lòng tự ái cao, do đó khi bị xúc phạm trẻ ở tuổi này
phản ứng rất mạnh. Mọi tác động bên ngoài vào cá nhân không nhẹ
nhàng thoảng qua nh ở tuổi nhi đồng mà thông qua "bộ máy điều
chỉnh" của tự ý thức cá nhân để chấp nhận hay phủ nhận, khuếch
đại hay triệt tiêu các tác động đó.
- Sự mâu thuẫn giữa khát vọng vơn lên ngời lớn, nhu cầu tự
khẳng định mình và năng lực với kinh nghiệm còn non kém, vị trí
xã hội cha đợc thừa nhận đã khiến cho thiếu niên có trạng thái căng
thẳng, thiếu niên tự tìm cách thể hiện mình, khẳng định mình, thoả
mãn nhu cầu giao tiếp trong nhóm bạn bè cùng tuổi. Do đó hoạt
động và giao lu trong nhóm, trong tập thể có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển nhân cách của thiếu niên.

Chính từ những đặc điểm trên mà các nhà giáo dục rất coi trọng
những nguyên tắc yêu cầu cao và tôn trọng nhân cách thiếu niên,
giáo dục trong tập thể và bằng tập thể, giáo dục chung và giáo dục
cá biệt, chú ý giáo dục
3.2.4. Giai đoạn đầu thanh niên (15 - 18 tuổi)
Sự mất cân đối ở tuổi thiếu niên đã trở lại cân bằng hài hoà ở
giai đoạn này: cơ thể phát triển cân đối, nở nang (nhất là ở nữ tạo
nên vẻ đẹp hài hoà). Sự phát triển về nhận thức, tình cảm, ý chí, tự
ý thức cân bằng hơn ở tuổi thiếu niên. Đặc điểm nổi bật ở tuổi này
là:
- Nguyện vọng có nghề nghiệp, một vị trí xã hội xứng đáng phù
hợp với bản thân mình. Những ớc mơ thờng đẹp đẽ, cao xa, mơ
mộng rồi dần dần trở về với thực tế. ở đây chứa đựng biết bao hứng
thú, hoài bão, các niềm vui, nỗi buồn và thất vọng, hy vọng
- Vấn đề quan điểm sống, lối sống là mối quan tâm thờng
xuyên, nhiều khi rất gay gắt, căng thẳng với tuổi này. Sự đấu tranh,
xác lập niềm tin, thế giới quan đã phân hoá ra nhiều kiểu loại phát
triển khác nhau: một số hứng thú say sa đối với KHKT, nghệ thuật,
số khác đi vào lao động, hoạt động chính trị, xã hội bằng cuộc sống
tự lập của mình, một số lao vào kiếm nhiều tiền bằng mọi cách và
ăn chơi cho thoả thích, có một số mất phơng hớng, bâng khuâng,
chờ đợi, buồn chán
- Quan hệ với bạn khác giới và lòng khao khát về tình yêu nam
nữ có ý nghĩa quan trọng đến đời sống tâm hồn của lứa tuổi này,
đồng thời tình bạn cùng giới cũng đợc phát triển đẹp nhất và có
chiều sâu, bền vững.
- Cảm giác về sự trởng thành của cơ thể, sự ý thức về vị trí xã
hội của bản thân, tự ý thức, tự đánh giá đều phát triển mạnh. Đó là
cơ sở cho một đời sống nội tâm phong phú đa dạng và phức tạp của
tuổi này. Đó cũng là cơ sở cho sự tự tu dỡng, tự giáo dục, tự hoàn

thiện ở tuổi này.
Từ những đặc điểm trên ta thấy vấn đề giáo dục nhân cách ở lứa
tuổi này cần chú ý đến những vấn đề: giáo dục hớng nghiệp, giáo
dục lao động nghề nghiệp, hình thành niềm tin, thế giới quan và lối
sống lành mạnh, giáo dục tình đồng chí, tình bạn, tình yêu đúng
đắn. Cần coi trọng tổ chức các hoạt động tập thể trong các nhóm có
cả nam và nữ, đồng thời hết sức coi trọng vấn đề tự rèn luyện, tự
giáo dục.
3.2.5. Một số đặc điểm học sinh học nghề
Học sinh học nghề phần lớn tuổi từ 16 - 20, do đó họ có những
đặc điểm chung của lứa tuổi thanh niên mới lớn nói ở phần trên.
Tuy nhiên đối tợng học sinh học nghề đa dạng, phức tạp hơn nhiều.
a. Độ tuổi phức tạp trong một trờng, một lớp có thể có học sinh
từ 16 đến hơn 30 tuổi. Tuỳ trờng, từng nghề đào tạo mà có tỉ lệ lứa
tuổi nào nhiều hơn. Với độ tuổi chênh lệch nh thế, vấn đề phân
tách đặc điểm các nhóm lứa tuổi để đối xử s phạm cho phù hợp là
điều rất cần thiết.
b. Tỷ lệ nữ sinh trong các trờng nghề còn thấp và phân bố không
đều, nhìn chung tỷ lệ nữ sinh học nghề chiếm 25%. Tuy nhiên có
trờng nhiều nữ (cắt may, du lịch, thơng nghiệp ) có trờng không
có nữ sinh hoặc rất ít (công nhân tầu cuốc, thi công cơ giới, lái xe,
lái tầu ), có trờng tỷ lệ nữ khá đông nhng phân bố vào lớp các
nghề rất khác nhau.
Đây cũng là một đặc điểm cần chú ý trong tổ chức tập thể học
sinh.
c. Trình độ học vấn của học sinh khi vào trờng nghề cũng chênh
lệch nhiều. Từ đó vấn đề phân bố và đào tạo nghề cho phù hợp và
chú ý chọn nội dung, phơng pháp giảng dạy, giáo dục phù hợp với
từng đối tợng là điều cần quan tâm.
d. Hoàn cảnh xã hội trớc khi vào trờng nghề cũng là một đặc

điểm phức tạp cần tìm hiểu, nắm vững mới giáo dục học sinh đợc
sát hợp:
- Mới tốt nghiệp trờng phổ thông vào trờng nghề ngay.
- ở nhà thi lại 2 - 3 năm rồi mới vào trờng nghề.
- ở nhà đi làm 1 - 3 năm rồi mới vào trờng nghề.
Trong số học sinh học nghề còn có cả một số thanh niên có tiền
án tiền sự.
Những đặc điểm trên cùng với hoàn cảnh xuất thân khác nhau:
từ gia đình cán bộ, công nhân viên trong ngành, ngoài ngành từ
nông thôn, miền núi hay gia đình làm nghề tự do đều là những
vấn đề cần tính đến, phân tích chúng để hiểu rõ đối tợng, có sự đối
xử s phạm phù hợp.
e. Một số đặc điểm tâm lý cần chú ý:
Toàn bộ những đặc điểm nêu trên và nhiều đặc điểm khác nữa
tạo cho học sinh nghề có những tâm lý phức tạp cần quan tâm.
- Động cơ thái độ nghề nghiệp của học sinh khi vào trờng nghề
rất phức tạp: một số tự nguyện thích thú vào trờng, đa số do nhiều
nguyên nhân nghe theo bố mẹ mà vào, vào vì đờng bất đắc dĩ, vào
để nhờ thời, vào với những động cơ khác. Do đó, cần phải chú ý
giáo dục động cơ thái độ nghề nghiệp cho học sinh ngay khi mới b-
ớc chân vào trờng nghề và trong suốt quá trình học tập.
Tác phong công nghiệp ở học sinh hầu nh cha có, hầu hết cha
qua lao động công nghiệp, lại quen làm việc sinh hoạt trong môi tr-
ờng sản xuất nhỏ nên ở học sinh có thói quen tự do tuỳ tiện, luộm
thuộm, lề mề, coi thờng nội quy sinh hoạt tập thể, quy trình, quy
phạm sản xuất.
Đặc biệt trong việc hình thành kỹ năng, kỹ xảo, thói quen lao
động kỹ thuật phải bắt đầu huấn luyện từ đầu, từ những cái sơ đẳng
nhất.
Đây là điều phải đặc biệt chú ý để rèn luyện cho các em có tác

phong công nghiệp trong suốt quá trình học ở trờng nhất là giai
đoạn thực hành nghề, thực tập sản xuất.
- Nếp sống có văn hoá, đạo đức là một trong những điều cần
quan tâm xây dựng cho học sinh học nghề. Do những đặc điểm nh
trên đã nêu và tâm trạng cho rằng mình là thợ tức là lao động "trâu
bò", "công nhân công nheo" nên học sinh coi nhẹ việc tu dỡng
đạo đức lối sống có văn hoá, c xử văn minh lịch sự mà thờng sống
"buông thả", "xô bồ" (ăn nhậu, chơi bời nghiện hút, uống rợu, cờ
bạc ).
Vấn đề quan hệ nam nữ, tình yêu, kế hoạch hoá gia đình cũng
cần giáo dục. Cần phải làm cho họ ý thức đợc rằng mình là thanh
niên của giai cấp công nhân, giai cấp lãnh đạo xã hội, giai cấp tiêu
biểu cho nền đạo đức mới, lối sống mới văn minh nhất Do đó
phải rèn luyện mình cho xứng đáng.
Nhu cầu và phơng pháp tự học tập, rèn luyện vơn lên là mặt yếu
của học sinh học nghề. Đa số học sinh có tâm lý trung bình chủ
nghĩa, chỉ cố gắng khi bị thúc ép, chỉ lo đạt điểm số, có bằng tốt
nghiệp. Số thực sự tự giác say sa tìm tòi học tập một cách hứng thú
thờng xuyên để tự nâng cao trình độ, tự hoàn thiện nhân cách của
mình còn rất ít. Nhng đây lại chính là một yêu cầu cơ bản của con
ngời trong xã hội hiện đại (không ngừng học tập nâng cao trình độ
mọi mặt, thích họp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của xã
hội không ngừng đổi mới).
Nói tóm lại, từ một học sinh phổ thông với địa vị "ăn theo" khi
vào trờng nghề phải giáo dục cho các em tâm lý, vị trí của ngời lao
động, có ý thức tự lập tự chủ, rèn luyện cho các em t cách, năng
lực, đạo đức, nếp sống của ngời công nhân hiện đại. Đó là sự cải
biến, hình thành nhân cách một cách cơ bản, sâu sắc ở ngời học
sinh học nghề, để trở thành ngời lao động kỹ thuật có nghề nghiệp
theo yêu cầu ngày càng cao của thị trờng lao động xã hội. Nền kinh

tế hàng hoá nhiều thành phần đòi hỏi học sinh học nghề khi ra tr-
ờng phải có khả năng cạnh tranh, chấp nhận sự sàng lọc, phải
không ngừng vơn lên hoàn thiện những phẩm chất năng lực của
mình trong lao động nghề nghiệp.
Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày quan điểm Macxit về bản chất của nhân cách con
ngời (bản chất, nguồn gốc, điều kiện, động lực của phát triển).
2. Trình bày về vai trò của các yếu tố tác động đến sự hình thành
và phát triển nhân cách học sinh.
3. Hãy nêu những đặc điểm cơ bản của mỗi giai đoạn phát triển
nhân cách của trẻ em và những vấn đề giáo dục cần quan tâm đối
với mỗi giai đoạn.
4. Nêu những đặc điểm nhân cách của học sinh học nghề và
những vấn đề lu ý về giáo dục.

×