Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Công tác phân tích tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài chính tại công ty Bảo Việt Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.53 KB, 92 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài
chính đã phát triển khá toàn diện và ngày càng mở rộng cả về quy mô, tốc độ và
phạm vi hoạt động. Bảo hiểm ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, bởi lẽ bảo hiểm không chỉ là một kênh huy động vốn của nền kinh tế mà nó
còn góp phần quan trọng trong công tác đảm bảo ổn định tài chính cho các cá nhân,
gia đình, tổ chức và doanh nghiệp để ổn định đời sống, khôi phục sản xuất kinh
doanh.
Khi nền kinh tế càng ngày càng phát triển, cuộc sống của con người ngày càng
được nâng cao thì nhu cầu về bảo hiểm ngày càng cần được đáp ứng và các loại hình
sản phẩm bảo hiểm ngày càng hoàn thiện, ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm tập
trung kinh doanh khai thác tiềm năng này. Điều đó đồng nghĩa với việc cạnh tranh
càng ngày càng gay gắt hơn, phong phú hơn. Để tồn tại và phát triển các doanh
nghiệp bảo hiểm nói riêng và các doanh nghiệp nói chung cần phải biết được chính
xác thế mạnh và tiềm năng của mình giúp cho nhà quản trị có thể đưa ra những quyết
định, lựa chọn phương án tối ưu. Bởi vậy việc phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp thông qua hệ thống báo cáo tài chính có ý nghĩa vô cùng quan trọng với nhiều
phía: cả chủ doanh nghiệp và bên ngoài- là một đòi hỏi khách quan để doanh nghiệp
đạt được mục tiêu của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đó, quan thời gian thực tập tại
công ty Bảo Việt Nam Định em đã chọn đề tài: “Công tác phân tích tình hình tài
chính thông qua hệ thống báo cáo tài chính tại công ty Bảo Việt Nam Định” làm
chuyên đề thực tập tốt nghiệp cho mình.
Nội dung đề tài gồm ba chương:
Chương I: Khái quát chung về hệ thống báo cáo tài chính và phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp bảo hiểm thông qua hệ thống báo cáo tài chính.
Chương II: Thực trạng phân tích tình hình tài chính tại công ty Bảo Việt Nam Định
trong thời gian qua.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phân tích tình hình tài chính
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B


1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của công ty Bảo Việt Nam Định.
Em xin chân thành cảm ơn Th.s Tô Thị Thiên Hương và các cô chú, anh chị
trong công ty đã giúp em trong thời gian qua để em có thể hoàn thành chuyên đề thực
tập của mình
CHƯƠNG I .
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG BÁO CÁO
TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM THÔNG QUA HỆ THỐNG
BÁO CÁO TÀI CHÍNH.
I. Lý luận chung về hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp bảo
hiểm
1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của báo cáo tài chính
1.1. Sự cần thiết khách quan
Báo cáo tái chính là phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các
chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh có hệ thống tình hình tài sản của doanh nghiệp,
tình hình kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình lưu chuyển các dòng tiền và sự vận
động sử dụng vốn của doang nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, DNBH phải thực hiện đầy đủ các quyết
toán tài chính và chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật, vì vậy việc lập báo
cáo tài chính không chỉ mang lại ý nghĩa quan trọng cho doanh nghiệp mà còn thực
hiện nghĩa vụ với pháp luật.
Việc lập báo cáo tài chính không chỉ là việc chấp hành quy định của pháp luật
mà còn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong viêc cung cấp thông tin, phục vụ cho việc
ra quyết định tài chính. Hệ thống báo cáo tài chính chỉ có ý nghĩa trong quản trị kinh
doanh khi nó đảm bảo đầy đủ ba yêu cầu: Trung thực, đầy đủ và kịp thời.
1.2. Tác dụng của báo cáo tài chính
Hệ thống báo cáo tài chính có một tác dụng cực kỳ quan trọng đối với công
tác quản lý doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện ở những vấn đề sau đây:

Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Báo cáo tài chính là những báo cáo được trình bày hết sức tổng quát, phản
ánh một cách tổng hợp nhất về tình hình tài sản, các khoản nợ, nguồn hình thành tài
sản, tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
- Báo cáo tài chính nhằm cung cấp những thông tin cần thiết nhất phục vụ chủ
doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác như: các nhà đầu tư, các cơ quan quản
lý cấp trên và toàn bộ cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp…
- Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu để
đánh giá tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, thực trạng tài chính của
doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua, giúp cho việc kiểm tra, giám sát tình hình
sử dụng vốn và khả năng huy động vốn vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Các chỉ tiêu, các số liệu trên các báo cáo tài chính là những cư sở quan trọng
để tính các chỉ tiêu quan trọng khác, nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả
của các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Những thông tin của báo cáo tài chính là những căn cứ quan trọng trong
phân tích, nghiên cứu, phát hiện những khả năng tiềm tàng, là những căn cứ quan
trọng đề ra các quyết định về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc
đầu tư vào doanh nghiệp của chủ sỡ hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương
lai của doanh nghiệp.
- Những báo cáo tài chính còn là những căn cứ quan trọng để xây dựng những kế
hoạch kinh tế-kỹ thuật, tài chính của doanh nghiệp, là những căn cứ khoa học để đề ra hệ
thống các biện pháp xác thực nhằm tăng cường quản trị doanh nghiệp, không ngừng nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
1.3. Đối tượng áp dụng
Hệ thống báo cáo tài chính năm được áp dụng cho tất cả các loại hình doanh
nghiệp thuộc các ngành và các thành phần kinh tế. Riêng các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn
tuân thủ các quy định chung tại phần này và những qui định, hướng dẫn cụ thể phù hợp với

doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính của các ngân hàng và tổ chức tài chính
tương tự được quy định bổ sung ở Chuẩn mực kế toán số 22 "Trình bày bổ sung báo cáo tài
chính của các ngân hàng và tổ chức tài chính tương tự" và các văn bản quy định cụ thể.
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính của các doanh nghiệp ngành đặc thù tuân
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thủ theo quy định tại chế độ kế toán do Bộ Tài chính ban hành hoặc chấp thuận cho ngành
ban hành.
Công ty mẹ và tập đoàn lập báo cáo tài chính hợp nhất phải tuân thủ quy định tại
chuẩn mực kế toán “Báo cáo tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con”.
Đơn vị kế toán cấp trên có các đơn vị kế toán trực thuộc hoặc Tổng công ty Nhà
nước hoạt động theo mô hình không có công ty con phải lập báo cáo tài chính tổng hợp theo
quy định tại Thông tư hướng dẫn kế toán thực hiện Chuẩn mực kế toán số 25“Báo cáo tài
chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con”.
Hệ thống báo cáo tài chính giữa niên độ (Báo cáo tài chính quý) được áp
dụng cho các DNNN, các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán và các
doanh nghiệp khác khi tự nguyện lập báo cáo tài chính giữa niên độ.
2.Hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Hệ thống báo cáo tài chính gồm báo cáo tài chính năm và báo cáo tài chính
giữa niên độ.
2.1. Báo cáo tài chính năm
Báo cáo tài chính năm, gồm:
- Bảng cân đối kế toán Mẫu số B 01 - DN
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Mẫu số B 02 - DN
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Mẫu số B 03 - DN
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính Mẫu số B 09 - DN
2.2. Báo cáo tài chính giữa niên độ
Báo cáo tài chính giữa niên độ gồm báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ và

báo cáo tài chính giữa niên độ dạng tóm lược.
(1) Báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ, gồm:
- Bảng cân đối kế toán giữa niên độ (dạng đầy đủ): Mẫu số B 01a – DN;
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ
(dạng đầy đủ): Mẫu số B 02a – DN;
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giữa niên độ (dạng đầy đủ): Mẫu số B 03a – DN;
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính chọn lọc: Mẫu số B 09a – DN.
(2) Báo cáo tài chính giữa niên độ dạng tóm lược, gồm:
- Bảng cân đối kế toán giữa niên độ (dạng tóm lược): Mẫu số B 01b – DN;
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ
(dạng tóm lược): Mẫu số B 02b – DN;
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giữa niên độ (dạng tóm lược): Mẫu số B 03b – DN;
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính chọn lọc: Mẫu số B 09a – DN.
3. Trách nhiệm lập và trình bày báo cáo tài chính
(1) Tất cả các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế đều phải
lập và trình bày báo cáo tài chính năm.
Các công ty, Tổng công ty có các đơn vị kế toán trực thuộc, ngoài việc phải
lập báo cáo tài chính năm của công ty, Tổng công ty còn phải lập báo cáo tài chính
tổng hợp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất vào cuối kỳ kế toán năm dựa trên báo cáo
tài chính của các đơn vị kế toán trực thuộc công ty, Tổng công ty.
(2) Đối với DNNN, các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán
còn phải lập báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ.
Các doanh nghiệp khác nếu tự nguyện lập báo cáo tài chính giữa niên độ thì
được lựa chọn dạng đầy đủ hoặc tóm lược.
Đối với Tổng công ty Nhà nước và DNNN có các đơn vị kế toán trực thuộc
còn phải lập báo cáo tài chính tổng hợp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ
(*).

(3) Công ty mẹ và tập đoàn phải lập báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ (*)
và báo cáo tài chính hợp nhất vào cuối kỳ kế toán năm theo quy định tại Nghị định số
129/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 của Chính phủ. Ngoài ra còn phải lập báo cáo tài
chính hợp nhất sau khi hợp nhất kinh doanh theo quy định của Chuẩn mực kế toán số 11
“Hợp nhất kinh doanh”
. ((*) Việc lập báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ được thực hiện từ năm 2008)
4. Nguyên tắc và yêu cầu khi lập và trình bày báo cáo tài chính
4.1. Các nguyên tắc lập và trình bày
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ sáu (06) nguyên tắc quy
định tại Chuẩn mực kế toán số 21 – “Trình bày báo cáo tài chính”:Hoạt động liên
tục, cơ sở dồn tích, nhất quán, trọng yếu, tập hợp, bù trừ và có thể so sánh.
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Việc thuyết minh báo cáo tài chính phải căn cứ vào yêu cầu trình bày thông tin
quy định trong các chuẩn mực kế toán. Các thông tin trọng yếu phải được giải trình
để giúp người đọc hiểu đúng thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp.
* Nguyên tắc hoạt động liên tục:
Trước khi lập BCTC cần phải đánh giá khả năng hoạt động liên tục của doanh
nghịêp.BCTC cần phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghịêp hoạt động liên
tục và vẫn sẽ tiếp tục kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi doanh
nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể qui
mô hoạt động liên tục của mình.Nếu các BCTC không được lập trên cơ sở hoạt động
liên tục thì sự kiện này cần được ghi rõ, cùng với cơ sở dùng để lập BCTC và lý do
khiến doanh nghiệp không được hoạt động liên tục.
* Nguyên tắc nhất quán:
Việc trình bày và phân loại trong BCTC phải nhất quán từ niên độ này sang
niên độ khác.Nguyên tắc này đảm bảo những ngươì sử dụng BCTC hiểu được những
sự thay đổi về tình hình tài chính.Tuy nhiên khi có sự thay đổi đáng kể về hoạt động
của mình, doanh nghiệp có thể xem xét lại việc trình bày BCTC nhưng phải công bố

đầy đủ ảnh hưởng sự thay đổi đó về giá trị trong những BCTC.
*Nguyên tắc cơ sở dồn tích:
Đòi hỏi doanh nghiệp phải lập BCTC theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ
các thông tin liên quan đến các luồng tiền. Theo cơ sở kế toán dồn tích, các giao dịch
và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực
thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán và BCTC của kì kế toán liên quan.
Các khoản chi phí được ghi nhận vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo
nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Tuy nhiên việc áp dụng nguyên tắc
phù hợp không cho phép ghi nhận trên bảng cân đối kế toán những khoản mục không
thoả mãn định nghĩa về tài sản hoặc nợ phải trả.
* Nguyên tắc trọng yếu và tập hợp:
Việc lập BCTC chỉ chú trọng đến những vấn đề mang tính trọng yếu, quyết
định bản chất và nội dung của sự vật; không quan tâm đến các yếu tố có ít tác dụng
trong BCTC. Một thông tin được coi là trọng yếu tức là nếu không trình bày hoặc
trình bày thiếu tính chính xác có thể làm sai lệch đáng kể BCTC, làm ảnh hưởng đến
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin. Các khoản mục không mang tính
trọng yếu được tập hợp với các khoản mục khác có cùng tính chất hoặc chức năng
trong BCTC hoặc trình bày trong phần thuyết minh BCTC
* Nguyên tắc bù trừ
Các khoản mục tài sản nợ phải trả trình bày trên BCTC không được bù trừ; trừ
khi có một chuẩn mực quốc tế khác quy định hoặc cho phép bù trừ hoặc các khoản
lãi, lỗ và các chi phí liên quan phát sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống nhau
hoặc tương tự và không có tính trọng yếu.
* Nguyên tắc có thể so sánh.
Các thông tin trên BCTC nhằm để so sánh giữa các kì kế toán phải được trình
bày tương ứng với thông tin bằng số liệu trên BCTC của kì trước. Các thông tin so
sánh cần phải bao gồm cả các thông tin diễn giải bằng lời nếu điều này là cần thiết

giúp cho những người sử dụng hiểu rõ được BCTC của kì hiện tại
4.2. Yêu cầu lập và trình bày BCTC.
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các yêu cầu qui định tại
Chuẩn mực kế toán số 21 - Trình bày báo cáo tài chính, gồm:
- Trung thực và hợp lý:
Để đảm bảo yêu cầu trung thực và hợp lý thì các BCTC phải được lập và trình
bày trên cở sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định có liên
quan hiện hành. Bởi vậy doanh nghiệp phải lựa chọn và áp dụng các chính sách kế
toán nhằm cung cấp các thông tin phù hợp, đáng tin cậy, so sánh được và dễ hiểu.
Trường hợp chưa có quy định ở Chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện
hành thì doanh nghệp phải căn cứ vào chuẩn mực chung để xây dựng các phương
pháp kế toán hợp lý nhằm đảm bảo BCTC cung cấp được những thông tin thích hợp
với nhu cầu ra quyết định kinh tế của người sử dụng; thông tin phải đáng tin cậy,
phản ánh trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh
doanh của công ty; phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và các sự kiện
không chỉ đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng; thông tin phải trình bày
khách quan, không thiên vị và tuân thủ nguyên tắc thận trọng, đầy đủ trên mọi khía
cạnh trọng yếu.
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với qui định của từng
chuẩn mực kế toán nhằm đảm bảo cung cấp thông tin thích hợp với nhu cầu ra quyết
định kinh tế của người sử dụng và cung cấp được các thông tin đáng tin cậy, khi:
+ Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp;
+ Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ đơn
thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng;
+ Trình bày khách quan, không thiên vị;
+ Tuân thủ nguyên tắc thận trọng;

+ Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu.
Việc lập báo cáo tài chính phải căn cứ vào số liệu sau khi khoá sổ kế toán. Báo
cáo tài chính phải được lập đúng nội dung, phương pháp và trình bày nhất quán giữa
các kỳ kế toán. Báo cáo tài chính phải được người lập, kế toán trưởng và người đại
diện theo pháp luật của đơn vị kế toán ký, đóng dấu của đơn vị.
4.3. Kỳ lập báo cáo tài chính
+ Kỳ lập báo cáo tài chính năm
Các doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo kỳ kế toán năm là năm
dương lịch hoặc kỳ kế toán năm là 12 tháng tròn sau khi thông báo cho cơ quan thuế.
Trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp được phép thay đổi ngày kết thúc kỳ kế toán năm
dẫn đến việc lập báo cáo tài chính cho một kỳ kế toán năm đầu tiên hay kỳ kế toán
năm cuối cùng có thể ngắn hơn hoặc dài hơn 12 tháng nhưng không được vượt quá
15 tháng.
+ Kỳ lập báo cáo tài chính giữa niên độ là mỗi quý của năm tài chính (không
bao gồm quý IV).
+ Kỳ lập báo cáo tài chính khác.
Các doanh nghiệp có thể lập báo cáo tài chính theo kỳ kế toán khác (như tuần,
tháng, 6 tháng, 9 tháng...) theo yêu cầu của pháp luật, của công ty mẹ hoặc của chủ sở
hữu.
Đơn vị kế toán bị chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức sở hữu, giải
thể, chấm dứt hoạt động, phá sản phải lập báo cáo tài chính tại thời điểm chia, tách,
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức sở hữu, giải thể, chấm dứt hoạt động, phá
sản
5. Thời hạn nộp và nơi nhận báo cáo tài chính
5.1. Thời hạn nộp báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước:
(a) Thời hạn nộp báo cáo tài chính quý:

+ Đơn vị kế toán phải nộp báo cáo tài chính chậm nhất là 20 ngày, kể từ ngày kết
thúc kỳ kế toán quý, đối với Tổng công ty nhà nước chậm nhất là 45 ngày.
+ Đơn vị kế toán trực thuộc Tổng công ty nhà nước nộp báo cáo tài chính quý cho
Tổng công ty theo thời hạn do Tổng công ty quy định.
(b) Thời hạn nộp báo cáo tài chính năm:
+ Đơn vị kế toán phải nộp báo cáo tài chính năm chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày
kết thúc kỳ kế toán năm, đối với Tổng công ty nhà nước chậm nhất là 90 ngày
+ Đơn vị kế toán trực thuộc Tổng công ty nhà nước nộp báo cáo tài chính năm
cho Tổng công ty theo quy định thời hạn do công ty quy định
Đối với các loại hình doanh nghiệp khác:
- Đơn vị kế toán là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh phải nộp báo cáo tài
chính năm chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm, với các đơn vị
khác thời hạn nộp báo cáo tài chính chậm nhất là 90 ngày.
- Đơn vị kế toán trực thuộc nộp báo cáo tài chính năm cho đơn vị kế toán cấp trên
theo thời hạn do đơn vị kế toán cấp trên quy định.
5.2. Nơi nhận báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
. Nơi nhận báo cáo tài chính
Nơi nhận báo cáo
CÁC LOẠI
DOANH NGHIỆP
(4)
Kỳ
lập
báo
cáo

quan tài
chính
Cơ quan
Thuế

(2)

quan
Thống

DN
cấp trên
(3)
Cơ quan
đăng ký
kinh doanh
1. Doanh nghiệp Nhà nước Quý,
Năm
x
(1)
x x x x
2. Doanh nghiệp có vốn đầu tư Năm x x x x x
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nước ngoài
3. Các loại doanh nghiệp khác Năm x x x x
(1) Đối với các doanh nghiệp Nhà nước đóng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương phải lập và nộp báo cáo tài chính cho Sở Tài chính tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương. Đối với doanh nghiệp Nhà nước Trung ương còn phải nộp
báo cáo tài chính cho Bộ Tài chính (Cục Tài chính doanh nghiệp).
- Đối với các loại doanh nghiệp Nhà nước như: Ngân hàng thương mại, công
ty xổ số kiến thiết, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm, công ty kinh doanh
chứng khoán phải nộp báo cáo tài chính cho Bộ Tài chính (Vụ Tài chính ngân hàng).
Riêng công ty kinh doanh chứng khoán còn phải nộp báo cáo tài chính cho Uỷ ban

Chứng khoán Nhà nước.
(2) Các doanh nghiệp phải gửi báo cáo tài chính cho cơ quan thuế trực tiếp
quản lý thuế tại địa phương. Đối với các Tổng công ty Nhà nước còn phải nộp báo
cáo tài chính cho Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế).
(3) DNNN có đơn vị kế toán cấp trên phải nộp báo cáo tài chính cho đơn vị kế
toán cấp trên. Đối với doanh nghiệp khác có đơn vị kế toán cấp trên phải nộp báo cáo
tài chính cho đơn vị cấp trên theo quy định của đơn vị kế toán cấp trên.
(4) Đối với các doanh nghiệp mà pháp luật quy định phải kiểm toán báo cáo
tài chính thì phải kiểm toán trước khi nộp báo cáo tài chính theo quy định. Báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp đã thực hiện kiểm toán phải đính kèm báo cáo kiểm toán
vào báo cáo tài chính khi nộp cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp cấp
trên.
6. Danh mục và mẫu biểu báo cáo tài chính
Danh mục và mẫu biểu Báo cáo tài chính năm, gồm:
- Bảng cân đối kế toán Mẫu số B 01 – DN
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Mẫu số B 02 – DN
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Mẫu số B 03 - DN
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính Mẫu số B 09 – DN
6.1. Nội dung và kết cấu các BCTC theo chế độ hiện hành đối với doanh nghiệp bảo
hiểm bao gồm các loại BCTC sau:
6.1.1. Bảng cân đối kế toán (BCĐKT)
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Bảng cân đối kế toán là báo cáo phản ánh một cách tổng quát về tình hình
toàn bộ tài sản của doanh nghịêp theo hai cách phân loại sau: Kết cấu của tài sản và
nguồn vốn hình thành nên tài sản dưới hình thức tiền tệ tại một thời điểm nhất định
(cuối quý, cuối năm).
- BCĐKT là báo cáo tài chính quan trọng đối với doanh nghiệp và các cơ quan
chức năng có liên quan. Thông qua BCĐKT có xem xét, đánh giá tình hình phân bổ

tài sản, phân bổ nguồn vốn cũng như những mối quan hệ kinh tế, tài sản chính khác
hiện có trong doanh nghiệp.
- Xuất phát từ nhu cầu biểu hiện hai mặt khác nhau của tài sản trong doanh
nghiệp: Tài san gồm những gì và tài sản do đâu mà có nên kết cấu của BCĐKT được
xây dựng theo kết cấu hai bên:
+ Bên trái gọi là "Tài sản": được dùng để phản ánh kết cấu của tài sản
+ Bên phải gọi là "Nguồn vốn": được dùng để phản ánh các nguồn vốn khác
nhau tạo nên tài sản.
- Hai bên của BCĐKT phản ánh hai mặt khác nhau của tài sản trong doanh
nghiệp nên chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Xét về mặt lượng bao giờ cũng
có :
" Tổng số tài sản = Tổng số nguồn vốn" .
6.1.2. Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (BCKQHĐKD)
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là bàng tổng hợp cân đối được sử
dụng để phản ánh doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động lãi, lỗ của doanh nghiệp
trong thời kỳ nhất định.
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là thông tin tài chính cần thiết, là căn
cứ quan trọng để đánh giá, phân tích tính hình kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, đặc biệt khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
6.1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT)
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tồng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được sử dụng để đánh giá khả năng thanh toán
của doanh nghiệp và dự đoán luồng tiền trong kỳ tiếp theo.
- Kết cấu của BCLCTT bao gồm ba phần là:
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
 Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh:
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chỉ ra liên quan trực tiếp đến hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp, như tiền thu bán hang, tiền thu từ các khoản phải thu
thương mại; các chi phí bằng tiền như tiền trả cho các nhà cung cấp ( trả ngay trong
kỳ và tiền trả cho khoản nợ từ kỳ trước), tiền thanh toán cho công nhân viên về tiền
lương và bảo hiểm xã hội, các chi phí khác bằng tiền (chi phí văn phòng phẩm, công
tác phí,...).
 Lưu chuyển từ hoạt động đầu tư:
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động
đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bao gồm 2 phần là:
- Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản than doanh nghiệp, như hoạt động
xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định.
- Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư chứng
khoán, cho vay, không phân biệt đầu tư ngắn hạn hay đầu tư dài hạn.
Dòng tiền lưu chuyển được tính gồm toàn bộ các khoản thu do bán, thanh lý
tài sản cố định, thu hồi các khoản đầu tư vào các đơn vị khác…và các khoản chi
thanh lý,chi mua sắm, xây dựng tài sản cố định, chi về đầu tư vào các đơn vị khác.
 Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính:
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động
tài chính của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp bao gồm các
nghiệp vụ làm tăng, giảm vốn kinh doanh của doanh nghiệp như chủ doanh nghiệp
góp vốn, vay vốn (không phân biệt vay vốn dài hạn hay vay vốn ngắn hạn), nhận góp
vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, trả nợ các khoản vay hoặc thanh toán
trái phiếu, cổ phiếu,…
Dòng tiền lưu chuyển được tính bao gồm các khoản thu, chi liên quan như tiền
vay đã nhận, tiền thu được do phát hành cổ phiếu, trái phiếu, tiền chi trả lãi cho các
bên góp vốn,trả lãi cổ phiếu, trái phiếu, bằng tiền, thu lãi tiền gửi…
6.1.4. Thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp
- Mục đích của bản thuyết minh báo cáo tài chính:
Bản thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành không thể tách
rời của báo cáo tài chính doanh dùng để mô tả mang tính tường thuật hoặc phân tích
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B

12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chi tiết các thông tin số liệu đã được trình bầy trong Bảng Cân đối kế toán, Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tìên tệ cũng như các thông tin cần
thiết khác theo yêu cầu của các chuẩn mực kế toán cụ thể. Bản thuyết minh báo cáo
tài chính cũng có thể trình bày những thông tin khác nếu doanh nghiệp xét thấy cần
thiết cho việc trình bày trung thực, hợp lý báo cáo tài chính
-Nguyên tắc lập và trình bầy Bản thuyết minh báo cáo tài chính
(1) Khi lập báo cáo tài chính năm, doanh nghiệp phải lập Bản thuyết minh báo
cáo tài chính theo đúng quy định từ đoạn 60 đến 74 của chuẩn mực kế toán số 21
“Trình bầy báo cáo tài chính” và hướng dẫn tại Chế độ báo cáo tài chính này.
(2) Khi lập báo cáo tài chính giữa niên độ (kể cả dạng đầy đủ và dạng tóm
lược) doanh nghiệp phải lập Bảng thuyết minh báo cáo tài chính chọn lọc theo quy
định của chuẩn mực kế toán số 27 “Báo cáo tài chính giữa niên độ” và Thông tin
hướng dẫn chuẩn mực.
(3) Bản thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải trình bầy những
nội dung dưới đây:
+Các thông tin về cơ sở lập và trình bầy báo cáo tài chính và các chính sách kế
toán cụ thể được chọn và áp dụng đối với các giao dịch và các sự kiện quan trọng
+Trình bầy các thông tin theo quy định của các chuẩn mực kế toán chưa được
trình bầy trong các báo cáo tài chính khác (Các thông tin trọng yếu)
+Cung cấp các thông tin bổ xung chưa được trình bầy trong báo cáo tài chính
khác, nhưng lại cần thiết cho việc trình bầy trung thực và hợp lý tình hình tài chính
của doanh nghiệp
(4) Bản thuyết minh báo cáo tài chính phải được trình bầy một cách có hệ
thống. Mỗi khoản mực trong Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần được đánh dấu dẫn tới các thông tin liên
quan trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
II. Lý luận chung về phân tích tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài
chính (Phân tích các báo cáo tài chính).

1. Mục đích và ý nghĩa của phân tích các báo cáo tài chính trong doanh
nghiệp bảo hiểm
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.1. Khái niệm và mục đích của phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so
sánh về số liệu tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua việc phân tích báo cáo tài
chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng
như những rủi ro trong tương lai.
Báo cáo tài chính rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp và đồng thời
là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. Báo
cáo kông những cho biết tình hính tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo
mà còn cho thấy những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được trong thời gian
đó.
Mục đích của phân tích báo cáo tài chính là giúp người sử dụng thông tin có
thể đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh
nghiệp. Bởi vậy phân tích báo cáo tài chính của một doanh nghiệp là mối quan tâm
của nhiều nhóm người khác nhau như Ban Giám Đốc, Hội đồng quản trị, các nhà đầu
tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng chính, những người cho vay, các nhân
viên ngân hàng, các nhà quản lý, các nhà bảo hiểm, các đại lý,…kể cả các cơ quan
chính phủ và bản thân người lao động. Mỗi nhóm người có nhu cầu thông tin khác
nhau và do vậy mỗi nhóm có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong
bức tranh tài chính của một doanh nghiệp. Mặc dù mục đích khác nhau nhưng thường
liên quan tới nhau, do vậy, họ thường sử dụng những công cụ và kỹ thuật cơ bản
giống nhau để phân tích báo cáo tài chính.
1.2.Ý nghĩa của phân tích báo cáo tài chính
Mục đích tối cao và quan trọng của phân tích báo cáo tài chính là giúp những
người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác
thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích báo cáo

tài chính có ý nghĩa quan trọng với nhiều phía(chủ doanh nghiệp và bên ngoài doanh
nghiệp).
 Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm
hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Bên cạnh đó các nhà quản
trị doanh nghiệp còn quan tâm tới nhiều mục tiêu khác như tìm kiếm việc làm, nâng
cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm,hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường…Tuy nhiên, một doanh nghiệp chỉ có
thế thực hiện được các mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách sống còn và là
hai mục tiêu cơ bản: Kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một doanh nghiệp bị
thua lỗ liên tục, rút cuộc sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và phải đóng cửa. Mặt khác nếu
doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ cũng bị buộc phải ngừng hoạt động
và phải đóng cửa.
Như vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp và các chủ doanh nghiệp cần có đủ
thông tin và hiểu rõ doanh nghiệp để đánh giá tình hình tài chính đã qua,thực hiện
cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, sinh lợi, rủi ro và dự đoán tình hình tài chính
nhằm đưa ra những quyết định đúng.
 Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm chủ
yếu của họ hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy họ đặc biệt chú ý tới
số lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh với số
nợ ngắn hạn để biết khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Ngoài ra các chủ
ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số lượng vốn của chủ sở
hữu, bởi vậy số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp
doanh nghiệp gặp rủi ro. Không mấy ai sẵn sàng cho vay nếu các thông tin cho thấy
người cho vay không đảm bảo chắc chắn rằng tài khoản vay của họ có thể sẽ được
thanh toán khi đến hạn. Người cho vay cũng quan tâm tới khả năng sinh lời của
doanh nghiệp vì đó là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay dài hạn.
 Đối với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ họ phải quyết

định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng, thanh toán chậm hay
không. Cũng như các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, nhóm người này
cũng cần phải biết khả năng thanh toán hiện tại và thời gian sắp tới của khách hàng.
 Đối với các nhà đầu tư thì mối quan tâm của họ là hướng vào các yếu tố
như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn,…Vì vậy họ
cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình tài chính, tình hình hoạt động,
về kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời các
nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả của công
tác quản lý. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho các nhà
đầu tư.
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bên cạnh đó các chủ doanh nghiệp (chủ sỡ hữu), các nhà quản lý, các chủ đầu
tư, các chủ ngân hàng,…còn nhiều nhóm người khác quan tâm tới tài chính của
doanh nghiệp như: cơ quan tài chính, thống kê, thuế, chủ quản, các nhà phân tích tài
chính, người lao động,…Nhóm người này cần thông tin cơ bản giống như các chủ
ngân hàng, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp,…bởi vì nó liên quan tới quyền lợi
và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ.
2. Nội dung và phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
2.1. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách khác, tình hình tài
chính là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với tổ chức, huy động, phân phối, sử
dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có
lượng vốn nhất định bao gồm vốn kinh doanh, các quỹ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản,
vốn vay và các loại vốn khác. Doanh nghiệp có nhiệm vụ tổ chức, huy động các loại
vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh của mình. Đồng thời tiến hành phân phối, quản

lý và sử dụng vốn hiện có của mình một cách hiệu quả cao nhất trên cơ sở chấp hành
các chế độ, chính sách quản lý kinh tế - tài chính và kỷ luật thanh toán của Nhà nước.
Việc thường xuyên tiến hành phân tích báo cáo tài chính sẽ giúp cho người sử dụng
thông tin nắm được thực trạng hoạt động tài chính, xác định rõ nguyên nhân và mức
độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp mình. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp hữu hiệu và ra các quyết
định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh và nâng cao hiệu
quả kinh doanh.
Việc phân tích báo cáo tài chính cũng chính là phân tích tình hình tài chính
của doanh nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Đánh giá khái quát tình hình tài chính
- Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản suất kinh doanh.
- Phân tích bảng cân đối kế toán
- Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Phân tích thuyết minh báo cáo tài chính
- Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
- Phân tích hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sinh lợi của vốn
- Phân tích tốc độ lưu chuyển của vốn lưu động
- Phân tích điểm hoà vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp
2.2. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua hệ thống báo cáo
tài chính, các nhà phân tích chủ yếu sử dụng các phương pháp như: phương pháp so
sánh, phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích, phương pháp liên hệ cân đối, phương
pháp loại trừ, phương pháp kết hợp…Sau đây là nội dung và cách vận dụng của một
số phương pháp phân tích chủ yếu:
2.2.1. Phương pháp so sánh

Là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để đánh giá kết quả,
xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích báo cáo
tài chính, phương pháp so sánh thường được sử dụng bắng cách so sánh ngang (còn
gọi là phân tích ngang) và so sánh dọc (còn gọi là phân tích dọc).
So sánh ngang là việc so sánh, đối chiếu, tình hình biến động cả về số tưyệt
đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu cuả từng báo cáo tài chính; còn so sánh dọc là
việc sử dụng các tỷ suất, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong
từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo để rút ra kết luận.
• So sánh bằng số tuyệt đối:
Số tuyệt đối được sử dụng để phản ánh quy mô các hiện tượng, sự vật, hoạt
động,…So sánh bằng số tuyệt đối sẽ cung cấp thông tin về mức độ biến động của chỉ
tiêu nghiến cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc biểu hiện bằng tiền, hiện vật hay giờ
công cụ thể.
• So sánh bằng số tương đối
So sánh bằng số tương đối cho thấy kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển và
mức độ phổ biến của chỉ tiêu nghiên cứu. Trong dạng so sánh này thường sử dụng
các loại so sánh tương đối như: so sánh bằng số tương đối kết hợp, so sánh bằng số
tương đối giản đơn, so sánh bằng số tương đối liên hệ, so sánh bằng số tương đối
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động thái, so sánh bằng số tương đối kết cấu,…
• So sánh bằng số bình quân
Số bình quân san bằng mọi chênh lệch về vị trí của chỉ tiêu nghiên cứu, nó
phản ánh mức độ bình quân hay đặc điểm điển hình của mọi đối tượng nghiên cứu.
Khi so sánh bằng số bình quân, các nhà quản lý sẽ biết được mức độ mà doanh
nghiệp đạt được so với bình quân chung của tổng thể, của ngành,…Từ đó xác định
được vị trí của doanh nghiệp mình.
2.2.2. Phương pháp loại trừ:
Để xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu

phản ánh đối tượng phân tích các nhà phân tích sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau, trong đó phương pháp loại trừ được sử dụng phổ biến nhất.
Theo phương pháp này, để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó, nhà
phân tích phải loại trừ ảnh hưởng của những nhân tố còn lại. Đặc trưng nổi bật của
phương pháp này là luôn đặt đối tượng phân tích vào các trường hợp giả định khác
nhau để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến biến động của chỉ tiêu nghiên cứu.
Phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích dưới hai dạng là: phương pháp
thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch
2.2.3. Phương pháp liên hệ cân đối
Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp hình thành nên rất nhiều mối
liên hệ cân đối về lượng giữa hai mặt của các yếu tố. Điều này dẫn đến sự cân bằng
về mức biến động kỳ phân tích và kỳ gốc của chúng. Dựa vào các mối quan hệ cân
đối này người phân tích sẽ xác định được ảnh hưởng của nhân tố đến sự biến động
của chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích.
2.2.4. Phương pháp kết hợp
Phương pháp kết hợp là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến
trong phân tích hạot động kinh doanh nói chung và phân tích báo cáo tài chính nói
riêng. Được gọi là phương pháp phân tích kết hợp là vì trong quá trình nghiên cứu
đối tượng của mình các nhà phân tích phải sử dụng kết hợp một số phương pháp phân
tích với nhau, chẳng hạn như: kết hợp phương pháp so sánh với phương pháp đồ thị,
phương pháp loại trừ với phương pháp liên hệ cân đối, phương pháp chi tiết chỉ tiêu
phân tích với các mô hình toán…Điều này là cần thiết vì đối tượng phân tích rất đa
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dạng và phong phú, do vậy mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu
phản ánh đối tượng phân tích không phải bao giờ cũng theo một hướng hay cùng một
loại. Ngoài ra việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp sẽ làm nổi bật đặc trưng của
đối tượng phân tích
Ngoài các phương pháp phân tích phổ biến trên phân tích tài chính còn sử

dụng một số phương pháp khác nhau như: phương pháp xác định giá trị theo thời
gian của tiền, phương pháp chỉ số, phương pháp toán kinh tế,… để nghiên cứu đối
tượng của mình.
3.Nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Việc phân tích báo cáo tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm được thực
hiện thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính được tính toán từ các báo cáo tài
chính như sau:
3.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp:
Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp là việc xem xét, nhận định
về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Công việc này sẽ cung cấp cho người sử
dụng thông tin biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp là khả quan hay không
khả quan. Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp được thực hiện thông
qua các chỉ tiêu sau:
+ Phân tích tình hình biến động về quy mô và cơ cấu tài sản. Ta tiến hành
đánh giá sự biến động quy mô tài sản, qua số liệu đã phản ánh trên bảng cân đối kế
toán để so sánh số tổng cộng về tài sản giữa cuối kỳ với đầu năm hoặc với những
năm trước cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối qua các kỳ kinh doanh.
Số tuyệt đối= Tổng số tài sản hiện có tại thời điểm cuối kỳ - tổng số tài sản
hiện có tại thời điểm đầu năm
Số tương đối=
Tổng số tài sản hiện có tại thời điểm cuối kỳ
Tổng số tài sản hiện có tại thời điểm đầu năm
Trong đó ta phải chú ý xem xét sự biến động về quy mô các chỉ tiêu chi tiết
như vốn bằng tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hang tồn kho, tài
sản cố định khác…Qua đó nhằm mục đích đánh giá kết quả trạng thái tài chính trong
tương lai cũng như dự tính được những rủi ro và những tiềm năng về tài chính của
doanh nghiệp trong tương lai của doanh nghiệp. Tuy nhiên cần đi sâu phân tích cơ
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cấu vốn để có thể đưa ra những nhận định khách quan nhất. Ngoài ra cần phân tích tỷ
trọng của từng loại tài sản để có thể nhận định mức độ hợp lý của việc phân bổ
chúng. Đối với các khoản phải thu, tỷ trọng càng cao thể hiện doanh nghiệp bị chiếm
dụng nhiều, hiệu quả sử dụng vốn thấp. Việc đánh giá phaie dựa trên bản chất kinh
doanh và tình hình biến động của từng bộ phận. Từ đó ta tính được Hệ số đầu tư:
Hệ số đầu tư=
Tài sản cố định
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và
máy móc, thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu
hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Nếu hệ số đầu tư tăng lên chứng tỏ năng
lực sản xuất có xu hướng tăng, trong trường hợp các tình hình khác không thay đổi
thì đây là hiện tượng khả quan.
+ Phân tích tình hình biến động tài sản về quy mô và cơ cấu nguồn vốn: để có
thể thấy được khả năng huy động vốn từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp cũng
như mức độ tự chủ độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Căn cứ vào số liệu đã phản
ánh trên bảng cân đối kế toán số tổng cộng về nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu năm
hoặc với những năm trước cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối qua các kỳ kinh doanh
nhằm rút ra những kết luận cần thiết về tình hình tài chính biến động nguồn vốn của
doanh nghiệp cũng như đưa ra những kết luận cần thiết về huy động cấc nguồn vốn
vào quá trình kinh doanh. Nếu công nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng nguồn vốn
thì khả năng đảm bảo về tài chính của doanh nghiệp càng thấp và ngược lại.
Điều này thể hiện thông qua hệ số tài trợ sau đây:
Hệ số tài trợ=
Nguồn vốn chủ sỡ hữu
Tổng nguồn vốn
Hệ số tài trợ là chỉ tiêu phản ánh mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh
nghiệp, nó cho biết vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng cộng nguồn
vốn. Nếu hệ số này chiếm tỷ trọng càng cao trong tổng nguồn vốn và càng cao sơ với
kỳ trước chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng cao bởi ìi

hầu hết tài sản của doanh nghiệp hiện có đều là được đầu tư bằng số vốn của chủ sở
hữu.
3.2. Các chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán
3.2.1. Phân tích tình hình thanh toán.
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tình hình thanh toán của doanh nghiệp được thể hiện thông qua các chỉ tiêu
phản ánh nợ phải thu và các chỉ tiêu phản ánh nợ phải trả như sau:
Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với
các khoản nợ phải trả=
Tổng số nợ phải thu*100
Tổng số nợ phải trả
Chỉ tiêu này phản ánh các khoản doanh nghiệp bị chiếm dụng so với các
khoản đi chiếm dụng. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 100% chứng tỏ vốn của doanh nghiệp bị
chiếm dụng lớn hơn số vốn mà doanh nghiệp đi chiếm dụng và ngược lại
3.2.2. Phân tích khả năng thanh toán:
Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện rõ nét thông qua khả năng thanh
toán, đó là khả năng mà doanh nghiệp trả được các khoản nợ phải trả khi nó tới thời
hạn thanh toán. Nếu doanh nghiệp có khả năng thanh toán cao cho thấy tình hình tài
chính là khả quan và ngược lại. Khi so sánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp
chúng ta thường xem xét các chỉ tiêu sau đây:
• Tỷ số thanh toán hiện tại (R
c
- the current ratio)
R
c
=
Tổng tài sản lưu động
Tổng nợ ngắn hạn

Trong đó những khoản nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong thời gian
ngắn (thường dưới một năm).
Tỷ số thanh toán hiện tại (R
c
) cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có
thể chuyển đổi để đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Đây là chỉ
tiêu đo lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy đối với doanh nghiệp bảo
hiểm việc đánh giá đúng đắn chỉ tiêu này là hết sức quan trọng và cần thiết.
Khoản nợ lớn nhất và quan trọng nhất đối với doanh nghịêp bảo hiểm không
đâu khác chính là trả tiền bồi thường hay trả tiền bảo hiểm cho khách hàng của doanh
nghiệp
• Tỷ số thanh toán hiện hành:
Tỷ số thanh toán hiện hành=
Tổng giá trị thuần ủa tài sản lưu động
Tổng số nợ ngắn hạn
• Tỷ số thanh toán nhanh (The quick ratio- R
q
)
R
q
=
Tổng tài sản lưu động- Tồn kho
Tổng nợ ngắn hạn
Tỷ số này cho biết khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp, được tính
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
toán dựa trên các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền để đáp ứng yêu cầu
thanh toán ngay.
Đối với Doanh nghiệp bảo hiểm hệ số này lớn hơn 1 là an toàn cho doanh

nghiệp. Bởi vì nó cho thấy khả năng doanh nghiệp có thể trang trải các khoản nợ
ngắn hạn mà không cần đến các nguồn thu bao gồm chủ yếu từ thu phí bảo hiểm.
Điều đó cũng có nghĩa là Doanh nghiệp bảo hiểm có khả năng giải quyết bồi thường
hay chi trả bảo hiểm kịp thời cho khách hàng tạo điều kiện để khách hàng giải quyết
hậu quả rủi ro nhanh chóng từ đó tạo uy tín cho doanh nghiệp bảo hiểm, tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm.
Qua đó tính toán được chỉ tiêu Hệ số khả năng thanh toán để đánh giá tình
hình tài chính của doanh nghiệp là mạnh hay không.
Hệ số khả năng thanh toán =
Khả năng thanh toán
Nhu cầu thanh toán
3.3. Các chỉ tiêu hoạt động
Các chỉ tiêu hoạt động bao gồm các tỷ số đo lường mức độ hoạt động liên
quan tới tài sản của doanh nghiệp như:
• Kỳ thu tiền bình quân (Average Collectiom Period –ACP)
ACP=
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân một ngày
Tỷ số này phản ánh số ngày bình quân để 1 đồng hàng hoá, sản phẩm bán ra
doanh nghiệp thu hồi lại được
Tỷ số này cho thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm hay là sức hấp dẫn của sản
phẩm mà doanh nghiệp đang tiêu thụ cũng như chính sách thanh toán mà doanh
nghiệp đang áp dụng .
Trong đó những khoản phải thu là những khoản bán sản phẩm mà chưa thu
tiền gồm hàng bán trả chậm, bán chịu, khách hàng nợ chưa trả, khoản trả trước cho
người bán,..Do đó đối với doanh nghiệp cần phải phân tích đinh kỳ một cách thường
xuyên để sớm phát hiện tình hình nợ, nhất là những khoản nợ khó đòi để có những
biện pháp cũng như những chính sách xử lý kịp thời, nhanh chóng.
Đối với những doanh nghiệp bảo hiểm cần đặc biệt chú ý tới các khoản nợ
đọng phí bảo hiểm hay lãi hoạt động đầu tư. Xem xét phí nợ đọng là do khách hàng

hay do đại lý giữ phí lại để có biện pháp sử lý cho phù hợp nhất.
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Hiệu quả sử dụng tài sản cố định( The Fixed Assets Utilization-FAU)
FAU=
Doanh thu thuần trong kỳ
Giá trị tài sản cố định bình quân trong kỳ
• Hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản (TAU)
Tỷ số này cho biết hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp bảo
hiểm là như thế nào: Một đồng vốn bỏ ra tạo được mấy đồng doanh thu trong một kỳ
kinh doanh. Công thức tính là:
TAU=
Doanh thu thuần trong kỳ
Tổng tài sản trong kỳ
Trong đó tổng tài sản là toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm
tính toán bao gồm: Tài sản cố định và tài sản vô hình.
3.3. Các chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp
* Doanh lợi theo doanh số (Net Profit Margin on Sales -R
p
).Tỷ số này cho biết
một đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu phần trăm lợi nhuận. Sự biến động của tỷ
số này phản ánh sự biến động về hiệu quả hay ảnh hưởng của chiến lược bán sản
phẩm, cơ cấu sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ
Công thức tính như sau:
R
p
=
Lợi nhuận ròng
*100

Doanh thu thuần
• Doanh lợi trên vốn (Net Return on Assets Ratio –R
r
)
Tuỳ theo phương pháp tính toán và mục đích của việc phân tích mà chỉ số
này có thể được tính theo hai cách đó là:
R
r
=
Lợi nhuận ròng*100
Tổng tài sản
Hoặc:
R
r
=
(Lợi nhuận ròng + Lãi vay)*100
Tổng tài sản
Chỉ số này còn được gọi là khả năng sinh lời của vốn đầu tư (Return on
Investment – ROI) dùng để đo lường khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư vào
doanh nghiệp
• Doanh lợi trên vốn của chủ (R
e
)
R
e
=
Lợi nhuận ròng*100
Vốn của chủ
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
23

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chỉ số này phản ánh lợi nhuận doanh nghiệp thu được so với vốn đầu tư của
các chủ sỡ hữu bỏ ra. Chỉ số này phải đảm bảo cao hơn tỷ lệ lạm phát và giá vốn thì
doanh nghiệp mới thực sự có lãi.
3.4. Một số chỉ tiêu đặc thù đối với doanh nghiệp bảo hiểm
* Khả năng thanh toán và biên khả năng thanh toán
Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, có bốn nhân tố chủ yếu luôn đe doạ
sự an toàn của doanh nghiệp bảo hiểm đó là:
+ Phí bảo hiểm đã thu và các khoản dự phòng đã lập không đủ do số liệu
thống kê không chính xác, công tác đánh giá rủi ro không tốt, các khiếu nại ngày
càng tăng lên trong khi lại không có những hành động điều chỉnh không kịp thời và
hiệu quả.
+ Khả năng tích tụ về số lượng rủi ro không đảm bảo theo quy luật số lớn.
+ Thực hiện tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm chưa tốt.
+ Tổn thất về đầu tư và những tài sản khác.
Chính vì vậy một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự an toàn của doanh nghiệp
bảo hiểm là khả năng thanh toán. Doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì khả năng
thanh toán, là một chỉ tiêu quan trọng bắt buộc phải báo cáo định kỳ với các cơ quan
quản lý Nhà nước. DNBH được coi là đủ khả năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ
dự phòng nghiệp vụ và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn biên khả năng
thanh toán tối thiểu và phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt
động kinh doanh bảo hiểm.
Biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm là phần chênh lệch giữa
giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp bảo hiểm.
Biên khả năng thanh toán tối thiểu được quy định tuỳ thuộc vào điều kiện của
từng nước cụ thể. Ở Việt Nam hiện nay, biên khả năng thanh toán tối thiểu được quy
đinh như sau:
- Biên khả năng thanh toán tối thiểu của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
bằng 20% tổng phí bảo hiểm thực giữ lại tại thời điểm xác định biên khả năng thanh
toán.

- Biên khả năng thanh toán tối thiểu của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ:
+ Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 10 năm trở xuống
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bằng tổng của 4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và 0,1% số tiền bảo hiểm chịu rỉu
ro.
+ Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn trên 10 năm bằng
tổng của 4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và 0,3% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro.
Để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong kinh doanh nhất là đảm bảo khả năng
thanh toán, doanh nghiệp bảo hiểm phải có cơ cấu đầu tư hợp lý để đáp ứng yêu cầu
về tiền mặt trong quá trình bồi thường hoặc chi trả. Các DNBH bị quản lý và bị giám
sát chặt chẽ khả năng thanh toán để đáp ứng các cam kết đối với bên mua bảo hiểm.
Ở Việt nam quy định như sau:
+ Doanh nghiệp bảo hiểm phải ký quỹ 5% vốn pháp định tại một ngân hàng
thương mại, chỉ được sử dụng tiền ký quỹ khi khả năng thanh toán bị thiếu hụt.
+ Đối với việc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ, để duy trì
khả năng trả tiền bảo hiểm thường xuyên, DNBH phải gửi tiền tại các tổ chức tín
dụng không thấp hơn 25% đối với bảo hiểm phi nhân thọ và 5% đối với bảo hiểm
nhân thọ. Ngoài ra khi đầu tư cũng bị hạn chế theo tỷ lệ đối với danh mục đầu tư và
được quy định riêng cho hoạt động nhân thọ và phi nhân thọ.
Ngoài các chỉ số áp dụng cho các doanh nghiệp nói chung, đánh giá sự vững
mạnh về tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm còn phải xem xét một số chỉ số
riêng cho kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ
• Tỷ lệ phí giữ lại:
Tỷ lệ phí giữ lại=
Tổng phí Bảo hiểm – Phí nhượng TBH
Tổng phí Bảo hiểm
Tỷ lệ này càng lớn thể hiện khả năng thanh toán tài chính của doanh nghiệp
bảo hiểm càng cao. Ngoài ra phần giữ lại mức trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo

hiểm cao còn góp phần tăng nguồn dự trữ ngoại tệ cho đất nước. Ở Việt nam hiện
nay quy định bắt buộc phải tái bảo hiểm qua Công ty tái bảo hiểm quốc gia (Vinare)
là 20% ( Tuy nhiên theo hiệp định thương mại Việt Mỹ đã ký kết, 5 năm sau sẽ phải
bỏ sự bắt buộc này)
• Tỷ lệ chi quản lý :
Tỷ lệ chi quản lý=
Chi phí quản lý*100
Tổng phí Bảo hiểm
Tỷ lệ này cho biết để khai thác một hợp đồng doanh thu phí, thì doanh nghiệp
Phạm Thị Thu Huyền Lớp: Bảo hiểm 45B
25

×