Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.57 KB, 64 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một tổ chức tài chính trung
gian thực hiện các nghiệp vụ tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ cũng
như các dịch vụ có liên quan đến tài chính – tiền tệ khác trong nền kinh tế
quốc dân.
Với vai trò vị trí vô cùng quan trọng, là một ngành chủ đạo của nền
kinh tế các hoạt động của ngân hàng ngày càng đa dạng về mặt hình thức,
nâng cao nghiệp vụ. Trong đó có một nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng
thương mại là sử dụng vốn và cho vay vốn, với nghiệp vụ cho vay là quan
trọng, là nhân tố quyết định hiệu quả của việc huy động vốn cũng như hoạt
động kinh doanh. Câu hỏi đặt ra với một ngân hàng thương mại là cho vay
như thế nào để kết quả kinh doanh có lãi và tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế phát triển trong đó đặc biệt chú trọng đến các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ có vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm, tạo thu nhập, góp phần
vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Ngoài những nhân
tố kinh tế xã hội để phát triển doanh nghiệp như: thị trường, trang thiết bị
công nghệ, nhà xưởng, trình độ quản lý, trình độ công nhân, chính sách
pháp luật của Nhà nước thì vốn là nhân tố quyết định, là vấn đề mà các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp nhiều khó khăn.
Sự phát triển Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã mở ra một thị trường
mới cho việc mở rộng và tăng trưởng hoạt động tín dụng. Tín dụng Ngân
hàng có tác động tích cực trong việc hỗ trợ Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị giúp cho hoạt động sản xuất
kinh doanh được thực hiện liên tục, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng
sức cạnh tranh trên thị trường. Cũng như các ngân hàng khác, Sở giao dịch
I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đang phải đối mặt với công tác
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nghiệp vụ này còn
nhiều hạn chế.
Xuất phát từ nhận thức đó, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, đươcj sự
giúp đỡ hướng dẫn của Ban giám đốc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam cùng với sự hướng dẫn của thầy Hoàng Xuân Quế, em mạnh dạn chọn
đề tài “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp
ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam ”.
Do kiến thức về lý luận và thực tiễn còn hạn chế, nên chuyên đề thực
tập của em không thể tránh khỏi hạn chế, thiếu sót, vì vậy em mong nhận
được them những ý kiến chỉ dẫn của thầy, cán bộ nhân viên của Ngân hàng
để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Kết cấu bài chuyên đề của em
ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương:
Chương 1 : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vai trò của Ngân
hàng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam.
Chương 3 : Một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay của Ngân
hàng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thầy giáo và Ban giám đốc, các
cô chú, anh chị của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa
qua và hoàn thành bài chuyên đề thực tập này.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH VÀ HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI

DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
1.1 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.1 Khái niệm Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị sản xuất kinh doanh
có tính chất tư hữu (không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài) trong đó các
đơn vị, các cá nhân tự bỏ vốn, tự đóng góp và hoạt động vì mục đích lợi
nhuận bao gồm: các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu
hạn, các công ty cổ phần, công ty liên doanh…
1.1.2 Phân loại
* Theo hình thức sở hữu thì Doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm :
- Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Cổ đông có thể là một tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là
ba và không hạn chế tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng
khoán ra công chúng theo quy định pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ
phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm về nợ và
các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn góp và công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của
tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty.
Các phần góp vốn được ghi trong điều lệ công ty. Công ty không được
phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn
giữa các thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn
góp cho người không phải là thành viên phải được sự nhất trí của các thành
viên đại diện với ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn để
sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên
nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi
thành viên nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn

những vấn đề sản xuất kinh doanh và đời sống. Cơ quan cao nhất là Đại hội
xã viên, cơ quan quản lý các hoạt động của hợp tác xã.
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động doanh
nghiệp.
- Hộ kinh doanh cá thể là một thực thể kinh doanh do một cá nhân
hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không
thường xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
* Theo quy mô doanh nghiệp thì Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
gồm:
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô vừa và nhỏ : Theo Nghị
định số 90/2001/CP-ND ban hành tháng 3/2001 của Chính phủ có định
nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ, đó “là cơ sở sản xuất kinh doanh độc
lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh
doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không
quá 300 người”.
- Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô lớn : là doanh nghiệp có
tính chất tư hữu, có số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng và số lao động lớn hơn 300
người.
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Vị trí của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam đã đượcHội
nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW Đảng khóa VI khẳng định : “Kinh tế
quốc doanh cần có lực lượng đủ sức chi phối thị trường, nghề loại hoạt
động nào mà Hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cho nền kinh tế thì các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân). Vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền
kinh tế hàng hóa đi lên XHCN”. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc

doanh đã được khẳng định qua các khía cạnh sau:
1.1.3.1. Sự phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh nâng cao tính cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trường.
Thực vậy, việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển trên
nhiều lĩnh vực, ngành nghề đã làm cho thị trường hàng hóa trở nên phong
phú, đa dạng và sôi động hơn. Người tiêu dung có nhiều cơ hội lựa chọn
hàng hóa và dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Mặt khác
doanh nghiệp ngoài quốc doanh với ưu thế về quy mô cộng thêm sự nhạy
bén với thị trường đã thực sự trở thành một đối thủ cạnh tranh trên thị
trường của rất nhiều doanh nghiệp khác. Vì vậy sự phát triển của doanh
nghiệp ngoài quốc doanh sẽ làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Thể hiện
ở chỗ không chỉ có sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp ngoài quốc doanh và
doanh nghiệp Nhà nước mà còn với bản thân các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh với nhau. Đây là một động lực giúp cho nền kinh tế phát triển vì nó làm
cho mọi nguồn lực trong nền kinh tế được tận dụng, sử dụng một cách tối đa
và hiệu quả nhất.
1.1.3.2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần làm đa dạng hóa loại
hình sở hữu trong nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nền kinh tế Việt Nam còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ sản xuất còn
thấp, trong khi tiềm năng phát triển còn rất lớn. Sự độc chiếm trong hình
thức sở hữu Nhà nước và tập thể không khai thác hết các tiềm năng sẵn có
vì theo hình thức này từ lâu đã mang nặng tính quan liêu bao cấp, hoạt
động theo kế hoạch, dần dần thủ tiêu tính sáng tạo và năng động của các
doanh nghiệp, vì thế các doanh nghiệp không thể nào khai thác hết mọi
tiềm năng của đất nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời đã khai
thác được mọi nguồn vốn tự tích lũy của mình đã đầu tư phát triển sản xuất
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh doanh trong mọi lĩnh vực thúc đẩy kinh tế phát triển. Kết quả trên là
tất yếu khi mà kinh tế ngoài quốc doanh mang tính tư hữu cao, hiệu quả sản

xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gắn liền với
quyền lợi, lợi ích cá nhân của người sản xuất. Chính vì vậy mà các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh luôn tập trung tận dụng tối đa những gì mà họ có
và có thể huy động được để mang lại lợi nhuận cao nhất cho chính bản thân
doanh nghiệp và thông qua đó góp phần phát triển kinh tế đất nước.
1.1.3.3. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần tạo việc làm, giảm thất
nghiệp.
Việc làm hay tỉ lệ thất nghiệp cao là vấn đề nan giải với bất kỳ quốc
gia nào. Đặc biệt là ở một số nước đang phát triển như Việt Nam thì sự ra
đời của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thực sự là một cứu cánh cho
số lượng lao động còn lại. Mặt khác, doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần
một lực lượng lao động giản đơn, lao động không cần đầu tư phức tạp, nên
phù hợp với trình độ lao động hiện nay ở Việt Nam.
1.1.3.4. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khả năng tập trung mọi nguồn
lực trong xã hội vào hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Thật vậy, các DNNQD có khả năng tập trung vốn, trí tuệ và các nguồn
lực khác vào các ngành kinh tế hay các ngành đòi hỏi hàm lượng trí tuệ cao
như công nghệ thông tin hay cũng có khả năng lấp đầy những khoảng trống
trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn và có mức lợi
nhuận thấp mà các nhà đầu tư lớn ít quan tâm.
1.1.3.5. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một bộ phận đóng góp cho ngân
sách Nhà nước và góp phần làm tăng thu nhập quốc dân.
Thuế là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước. Về mặt pháp lý
các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như doanh nghiệp Nhà nước đều
có nghĩa vụ như nhau trong việc nộp thuế. Do đó sự phát triển của doanh
nghiệp ngoài quốc doanh cũng như sự thành công trong sản xuất kinh
doanh của họ sẽ góp phần đáng kể tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.3.6. Sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần dịch

chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong mọi ngành nghề
nhưng chủ yếu phổ biến ở các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch
vụ,xuất khẩu. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa hút một lực lượng lớn
lao động nông thôn, lại vừa có thể nhanh chóng thích nghi đón đầu công
nghệ mới, chuyển đổi theo hướng sản xuất nhanh chóng cho phù hợp với
thị trường, tham gia tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ
nông nghiệp sang các ngành phi công nghiệp. Từ đó doanh nghiệp ngoài
quốc doanh góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền sản xuất nhỏ
với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu sang nền kinh tế có cơ cấu tiên tiến,
theo hướng xuất khẩu, phù hợp với định hướng Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa.
Như vậy doanh nghiệp tuy có một số hạn chế, khó khăn trước mắt
nhưng vai trò của nó đối với nền kinh tế vẫn không thể phủ nhận. Với sự hỗ
trợ khuyến khích ra đời và hoạt động của các doanh nghiệp này, Nhà nước
và các cơ quan liên quan, cùng với các nguồn lực có sẵn, các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh ngày càng tăng nhanh về số lượng lẫn chất lượng, góp
phần giải quyết việc làm, tạo ra sự năng động trong kinh doanh và thỏa
mãn một phần nhu cầu thị trường, góp phần vào sự phát triển kinh tế chung
của toàn Đất nước.
1.1.4 Đặc điểm của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Sau khoảng thời gian 20 năm đổi mới trong tư duy, nhận thức cũng
như những thay đổi cần thiết về luật pháp trong cách nhìn nhận về các
doanh nghiệp Việt Nam nói chung, về DNNQD nói riêng kết quả là chúng
ta đã thu được rất nhiều thành tựu. Các doanh nghiệp nói chung, trong đó
có các DNNQD đã không ngừng gia tăng về số lượng, hoạt động ngày một
hiệu quả, hàng hóa dịch vụ cung cấp ngày càng đa dạng, công ăn việc làm
cho người lao động tăng lên nhanh chóng…Mặc dù được tạo điều kiện và
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368

đã có nhiều thành tích nhưng hoạt động của các DNNQD vẫn còn nhiều
hạn chế do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân xuất phát từ bản
thân loại hình doanh nghiệp. Một số đặc điểm của loại hình DNNQD sẽ
được chỉ ra dưới đây, từ đó có thể tìm ra các phương án trong hoạt động
mở rộng cho vay của các NHTM với đối tượng này.
1.1.4.1. Các DNNQD có số lượng lớn và tốc độ gia tăng nhanh.
Trong những năm qua, do tác động mạnh mẽ của các chính sách đổi
mới của đất nước, do tác động của mở cửa kinh tế số lượng các doanh
nghiệp ngày một tăng lên trong đó có các DNNQD. Sau khi luật công ty và
luật doanh nghiệp tư nhân được ban hành năm 1991,tổng số DNNQD trên
cả nước là 414 doanh nghiệp; đến năm 1999, số lượng loại hình doanh
nghiệp này tăng đến 30.500 doanh nghiệp. Bình quân trong giai đoạn này
tốc độ tăng khoảng 30% . Năm 2000, nhà nước ban hành luật doanh nghiệp
để thay thế luật công ty, số lượng các DNNQD tăng lên nhanh chóng. Năm
2000 số DNNQD là 44.943, năm 2002 là 54.642, năm 2003 là 82.000. Cho
đến cuối năm 2004, gần 110.000 doanh nghiệp mới đăng ký, và đến nay có
khoảng 155.000 doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, số lượng các DNNQD
tăng với tốc độ 40%/năm, trong đó tăng nhanh nhất là các công ty cổ phần,
các công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân. Số lượng các
DNNQD gấp trên 10 lần số lượng các doanh nghiệp nhà nước, gấp 25 lần
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, 1/7/2007 luật doanh
nghiệp chung sẽ chính thức có hiệu lực điều này hứa hẹn sẽ mang lại rất
nhiều thay đổi cho các DNNQD. Việt Nam đã chính thức trở thành thành
viên của WTO, quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước sẽ diễn ra
mạnh mẽ, sôi động hơn và cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì
sự gia tăng về quy mô và chất lượng của các DNNQD là khách quan, tất
yếu.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.4.2.Đa số các DNNQD đều mới hình thành.

Trước đổi mới, nhà nước độc quyền trong mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế, các thành phần kinh tế phi nhà nước đều bị coi là bất hợp pháp và
không có một DNNQD chính thức hoạt động. Sau khi thực hiện đổi mới
nền kinh tế và thực hiện những chính sách chiến lược nhằm đẩy mạnh nền
sản xuất trong nước thì các DNNQD mới có điều kiện thuận lợi để phát
triển. Như phần trên đã phân tích trong bốn năm từ năm 2000 đến năm
2004 số lượng DNNQD tăng lên gần gấp đôi cả giai đoạn trước đó. Hầu
hết các doanh nghiệp tính đến nay đều thành lập được khoảng trên dưới 6
năm, DNNQD “già nhât” cũng chưa được 20 năm. Như vậy, so với các
doanh nghiệp quốc doanh thì DNNQD còn quá non trẻ và mới mẻ.
1.1.4.3.Quy mô vốn và lao động nhỏ.
Mặc dù số lượng DNNQD là lớn nhất trong tất cả các loại hình
doanh nghiệp nhưng quy mô vốn và lao động của các doanh nghiệp này lại
nhỏ bé hơn nhiều. Chiếm đến khoảng 68% tổng số các DNNQD là các
doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 500 triệu, khoảng 32% là các doanh
nghiệp có số vốn trên 500 triệu, còn lai là các doanh nghiệp có vốn trên 1
tỷ đồng. Năm 2006, tổng vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế thì khu
vực nhà nước chiếm 50,1%, khu vực ngoài quốc doanh chiếm 33,6%, và
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 16,3%. Mặc dù có số lượng lớn
nhưng các DNNQD vẫn chưa có được quy mô vốn tương xứng và tài chính
còn hạn hẹp. Chính bởi lý do này mà quy mô của các doanhh nghiệp còn
nhỏ bé, sức cạnh tranh yếu, khó tiếp cận công nghệ hiện đại để nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Trong thời gian tới nếu không cải thiện được tình
hình vốn kinh doanh, thì các DNNQD khó lòng cạnh tranh được với các
đối thủ khác đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài, liên doanh…
Cũng chính bởi quy mô nguồn vốn hạn hẹp, lĩnh vực kinh doanh
chưa đa dạng nên đội ngũ lao động trong các DNNQD cũng còn hạn chế cả
về số lượng và chất lượng. Theo thống kê cả nước chỉ có khoảng 700
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368

doanh nghiệp có số lao động từ 100 người trở lên; bình quân mỗi doanh
nghiệp có khoảng 35 lao động. Đội ngũ lao động khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh nói riêng cũng như trong toàn bộ nền kinh tế nói chung đều
chưa có tay nghề kỹ thuật cao, ít được đào tạo và nhiều khi chưa đáp ứng
được đòi hỏi của công việc.
Từ quy mô nguồn vốn và quy mô lao động của các doanh nghiệp mà
chúng ta có thể nhận ra rằng phần lớn các DNNQD là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Vốn chủ sở hữu nhỏ, vốn tích lũy chưa nhiều là nguyên nhân
khiến cho quy mô sản xuất chưa được mở rộng, từ đó dẫn đến khả năng
tăng doanh thu không cao, năng lực cạnh tranh thấp…Bởi vậy vấn đề đặt ra
là cần phải có chính sách thu hút vốn đầu tư đa dạng hơn, linh hoạt hơn như
vay ngân hàng, vay các tổ chức tài chính khác, tín dụng thương mại, phát
hành các chứng khoán, kêu gọi đầu tư…
1.1.4.4. Môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, thị trường tiêu thụ chưa
được khai thác triệt để.
Đảng và nhà nước ta luôn cố gắng để tạo ra sân chơi bình đẳng cho
các loại hình doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng hơn
cho các doanh nghiệp nhưng thực tế vẫn có sự phân biệt đối xử giữa các
doanh nghiệp thuộc khu vực quốc doanh và ngoài khu vực quốc doanh.
Môi trường kinh doanh không thuận lợi tạo ra sự phát triển không đồng
đều giữa các doanh nghiệp, các DNNQD hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ
và thương mại là chủ yếu. Nhiều ngành nghề các doanh nghiệp nhà nước
còn chiếm thế độc quyền.
Phạm vi hoạt động của các DNNQD tập trung hầu hết ở các khu vực
có nền kinh tế phát triển, những địa phương này có các khu công nghiệp,
chế xuất đã kéo theo sự phát triển của các DNNQD nhằm cung cấp các
dịch vụ và vật tư cho các nhà máy lớn, cho các khu công nghiệp… Bởi vậy
có thể nói ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh của các DNNQD còn chưa
đa dạng, chưa tập trung vào sản xuất các hàng hóa có giá trị, các dịch vụ
10

Website: Email : Tel : 0918.775.368
cung cấp chưa thuyết phục. Cùng với đó là công nghệ lạc hậu khiến cho
các hàng hóa do khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sản xuất chưa vươn
rộng ra thị trường quốc tế và thị trường trong nước cũng không đủ rộng
lớn, chưa xứng tầm…Các sản phẩm thiếu tính cạnh tranh và khó xâm nhập
thị trường mới. Và trong điều kiện bị cạnh tranh gay gắt trong những năm
tới nếu không có chiến lược kinh doanh phù hợp, linh hoạt thì khả năng
một số DNNQD bị mất thị trường là điều dễ nhận thấy.
1.1.4.5. Một số đặc điểm khác.
Các DNNQD có trình độ công nghệ nhìn chung là lạc hậu, khả năng
tiếp cận công nghệ nhiều hạn chế. Nhiều máy móc thiết bị đã qua thời gian
sử dụng tương đối dài, hết giá trị khấu hao. Phần lớn thiết bị là loại thanh lý
của các doanh nghiệp lớn. Bởi vậy, hàng hóa sản xuất ra có mẫu mã đa
dạng, chất lượng cao là khó khăn. Chính bởi công nghệ lạc hậu, khả năng
quản lý hạn chế dẫn đến chi phí sản xuất, chi cho nhân công là cao. Từ đó
ảnh hưởng đến giá cả của hàng hóa, sức cạnh tranh của hàng hóa do các
DNNQD là không cao.
Trình độ quản lý của các DNNQD còn yếu kém nhất là các doanh
nghiệp có quy mô nhỏ. Rất nhiều cá nhân đứng ra thành lập các công ty,
trực tiếp quản lý điều hành hoạt động của công ty, trong khi không phải tất
cả các cá nhân đó có hiểu biết và am hiểu về kinh tế, có trình độ quản lý
doanh nghiệp. Điều đó dẫn tới việc nhiều khi các DNNQD tham gia thị
trường mắc nhiều sai phạm hoặc hoạt động kém hiệu quả. Bên cạnh đó, có
thể do thiếu hiểu biết về môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, phương
pháp quản lý lao động mà nhiều doanh nghiệp có thể vi phạm pháp luật, tài
chính có thể không minh bạch.
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2. Hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1 Sự cần thiết của hoạt động cho vay của ngân hàng đối với Doanh

nghiệp ngoài quốc doanh.
Trong lịch sử phát triển của mình, để khai thác được vốn, Doanh
nghiệp ngoài quốc doanh đã dựa vào 3 nguồn vốn chủ yếu: vốn tự có,
thông qua thị trường tài chính và thông qua tín dụng Ngân hàng. Thực tế đã
chứng minh rằng, với số vốn tự có nhỏ bé của mình Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh không thể tự mình đổi mới công nghệ thiết bị, mở rộng quy mô
sản xuất, đầu tư vào những lĩnh vực ngành nghề đang được ưa chuộng. Còn
thông qua thị trường tài chính thì rủi ro lai rất lớn và điều kiện tham gia rất
khó khăn. Do đó muốn phát triển, Doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có
thể dựa vào nguồn vốn cho vay của Ngân hàng. Ngân hàng là nơi cung cấp
vốn dồi dào và an toàn nhất.
1.2.2.1 Hoạt động cho vaycủa ngân hàng là kênh cung cấp vốn chủ yếu đối
với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Tại thị trường tín dụng chính thức, hoạt động của các HTX tín dụng và
quỹ tín dụng nhân dân chủ yếu là để hỗ trợ, giải quyết nhu cầu sinh hoạt và
vốn phát triển kinh tế gia đình. Mặt khác, thị trường vốn dài hạn, thị trường
chứng khoán ở nước ta mới trong giai đoạn sơ khai. Điều kiện tham gia thị
trường chứng khoán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không phải là
dễ dàng. Vì vậy, kênh cung cấp vốn chủ yếu và hết sức quan trọng để các
thành phần kinh tế này phát triển là vốn cho vay của các NHTM. Do đó, để
doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển nhất thiết phải có sự hỗ trợ vốn
từ các NHTM.
1.2.2.2 Hoạt động cho vay giúp tăng cường quy mô vốn lưu động của Doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, thúc đẩy việc sản xuất phát triển.
Do đặc điểm của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường có chu kỳ
sản xuất và quay vòng vốn nhanh, đòi hỏi thường xuyên bổ sung vốn lưu
động vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, sự có mặt của
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vốn vay dưới hình thức vay vốn ngắn hạn là nguồn vốn bổ sung vốn lưu

động rất quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất ra không phải lúc nào cũng bán được hết
và không phải lúc nào cũng thanh toán được tiền ngay, trong khi sản xuất
không thể dừng lại. Để việc kinh doanh tiến hành bình thường, liên tục và
có hiệu quả, tự doanh nghiệp khó có thể giải quyết được, cần thiết phải
thông qua nguồn vốn vay từ phía Ngân hàng để bố sung vốn lưu động cho
chính mình.
1.2.2.3 Nguồn vốn vay từ ngân hàng hỗ trợ cho các Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều có đặc điểm chung là trình độ
công nghệ sản xuất lạc hậu, tuổi thọ tài sản cố định khá cao và được tân
trang lại. Do đó sản phẩm làm ra có giá thành cao, chất lượng hạn chế, khó
cạnh tranh được với các hàng ngoại nhập, dẫn đến kinh doanh bị thua lỗ,
phá sản. Do vậy, nhu cầu đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp ngày
càng trở nên bức xúc. Với khả năng của mình, ngân hàng hoàn toàn có thể
hỗ trợ vốn, giúp các doanh nghiệp từng bước tháo gỡ khó khăn, thích nghi
với thị trường thông qua hoạt động cho vay trung và dài hạn.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể giúp các doanh nghiệp thực hiện đổi
mới công nghệ thông qua hình thức thuê mua. Đây là hình thức cho thuê
máy móc, thiết bị để phục vụ sản xuất, được ngân hàng mua theo yêu cầu
của bên thuê (các doanh nghiệp). Bên thuê có quyền lựa chọn bên cung ứng
hàng, thương lượng thỏa thuận chủng loại, giá, việc bảo hiểm, bảo hành,
cách thức và hình thức giao hàng, việc lắp đặt, bảo lãnh và những vấn đề
khác liên quan đến tài sản thuê. Nhờ đó, các doanh nghiệp có nhiều điều
kiện hơn trong việc đầu tư trang thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình.
Tóm lại, sự phát triển của các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh phụ
thuộc rất nhiều vào nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Để phát triển khu vực
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368

kinh tế ngoài quốc doanh – đây cũng là định hướng chủ đạo của Đảng và
Nhà nước trong phát triển kinh tế đất nước – thì ngoài việc đổi mới cơ chế,
phạm vi hoạt động… thì việc mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng đối
với khu vực này là rất quan trọng, cần thiết cho sự phát triển của khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh.
1.2.2. Các hình thức cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn vay của khách hàng, độ
tín nhiệm của khách hàng trong quan hệ tín dụng và khả năng kiểm tra,
giám sát việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. Ngân hàng sẽ thỏa thuận với
khách hàng về việc lựa chọn phương án cho vay theo một trong các phương
thức sau:
- Cho vay từng lần:
+ Phương thức này áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu và đề nghị
vay vốn từng lần, có quan hệ không thường xuyên với Ngân hàng, có
nguồn thu thường không ổn định; cho vay bù đắp thiếu hụt tài chính tạm
thời, cho vay bắc cầu, cho vay hỗ trợ triển khai các đề tài nghiên cứu khoa
học, công nghệ, cho vay tiêu dùng trong dân cư.
+Mức trả nợ và kỳ hạn trả nợ đối với hình thức cho vay theo món có
thể được xác định dựa trên cơ sở từng chu kỳ sản xuất kinh doanh, hoặc
khả năng nguồn thu của khách hàng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng:
+ Chi nhánh cùng khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín
dụng duy trì trong một thời gian nhất định. Phương thức cho vay theo hạn
mức tín dụng được áp dụng đối với các khách hàng có sản xuất kinh doanh
ổn định, có hiệu quả và có quan hệ tín dụng thường xuyên đối với Chi
nhánh.
+ Khi xác định hạn mức tín dụng cần dựa trên cơ sở: Báo cáo quyết
toán của năm trước, Báo cáo kế toán tại thời điểm gần nhất cùng với kế
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368

hoạch sản xuất kinh doanh năm, quý và các hợp đồng kinh tế, hợp đồng thi
công…
+ Trong thời gian hiệu lực của hợp đồng tín dụng theo hạn mức, khách
hàng có thể vừa rút vốn vay, vừa trả nợ tiền vay, song phải đảm bảo số dư
nợ không vượt hạn mức tín dụng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng
hạn mức.
+ Để đảm bảo duy trì sản xuất kinh doanh ổn định, hàng năm hoặc
theo nhu cầu mở rộng, thu hẹp sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của khách
hàng, điều kiện vay vốn của khách hàng, Chi nhánh và khách hàng thỏa
thuận ký phụ lục bổ sung hợp đồng tín dụng điều chỉnh hạn mức tín dụng
cho kỳ tiếp theo, hoặc ký hợp đồng tín dụng hạn mức mới hoặc chấm dứt
phương thức cho vay này.
- Cho vay theo dự án đầu tư:
Chi nhánh cho vay khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ và các dự án đầu tư phục đời sống.
- Cho vay hợp vốn:
+ SGD tham gia một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một
dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một
tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng
khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của Quy chế cho vay
ban hành theo quyết định số 1627/QĐ NHNN và Quy chế đồng tài trợ của
các tổ chức tín dụng do Thông đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
+ Chi nhánh quyết định việc tham gia cho vay hợp vốn mà các tổ chức
tín dụng khác đề nghị, hoặc tham gia theo ủy quyền của Tổng Giám đốc,
hoặc tự tổ chức làm đầu mối cho vay hợp vốn theo quy định của Tổng
Giám đốc.
+ Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của các tổ
chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành và
hướng dẫn của Tổng Giám đốc. Việc thẩm định dự án, phương án vay vốn,
15

Website: Email : Tel : 0918.775.368
quyết định tham gia đồng tài trợ của Ngân hàng thực hiện theo Quy chế
này.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
SGD cam kết đảm bảo sẵn sang cho khách hàng vay vốn trong phạm
vi hạn mức tín dụng nhất định. SGD và khách hàng thỏa thuận thời hạn
hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức chi trả cho hạn mức tín dụng
dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:
Ngân hàng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong
phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua khách hàng, dịch vụ và
rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt tại các Chi
nhánh. Tổng Giám đốc quy định cụ thể về cho vay thông qua nghiệp vụ
phát hành và sử dụng thẻ tín dụng phù hợp với quy định hiện hành của
pháp luật.
- Cho vay trả góp:
Khi cho vay, Chi nhánh cùng khách hàng xác định và thỏa thuận số lãi
vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ
hạn trong thời hạn vay.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi:
Ngân hàng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng được
chi vượt quá số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng tại Chi
nhánh trong khoản thời gian nhất định, phù hợp với các quy định của Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Tổng Giám đốc hướng dẫn cụ thể
phương thức cho vay này.
.- Các phương thức cho vay khác:
Ngoài ra các phương thức cho vay nêu trên, Ngân hàng cho khách
hàng vay vốn theo các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm,
phù hợp với quy chế cho vay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quy chế

16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
này và điều kiện hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và đặc điểm của
từng loại khách hàng vay. Tổng Giám đốc quy định, hướng dẫn hoặc cho
phép các Chi nhánh thực hiện các phương thức cho vay khác
1.2.3 Quy trình cho vay
Quy trình cho vay là tập hợp nội dung, kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản, các
bước phải tiến hành từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một món vay. Thông
thường, để đảm bảo hiệu quả thì quy trình cho vay phải tuân theo các bước
sau:
1. Khai thác khách hàng cũ, tìm kiếm dự án, khách hàng mới.
2. Hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay
vốn.
3. Phân tích thẩm định khách hàng và phương án vay vốn.
4. Ra quyết định cho vay, thông báo đến cho khách hàng.
5. Kiểm tra hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và tài sản thế chấp, cầm cố,
bảo lãnh.
6. Kiểm soát trong khi cho vay, phát tiền vay.
7. Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay, theo dõi hoạt động của
dự án.
8. Thu hồi vốn vay và xử lý nợ.
9. Thanh lý hợp đồng tín dụng.
Quy trình cho vay là bước quan trọng để thực hiện chính sách tín
dụng. Thực vậy, tuân theo các bước quan trọng của quy trình này, Ngân
hàng sẽ tìm kiếm, lựa chọn được khách hàng phù hợp, có uy tín, đạo đức.
Khi áp dụng quy trình cho vay cần phải sáng tạo mở rộng, nâng cao nghiệp
vụ để trở thành kỹ năng, nghệ thuật cho vay của Ngân hàng và năng lực của
từng cán bộ, phù hợp với yêu cầu đa dạng của thị trường.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368

1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động của Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
1.3.1. Về chủ quan
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp còn yếu :
Do sự phát triển của thành phần kinh tế này mới được thừa nhận hơn
15 năm và hoạt động trong môi trường luật pháp đạng được tạo dựng nên
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều vướng mắc trong quá trình phát
triển. Mặc dù trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước khuyến
khích tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng
nhìn chung độ tập trung vốn của khu vực này chưa cao. Phần lớn các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đều có quy mô nhỏ và chủ yếu thuộc
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các doanh nghiệp Nhà nước vốn phần lớn được hỗ trợ từ ngân sách
còn Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì không nhận được sự hỗ trợ này mà
nguồn vốn kinh doanh chủ yếu được khai thác từ các nguồn vốn : vốn tự
có, vốn huy động trên thị trường bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu
và các nguồn vốn vay. Ở nước ta phát hành cổ phiếu vẫn chưa được áp
dụng rộng rãi mà chỉ dừng ở việc phát hành cổ phiếu trong nội bộ công ty
cổ phần. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới hình thành và quy mô còn
nhỏ, uy tín còn hạn chế, do đó chưa đáp ứng được các yêu cầu trên. Vì vậy
các doanh nghiệp này chỉ còn cách là vay các Ngân hàng thương mại, đây
là nguồn vốn dồi dào có thể đáp ứng được quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Trình độ sản xuất còn thấp, công nghệ lạc hậu, chắp vá.
Do hạn chế về vốn nên năng lực sản xuất thấp, kéo theo trình độ kỹ
thuật công nghệ của doanh nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ thuật
công nghệ sử dụng nhiều lao động. Công nghệ lạc hậu là một trong những
nguyên nhân chính làm cho các sản phẩm kém sức cạnh tranh và thị phần
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368

hàng hóa bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp. Tuy nhiên đây cũng là điểm
chung của các doanh nghiệp nước ta, kể cả doanh nghiệp Nhà nước.
- Trình độ quản lý, kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh còn nhiều hạn chế, kỹ năng người lao động thấp.
Thành phần xuất than của các chủ doanh nghiệp thuộc Doanh nghiệp
ngoài quốc doanh có từ nhiều nguồn gốc khác nhau: nông dân, thợ thủ
công, tầng lớp trí thức. Họ có nhiều hạn chế, vướng mắc trong công tác tổ
chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự án,
các cơ hội đầu tư. Việc thực hiện Pháp lệnh về tài chính và thống kê của
Nhà nước trong các doanh nghiệp này chưa được thực hiện nghiêm túc.
Phần lớn, các doanh nghiệp hạch toán kế toán chủ yếu bằng kinh nghiệm
bản than. Do đó, họ gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng
vì không chứng thực được năng lực kinh doanh cũng như tình hình tài
chính của bản than một cách rõ rang.
1.3.2 Về khách quan
- Các chính sách chế độ của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ,
chưa có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi đầu
tư vốn vào sản xuất kinh doanh và giảm bớt rủi ro trong hoạt động. Các văn
kiện của Đảng và các chủ trương của Nhà nước và Chính phủ đã nêu rõ và
công nhận vai trò quan trọng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong cơ
chế thị trường nhưng việc cụ thể hóa thành quy định và hướng dẫn chi tiết
thi hành để tạo môi trường thuận lợi đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đến nay vẫn còn nhiều mặt hạn chế.
- Tính ổn định của chính sách kinh tế - tài chính còn thấp, thiếu tính
kích thích mà chủ yếu là chính sách thuế và pháp luật còn nặng tính ràng
buộc về nguyên tăc, chế độ.
- Chính sách thuế còn nhiều ưu đãi, chiếu cố cho doanh nghiệp Nhà
nước, chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng và sự cạnh tranh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp.
19

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Các chính sách Nhà nước chưa được thực sự khuyến khích doanh
nghiệp ngoài quốc doanh tăng cường sử dụng công nghệ mới, đào tạo cán
bộ quản lý, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật. Thiếu chính sách bảo hộ
quyền lợi chính đáng của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân
về các chế độ người lao động BHXH, BHYT trong thời gian làm việc và về
hưu.
-Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hàm nhũng nhiễu. Tình trạng
quan lieu, cửa quyền trong quản lý kinh tế nói chung và đối với doanh
nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng vẫn đang là nhân tố cản trở không nhỏ
đối với sản xuất kinh doanh.
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI SỞ GIAO
DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1. Khái quát về Sở Giao dịch - Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam
2.1.1.Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động
2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức
SGD được thành lập theo quyết định số 572 TCCB/ĐT ngày
26/12/1990 của Vụ Tổ chức cán bộ Ngân hàng Nhà nước về tổ chức bộ
máy của NHĐT&PTVN và Quyết định số 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991
của Tổng Giám đốc Ngân hàng ĐT&PTVN. Theo các Quyết định này,
SGD là đơn vị trực thuộc, thực hiện hạch toán nội bộ, có bảng cân đối tài
khoản riêng, có con dấu riêng và trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trụ sở
đặt tại 191 Bà Triệu-Hà Nội. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển,
SGD trải qua hai thời kỳ:
- Thời kỳ từ 1991-1995: nhiệm vụ chính trong thời kỳ này là cấp phát
vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản.

21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
22
BAN
GIÁM
ĐỐC
KHỐI TÍN DỤNG
KHỐI DỊCH VỤ
KHỐI QUẢN LÝ
NỘI BỘ
KHỐI ĐƠN VỊ
TRỰC THUỘC
P. Tín dụng 1
P. Tín dụng 2
P. Tín dụng 3
P. Thẩm định
P. Thanh toán quốc tế
P. D.vụ khách hàng doanh nghiệp
P.D.vụ khách hàng cá nhân
P. Tiền tệ kho quỹ
P. Kế hoạch nguồn vốn
P. Tài chính kế toán
P. Tổ chức cán bộ
P. Hành chính Quản trị
P. Điện toán
P. Kiểm tra nội bộ
P. Giao dịch I
P. Giao dịch II
P. Quản lý Tín dụng
P. Giao dịch III

*Sơ đồ cơ cấu tổ chức
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1.1.2 Mạng lưới hoạt động
Từ ngày đầu thành lập, SGD có 2 phòng và 1 tổ nghiệp vụ; chủ yếu
làm nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách đầu tư các dự án.
Giai đoạn 1996 – 2000: với 167 cán bộ nhân viên SGD đã có 12
phòng nghiệp vụ, 1 chi nhánh khu vực, 2 phòng giao dịch và 7 quỹ tiết
kiệm. Thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, phục vụ
đông đảo khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế và dân cư.
Từ 2001 – 2005: SGD đã thực hiện tách nâng cấp mở 4 chi nhánh cấp
I trên địa bàn Hà Nội đó là: chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2002, chi nhánh Hà
Thành năm 2003, chi nhánh Đông Đô năm 2004 và chi nhánh Quang Trung
năm 2005. Cơ cấu lại SGD theo mô hình phục vụ một cửa thuận lợi cho
khách hàng và quản lý thông tin, thanh toán trực tuyến. Đến nay SGD đã có
15 phòng nghiệp vụ; 15 điểm giao dịch với gần 300 cán bộ nhân viên. Hệ
thống máy rút tiền tự động ATM hoạt động kết nối với các điểm giao dịch
của BIDV trên phạm vi toàn quốc hợp thành mạng lưới rộng khắp phục vụ
khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Năm 2006, SGD đã mở thêm 1 chi nhánh nữa, trở thành phòng Giao
dịch III của SGD, nằm trên đường Hàng Khoai. Đây là chi nhánh hoạt động
tín dụng chủ yếu đối với khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh.
Mô hình tổ chức của SGD đang được hoàn thiện hướng theo các ngân
hàng hiện đại trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin để hình thành các
kênh phân phối sản phẩm tín dụng, huy động vốn, dịch vụ…
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của SGD từ năm 2004 – 2006
Bảng số liệu tình hình kinh doanh của SGD năm 2004 – 2006
Đơn vị: tỷ đồng

Năm 2004 2005 2006
Tuyệt đối %04/03 Tuyệt đối %05/04 Tuyệt đối %06/05
I. Huy động vốn
1. Tiền gửi TCKT
- TG không kỳ hạn
- TG có kỳ hạn
2. Tiền gửi dân cư
- TG tiết kiệm
- Kỳ phiếu
- CCTG, trái phiếu
3. Huy động khác
7,108.450
3,705.456
1,019.978
2,685.478
3,317.088
2,208.801
461.017
647.270
85.906
-15.46
33.69
83.31
21.22
-35.79
-8.14
-72.70
-39.64
-81.75
7,569.500

4,407.585
844.839
3,562.746
3,084.831
2,168.426
230.878
649.527
113.084
6.49
18.95
-17.17
32.67
-8.09
-1.83
-49.92
0.35
31.64
10,110.926
7,284.959
1,645.390
5,639.569
2,791.400
2,290.055
122.200
379.145
34.567
33.57
65.28
94.76
58.29

-8.44
5.61
-47.07
-41.63
-69.43
II. Tín dụng
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay TDH TM
3. Cho vay ĐTT
4. Cho vay KHNN
5. Cho vay ủy thác, ODA
4,224.050
855.811
1,345.314
1,119.697
515.475
387.754
5.71
29.64
-14.01
37.45
-11.56
3.79
4,813.816
1,724.458
1,012.621
1,396.026
374.866
305.846
13.96

101.50
-24.73
24.68
-27.28
-21.12
5,000.752
1,959.934
623.713
1,894.594
256.478
266.034
3.88
13.66
-38.41
35.71
-31.58
-13.02
III. Chỉ tiêu khác
1. Thu dịch vụ ròng
2. Lợi nhuận trước thuế
3. Tổng tài sản
24.502
83.856
10,950.980
-4.48
-36.15
-5.31
25.600
93.659
11,180.720

4.48
11.69
2.10
49.512
184.858
14,141.538
93.41
97.37
26.48
2.1.2.1 Công tác huy động vốn
Qua bảng số liệu, ta có thể thấy rõ rằng trong những năm gần đây,
tổng huy động vốn của SGD đã có sự tăng trưởng rất mạnh. Năm 2004, huy
động vốn đạt 7,108.450 tỷ đồng, giảm 15.46 % so với năm 2003. Nhưng
năm 2005, tổng huy động vốn đã tăng trở lại, đạt 7,569.500 tỷ đồng, tăng
6.49% so với năm 2004. Và năm 2006 là năm tăng trưởng mạnh của SGD
với nguồn vốn huy động được đạt 10,110.926 tỷ đồng, tăng 33.57 % so với
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
năm 2005 và là năm có nguồn vốn huy động nhiều nhất cũng như tăng
trưởng mạnh nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây.
- Tiền gửi từ các tổ chức kinh tế trong 3 năm cũng có sự đột biến rõ
ràng. Năm 2004 đạt 3,705.456 tỷ đồng, tăng 33.69% so với năm 2003. Đến
năm 2005 thì chỉ đạt 4,407.585 tỷ đồng, tăng 18.95% so với năm 2004. Tuy
nhiên năm 2006 thì con số này đạt 7,284.959 tỷ đồng, tăng 65.28% so với
năm 2005. Trong đó, tiền gửi không kỳ hạn năm 2006 tăng gần gấp đôi so
với năm 2005, đạt 1,645.390 tỷ đồng tương ứng 94.76% tăng so với năm
2005. Tỷ lệ này năm 2005 lại giảm 17.17% so với năm 2004, chỉ đạt
844.839 tỷ đồng. Tiền gửi có kỳ hạn cũng tương tự như tiền gửi không kỳ
hạn. Năm 2006 đạt 5,639.569 tỷ đồng tăng 58.29% so với năm 2005. Năm
2005 đạt 3,562.746 tỷ đồng không giảm như tiền gửi không kỳ hạn, tăng

32.67% so với năm 2004.
Có được điều này là do các tổ chức kinh tế đã có sự thay đổi về hoạt
động kinh doanh, đã đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, giảm lượng vốn
đọng lại ở ngân hàng mà chuyển nó thành vốn lưu động phục vụ sản xuất
kinh doanh của mình. Ngoài ra các chính sách của ngân hàng cũng khuyến
khích các doanh nghiệp tăng lượng gửi tiền có kỳ hạn bằng cách tăng lãi
suất huy động có kỳ hạn lên cao, khiến các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
chuyển từ gửi không kỳ hạn sang có kỳ hạn nhiều hơn.
- Tiền gửi dân cư không có sự đột biến nào rõ ràng. Điều này thể hiện
rất rõ qua tổng vốn huy động từ dân cư. Năm 2004 đạt 3,317.088 tỷ đồng,
giảm 35.79% so với năm 2003. Năm 2005 đạt 3,048.831 tỷ đồng, giảm
8.09% so với năm 2004. Năm 2006 đạt 2,791.400 tỷ đồng giảm 8.44% so
với năm 2005.
Các hoạt động thành phần bao gồm huy động tiền gửi tiết kiệm, kỳ
phiếu, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu nhìn chung qua các năm đều giảm.
Điều này thể hiện rõ việc dân cư ngày càng ít giữ tiền ở trong ngân hàng
25

×