Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

BÀI GIẢNG HỌC PHẦN KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN - tiến sĩ Võ Xuân Tâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.72 KB, 81 trang )

BÀI GIẢNG HỌC PHẦN KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
TS.GVC. VÕ XUÂN TÂM
ChươngI: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VẾ TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. Phân chia các nước theo trình độ phát triển
1. Sự hình thành thế giới thứ ba
Cho tới 1945, nhiều nước ở Tây Âu, nhất là Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ,…còn kiểm soát
những thuộc địa rộng lớn. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước ở Châu Á châu
Phi, Mỹ La tinh giành được độc lập dân tộc, có những cố gắng trong phát triển kinh
tế, với đường lối “độc lập tự chủ nhằm giảm bớt sức ép từ các nước phát triển vốn đã
từng là “chính quốc” của họ.Các nước này được gọi là “thế giới thứ ba”. Cách gọi này
nhằm phân biệt với “thế giới thứ nhất” là các nước có nền kinh tế phát triển, phần lớn
là các nước ở Tây Âu, “thế giới thứ hai” là các nước có nền kinh tế tương đối phát
triển, tập trung ở Đông Âu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Để tránh rơi vào vòng ảnh hưởng của khối này hay khối kia, nhiều nước trong thế
giới thứ ba đã liên kết lại với nhau dưới nhiều hình thức. Tháng 4-1955, tại Indonexia
đã diễn ra Hội nghị Bandung, thành lập Phong trào ” Không liên kết”. Những người
tham gia Hội nghị khẳng định quyết tâm xây dựng quan hệ quốc tế mới, ưu tiên giúp
đỡ cho các quốc gia nghèo, xây dựng trật tự kinh tế bình đẳng.
Việt Nam là một trong số các nước sáng lập Phong trào Không liên kết. Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đã tham gia Hội nghị Bandung. Phong trào này những
nắm 1970 hoạt động rất sôi nổi, tạo những áp lực với các nước phát triển trong việc xây dựng trật tự mới của
kinh tế Thế giới,…
2. Phân chia các nước theo trình độ phát triển
Về mặt kinh tế, các nước thuộc thế giới thứ ba còn được gọi là các nước “đang phát
triển”. Khái niệm này xuất hiện vào những năm 1960, thời kỳ mà hầu hết các nước
này đang đối mặt với đói nghèo, bệnh tật, bất bình đẳng về kinh tế và xã hội, đang tìm
cách bứt phá các ràng buộc để đi lên. Khái niệm này còn dùng để phân biệt với các
quốc gia giàu có ở phía Bắc. Tuy vậy, kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai nhiều
1
nước đang phát triển đã tìm kiếm được con đường đưa đất nước vượt lên, tiến hành


công nghiệp hóa, đi vào hàng ngũ các nước phát triển.
Xuất phát từ trình độ phát triển và những đặc trưng trong quá trình vận động, Ngân
hàng Thế giới đề nghị sắp xếp các nước trên thế giới thành 4 nhóm: các nước công
nghiệp phát triển, các nước mới công nghiệp hóa, các nước đang phát triển, các nước
xuất khẩu dầu mỏ.
Bảng 1: Phân loại các nước theo trình độ phát triển
Các chỉ tiêu, thông
số để phân loại
Các nước công nghiệp
phát triển DCs
Các nước mới công nghiệp
hóa NICs
Các nước đang phát triển
LDCs
1-Giai đoạn kinh tế
2-Thu nhập bình
quân/người/năm
3-Về cơ cấu kinh
tế kỹ thuật
- Đã công nghiệp hóa, đi
vào giai đoạn trưởng thành
- Trên 10.000USD
- Định hình và chuyển dịch
nhanh theo các lợi thế.
- Kỹ thuật hiện đại.
- Cơ cấu ngành chuyển
dịch theo hướng dịch vụ-
công nghiệp-nông nghiệp.
-Tỷ trọng xuất khẩu chiếm
ưu thế trong GDP

- Đã công nghiệp hóa
trongthời kỳ đặc biệt những
nắm1960-1980, đang ở giai
đầu của trưởng thành về
kinh tế.
- Trên 6.000USD
- Định hình và chuyển dịch
nhanh theo các lợi thế.
- Kỹ thuật hiện đại, có sự kết
hợp thích dụng các loại hình
kỹ thuật.
- Đang hoặc chưa công
nghiệp hòa, đang ở giai
đoạn cất cánh hoặc trước
cất cánh
- Bao gồm ba nhóm:
* Thu nhập bình quân
trong khoảng 2.000-
6.000USD
*Thu nhập bình quân từ
600-2000USD
*Thu nhập bình quân dưới
600USD
- Đang trong quá trình điều
chỉnh cơ cấu kinh tế kỹ
thuật.
- Độ chuyển dịch nhỏ
2
4-Về mặt thể chế
- Các truyền thống, tập tục

lạc hậu suy giảm nhanh.
- Hệ thống quản lý hoàn
thiện theo sự tiến bộ của
môi trường kinh tế
- Đã thiết lập mạng các
quan hệ kinh tế-thể chế với
bên ngoài, hoạt động có
hiệu quả
- Cơ cấu ngành chuyển dịch
theo hướng công nghiệp-
dịch vụ-nông nghiệp
- Các truyền thống, tập tục
lạc hậu suy giảm nhanh.
- Đã và đang tìm cách nối
kết các quan hệ kinh tế-thể
chế với các nước phát triển
và đang phát triển
- Cơ cấu ngành đang trong
thời kỳ nông nghiệp- công
nghiệp-dịch vụ.
- Nhiều truyền thống tập
tục lạc hậu đang đè nặng,
thậm chí quyết định sự
phát triển.
- Đang tìm cách nối kết các
quan hệ kinh tế-thể chế với
các nước phát triển và
đang phát triển
-Đang trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện hệ thống

các công cụ quản lý.
* Các nước xuất khẩu dầu mỏ (hầu hết các nước này đều gia nhập Tổ chức xuất
khẩu dầu mỏ OPEC) là những nước có trữ lượng dầu mỏ lớn, khai thác và xuất khẩu
dầu mỏ là ngành chính trong GDP. (Arập Xê út, Iran, Irắc, Vêne duela,…). Mặc dù có
thu nhập bình quân đầu người cao, nhưng lại thiếu chuyên gia, công nhân lành nghề,
… nên nhìn chung các nước này chưa đi lên nhanh, cơ cấu kinh tế mất cân đối, phân
phối thu nhập còn chứa đựng nhiều bất bình đẳng. Gần đây, các nước này đang cố
gắng điều chỉnh cơ cấu với mức độ khác nhau và kết quả cũng rất khác nhau.
II. Đặc trưng của các nước đang phát triển
1- Những khác biệt giữa các nước đang phát triển
Cho dù các nước đang phát triển có những tương đồng về mặt bằng phát triển, hoàn
cảnh lịch sử-chính trị, nhưng giữa họ cũng có những khác biệt, tạo nên bức tranh đa
sắc trong thống nhất là chậm phát triển. Những khác biệt này quyết định việc lựa
chọn và sử dụng lợi thế của từng nước:
1-Quy mô đất nước (Dân số, diện tích ), 2-Điều kiện lịch sử- tự nhiên, 3-Vai trò của
khu vực Nhà nước và tư nhân, 4-Việc lựa chọn đồng minh và sự giúp đỡ của các đồng
minh,…
3
2- Những điểm chung của các nước đang phát triển
Bên cạnh những khác biệt, LDCs có những giống nhau cơ bản là:
(1)- Mức sống thấp, (2)- Tỷ lệ tích lũy nhỏ, (3)- Trình độ kỹ thuật lạc hậu, (4)-
Năng suất lao động thấp.
Những đặc điểm này tác động, quy định lẫn nhau, tạo nên ”vòng luẩn quẩn”của đói
nghèo và chậm phát triển.
III. Tổng quan về tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu và và là nền tảng để các các
mục tiêu khác bắt rễ và vận động. Điều này lại càng quan trọng với các nước đang
phát triển (LDCs) trên con đường đuổi kịp và hội nhập với thế giới về kinh tế, văn hóa
và xã hội.
1.Tăng trưởng kinh tế

4
Năng suất
thấp
Tỷ lệ tích lũy
nhỏ
Trình độ kỹ thuật
lạc hậu
Thu nhập thấp
Hình 1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề hấp dẫn, có tính tiêu điểm trong
nghiên cứu và quản lý phát triển. Cùng với thời gian khái niệm này được bổ sung,
hoàn thiện hơn.
1.1. Khái niệm
- Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng quốc gia trong một thời kỳ nhất định
(thường là một năm).
Gần đây, khái niệm này được định nghĩa theo hướng mở rộng:
- Tăng trưởng là sự gia tăng sản lượng quốc gia trong một thời kỳ nhất định, đồng
thời là sự gia tăng các nhân tố sản xuất được sử dụng trong điều kiện trạng thái kinh
tế vĩ mô tương đối ổn định.
Khái niệm tăng trưởng này bao hàm các vấn đề: tăng trưởng tạo ra cái gì?, Tăng
trưởng dựa trên điều kiện cơ bản nào? Tăng trưởng ở trong trạng thái ra sao?
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng người ta sử dụng một hệ thống chỉ tiêu có tính chất phối
hợp và bổ sung cho nhau:
(1) Chỉ tiêu phản ánh quy mô và tốc độ tăng trưởng:
-Quy mô sản lượng quốc gia tăng thêm:∆G, G là sản lượng quốc gia, người ta
thường lấy GDP hoặc GNP đề tính toán.
- Tốc độ tăng của sản lượng
∆I
G

= :∆G/G
Trong đó: I là chỉ số phát triển (hay còn gọi là tốc độ phát triển) của sản lượng,
∆I là chỉ số tăng ( hay là tốc độ tăng) của sản lượng
(2) Chỉ tiêu phản ánh quy mô và tốc độ các nhân tố sản xuất được sử dụng:
K, I
K
; L, I
L;
R, I
R
;…
Trong đó: K là vốn sản xuất; L là nhân lực được sử dung; R là tài nguyên thiên
nhiên
(3) Chỉ tiêu thu nhập bình quân /người-năm.
(4) Chỉ tiêu phản ánh tính ổn định kinh tế vĩ mô
- Chỉ số giá cả Ip (phản ánh lạm phát, có thể tính chỉ số chung của các hàng
hóa hoặc chỉ số một số hàng hóa dịch vụ chủ yếu theo danh mục đã quy định).
5
- Mức và tỷ lệ thâm hụt ngân sách (so với sản lượng)
- Tổng tích nợ và tỷ lệ tích nợ (so với sản lượng)
- Mức và tỷ lệ thất nghiệp (so với dân số hoạt động)
- Tương quan xuất nhập khẩu (X/M; X/(X+M); M/(X+M)
- Mức sản xuất và tiêu thụ một số hàng hóa, dịch vụ chủ yếu (tính cho một đơn
vị đo)
-Tỷ lệ tích lũy-đầu tư trong sản lượng quốc gia.
Từ thực tế nghiên cứu và quản lý, cần phải trả lời câu hỏi:
Thứ nhất, Các thông số chỉ số trên đây ở trong giới hạn nào thì trạng thái
kinh tế vĩ mô được coi là ổn định?
Thứ hai, Việt nam tăng trưởng ở mức độ nào, trạng thái kinh tế vỹ mô ra sao
trong thời gian gần đây?

Thứ ba, các loại hình giá được sử dụng trong đo lường tăng trưởng?
- Một số trường hợp tăng trưởng cần chú ý:
1-Tăng trưởng không gia tăng việc làm: Là sự tăng trưởng, theo thời gian, sản
lượng có tăng lên nhưng nhân lực được sử dụng không tăng hoặc tăng không
đáng kể.
2- Tăng trưởng thô bạo: là tăng trưởng, theo thời gian tạo nên tăng trưởng
không gia tăng việc làm và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, mở rộng
khoảng cách thu nhập giữa các nghành, các vùng, các nhóm dân cư.
3 - Tăng trưởng không biết đến ngày mai: Là sự tăng trưởng chỉ nhìn vào ngắn
hạn, trung hạn; khai thác ồ ạt và sử dụng kém hiệu quả các tài nguyên; làm ô
nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái; làmsuy thoái, cạn kiệt các nguồn
lực để phát triển trong dài hạn.
4 - Tăng trưởng không ổn định: Là sự tăng trưởng, theo thờì gian xuất hiện
tình trạng lạm phát cao, thâm hụt ngân sách lớn nhập siêu quá cao ,…
5 – Tăng trưởng nóng
6 - Tăng trưởng hiệu quả là sự tăng trưởng, theo thời gian, tốc độ thu nhập tăng
nhanh hơn tốc độ các chi phí về tài nguyên.
6
Khi nghiên cứu các trường hợp tăng trưởng đặc biệt trên, hãy xác định
nguyên nhân và hậu quả của nó về kinh tế, xã hội nếu duy trì chúng trong
dài hạn?
2. Phát triển kinh tế
2.1. Khái niệm: Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên về mọi mặt của nền kinh tế,
là quá trình biến đổi nhiều mặt về kinh tế, xã hội và cấu trúc theo hướng tiến bộ.
Như vậy, phát triển bao gồm các nội dung cơ bản:
- Phát triển là một quá trình, bao gồm sự thay đổi số lượng và chất lượng kinh
tế, xã hội và cấu trúc.
- Phát triển bao hàm quá trình tăng trưởng tương đối ổn định, dần đi vào hiệu
quả.
- Nội hàm của phát triển là chuyển dịch mặt bằng kinh tế, xã hội và giai đoạn

kinh tế.
2.2. Đo lường phát triển
Để đo lường phát triển người ta dùng hệ thống chỉ tiêu:
(1) Các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế
(2) Các chỉ tiêu về thay đổi cơ cấu kinh tế:
- Tỷ trọng các ngành, lĩnh vực và xu hướng vận động của chúng.
- Tổng chuyển dịch của các ngành và lĩnh vực.
- Chỉ tiêu phản ánh mức độ mở cửa của nền kinh tế
(3) Các chỉ tiêu phát triển xã hội và phản ánh cơ cấu xã hội
-Tuổi thọ bình quân; tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người đi học trong dân số
-Trình độ văn hóa và chuyên môn bình quân
-Tỷ lệ dân cư thành thị, nông thôn
(4) Các chỉ tiêu về nghèo đói và bất bình đẳng
Chú ý: Tìm hiểu nội dung chỉ số phát triển con người!?
III. Phát triển bền vững
Từ những năm 1970 -1980, trong khi tăng trưởng kinh tế của nhiều nước đã đạt
được quy mô và tốc độ nhất định thì tình trạng suy kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường xuất hiện ngày càng nhanh. Các vấn đề trên xuất hiện và chỉ có thể được giải
7
quyết ở phạm vi quốc gia, liên quốc gia và toàn cầu. Vấn đề phát triển bền vững trở
thành chương trình nghị sự của mỗi nước và cả thế giới.
Năm 1987,Ngân hàng Thế giới lần đầu tiên đưa ra khái niệm phát triển bền
vững:”là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai,…”
Quan niệm trên đây của WB chỉ mới chú trọng đến sử dụng có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống trong quá trình phát triển.
Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững ở Johannesbug (Nam
Phi) năm 2002 đã định nghĩa: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết
hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: tăng trưởng kinh
tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Tiêu chí để đánh giá sự phát

triển bền vững là tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng
xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng
cao chất lượng môi trường sống…,
IV. Các chiến lược phát triển
Phát triển là một quá trình do nhiều nhân tố quy định. Trong đó xác định đúng
và quản lý có hiệu quả chiến lược phát triển có vị trí quan trọng, thậm chí là một
trong những nhân tố quyết định sự thành công về kinh tế của nhiều nước trong một
số thời kỳ.
8
Mục tiêu kinh tế
Tăng trưởng cao, ổn định
Phát triển bền vững
Mục tiêu xã hội
Mục tiêu
môi trường
Bảo vệ, cải thiện
TNTN,
MT
-Cải thiện các
điều kiện xã hội,…
- Phát triển nhân
lực
Cải thiện môi
trường, bảo vệ
TNTN
Vào những năm 1980 của thế kỷ trước, các báo và tạp chí lớn trên thế giới đã trưng cầu các nhà khoa
học và quản lý lựa chọn và xếp hạng 10 sự kiện (hay thành quả) khoa học-công nghệ và quản lý làm biến đổi
căn bản nửa sau thế kỷ XX. Đến nay người ta chưa tổng kết chính thức?!. Tuy vậy những sự kiện sau được đa
số thừa nhận:1-Bom nguyên tử, 2- Công nghệ sinh học, 3-Con người trong ống nghiệm, 4- Máy bay Boing và
Concodre, 5- Máy tính và hệ thống mạng toàn cầu, 6-?, 7-?, 8-?, 9-?, 10-Các Chính phủ tìm cách can thiệp

vào nền kinh tế để kích thích tăng trưởng và điều chỉnh cấu trúc phát triển, chiến lược và quản lý chiến lược
phát triển ra đời và được coi trọng.Như vậy chiến lược và quản lý chiến lược cũng được nhiều người coi
như là một trong những sự kiện làm thay đổi căn bản nửa sau thế kỷ XX,…
4.1.Khái niệm chiến lược
Thuật ngữ chiến lược bắt nguồn từ lĩnh vực quân sự,sau này được vận dụng
vào lĩnh vực quản lý kinh tế với nội hàm thích hợp:
- Chiến lược là phương châm và kế hoạch có tính chất toàn cục, xác định mục
tiêu chủ yếu và sự sắp xếp lực lượng cả một thời kỳ của cuộc đấu tranh chính trị xã
hội (Từ điển tiếng việt)
- Chiến lược là đường hướng hoặc kế hoạch kết hợp các mục tiêu lớn, chính
sách và các chương trình hành động thành một thể thống nhất.(Quinn 1980).
- Chiến lược là kế hoạch, mưu lược, mẫu hình vị thế và tầm nhìn.
(Mintzberg,1987)
Có thể kết luận: Chiến lược là công cụ quản lý có tính định hướng căn bản
cho một giai đoạn kinh tế, gồm nhiều bộ phận hợp thành, phản ánh các mục tiêu
cho một giai đoạn cũng như từng phân kỳ; những điều kiện thực hiện mục tiêu,
các nguồn lực cơ bản cần tạo ra và sử dụng; hướng hoàn thiện các công cụ, các
giải pháp quản lý; cùng với các mục tiêu về chính trị- xã hội-dân tộc.
4.2. Phân loại chiến lược
Chiến lược được xây dựng, quản lý theo nhiều hình thức (tiêu thức) khác nhau.
Điều này do tính hệ thống của đối tượng quản lý và tính đa chiều trong tiếp cận vấn
đề nghiên cứu. Trong thực tế ở một giai đoạn người ta lấy một chiến lược làm căn
bản, trong từng trung hạn người ta bổ sung vào đó những nội dung cần thiết hợp lý
của các chiến lược khác. Vì vậy, xây dựng và quản lý chiến lược ngày nay có tính
hỗn hợp.
4.2.1. Xét theo thị trường căn bản:
- Chiến lược phát triển hướng ngoại
9
- Chiến lược phát triển hướng nội
4.2.2. Xét theo mức độ ưu tiên về đầu tư và tạo lợi thế tương quan:

- Chiến lược phát triển từ thượng lưu xuống hạ lưu
- Chiến lược phát triển từ hạ lưu lên thượng lưu
- Chiến lược phát triển toàn bộ
- Chiến lược phát triển theo công đoạn
4.2.3. Xét theo mức độ ưu tiên các tài nguyên để đáp ứng các nhu cầu:
- Chiến lược đáp ứng nhu cầu cơ bản
- Chiến lược phát triển đa dạng
4.2.4. Xét theo mức độ tác động của chính phủ
- Chiến lược phát triển áp đặt hành vi
- Chiến lược phát triển hỗn hợp
V. So sánh chiến lược phát triển hướng nội và phát triển hướng ngoại
Đây là hai loại hình chiến lược được nhiều nước lựa chọn làm chiến lược căn
bản sau khi đã nỗ lực thiết lập sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Bảng 2: So sánh một số nội dung của hai chiến lược
Các nội dung so sánh
Chiến lược phát triển
hướng nội
Chiến lược phát triển
hướng ngoại
1-Xét về thị trường
2-Đặc trưng về cơ cấu và phương
thức vận động
3-Các ưu tiên trong chính sách
- Lấy thị trường nội địa làm căn
bản để xác định cơ cấu sản xuất và
các ưu tiên trong chính sách,…
- Sau khi tập trungphát triển các
ngành để đáp ứng nhu cầu cơ bản
chuyển sang phát triển đa dạng về
mặt hàng và cấp độ kỹ thuật

-Thường phát triển từ thượng lưu
xuống hạ lưu
- Có hệ thống chính sách giải pháp
bảo hộ bảo trợ, tạo lợi thế tương
đối cho các ngành hướng nội
- Khuyến khích nhập hàng đầu tư
- Lấy thị trường bên ngoài làm căn
bản để xác định cơ cấu sản xuất và
các ưu tiên trong chính sách,…
-Tập trung vào một số ngành có
sức cầu lớn ở bên ngoài về quy mô
và tốc độ mà nền kinh tế có lợi thế
- Phương thức vận động không rõ
nét nếu xét trong trung hạn
- Phối hợp chính sách tạo lợi thế
tương đối cho các ngành hướng
ngoại và khuyến khích xuất khẩu
- tăng cường phối hợp về chính
sách với các nước, các tổ hợp tài
10

4- Mặt tích cực
5- Mặt hạn chế
so với hàng tiêu dùng
- Đầu tư chính phủ có vai trò dẫn
dắt, khơi gợi đầu tư và lấp lỗ trống
thiếu hụt về hàng hóa, dịch vụ
- Tạo nhiều việc làm
- Cho phép kết hợp tăng trưởng
với công bằng

- Giảm bớt sức ép từ bên ngoài
- Tốc độ tăng trưởng và hiệu
quả giảm dần
- Tính cạnh tranh yếu, có tình
trạng ỷ lại vào bảo hộ và trợ cấp
của Chính phủ
chính-kinh tế quốc tế
-Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả
cao, cho phép cân bằng có hiệu
quả sản xuất với tiêu dùng cuối
- Cơ cấu mặt hàng-kỹ thuật linh
hoạt với từng khu vực thị trường
- Du nhập nhanh và thích dụng kỹ
thuật công nghệ, kiến thức kinh
doanh và quản lý
- Có sự phân hóa nhanh thu
nhập giữa các ngành, vùng, các
tầng lớp dân cư
- Việc làm tăng chậm
- Chịu nhiều tác động của thị
trường thế giới
- Câu hỏi nghiên cứu sâu thêm:
1 -Trong điều kiện một nước gia nhập WTO,…nếu muốn duy trì một ngành
nào đó phát triển hướng nội là chính, những trở ngại nào sẽ gặp phải và cần phải có
những giải pháp nào để phát triển ngành đó mà không vi phạm các cam kết quốc
tế ?
2 -Trong thời kỳ 1986 đến nay, Việt Nam đã lấy những chiến lược nào làm căn
bản?Trong từng trung hạn đã bổ sung vào đó những nội dung hợp lý, cần thiết của
những chiến lược nào ?
11

CHƯƠNG II: CÁC LÝ THUYẾT, MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
A. CÁC LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Mô hình kinh tế là cách diễn đạt các quan điểm về tăng trưởng, phát triển kinh
tế thông qua các biến số kinh tế và mối quan hệ giữa chúng. Mục đích nghiên
cứu mô hình là mô tả phương thức vận động của nền kinh tế thông qua mối quan
hệ nhân quả giữa các biến số quan trọng sau khi đã lược bỏ và đơn giản hóa những
phức tạp không cần thiết.Cách diễn đạt của các mô hình có thể bằng lời văn, sơ đồ,
hoặc công thức toán học.
I. MÔ HÌNH CỔ ĐIỂN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Điểm xuất phát của mô hình
Adam Smith được coi là người khai sinh của khoa học kinh tế, với tác phẩm
“Của cải của các nước”. Trong tác phẩm này ông giới thiệu những nội dung cơ bản :
- Học thuyết về “giá trị lao động”: Lao động chứ không phải đất đai, tiền bạc là
nguồn gốc cơ bản tạo ra mọi của cải cho đất nước.
- Học thuyết “Bàn tay vô hình”: Tự người lao động chứ không phải ai khác biết
rõ nhất cái gì lợi cho họ. Nếu không bị chính phủ kiểm soát, họ được lợi nhuận thúc
đẩy, sẽ sản xuất các hàng hóa và dịch vụ cần thiết. Thông qua thị trường, lợi ích cá
nhân sẽ gắn với lợi ích xã hội. Ông cho rằng mọi cá nhân không có ý định thúc đẩy
lợi ích công cộng…Họ được bàn tay vô hình dẫn dắt để phục vụ một mục đích
không nằm trong ý định của mình.
- Về vai trò của Chính phủ ông viết:”Bạn nghĩ rằng bạn đang giúp cho hệ
thống kinh tế bằng những quản lý đầy ý định tốt đẹp và bằng những hành động can
thiệp của mình. Không phải như vậy đâu. Hãy để mặc tất cả, hãy để mọi sự việc xẩy
ra. Dầu nhờn của lợi ích cá nhân sẽ làm cho các bánh xe kinh tế hoạt động một cách
gần như kỳ diệu. Không ai cần kế hoạch, không cần quy tắc, thị trường sẽ giải quyết
tất cả…”.
12
- Ông cũng đưa ra lý thuyết về phân phối thu nhập, theo nguyên tắc ”ai có gì
được nấy”. Tư bản có vốn thì có lợi nhuận, địa chủ có đất thì nhận địa tô, công nhân

có sức lao động thì nhận được tiền lương.Theo tác giả đây là nguyên tắc phân phối
công bằng, hợp lý.
2.Các yếu tố tăng trưởng kinh tế và quan hệ giữa chúng
Nếu Adam Smith là người khai sinh, thì David Ricardo là đại diên xuất sắc của
trào lưu kinh tế học cổ điển. Ricardo cho rằng:
- Nông nghiệp là ngành quan trọng nhất, theo đó các yếu tố cơ bản của tăng
trưởng kinh tế là đất đai, sức lao động và vốn.
- Trong từng ngành, với một trình độ kỹ thuật nhất định, các yếu tố này kết
hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định.
-Trong ba yếu tố của tăng trưởng, đất đai là quan trọng nhất, do đó đất đai là
giới hạn của tăng trưởng. Để duy trì tăng trưởng, liên tục hóa sự vận động của nền
kinh tế, chỉ có thể xuất khẩu hàng công nghiệp để nhập khẩu nông phẩm, đặc biệt là
lương thực, hoặc phát triển công nghiệp để tác động vào nông nghiệp.
3. Phân chia các nhóm người trong xã hội và thu nhập của họ
Tương ứng với các yếu tố tăng trưởng, Ricardo chia xã hội thành các nhóm
người: địa chủ, nhà tư bản, công nhân. Phân phối thu nhập của ba nhóm người này
phụ thuộc quyền sở hữu của họ với các yếu tố sản xuất: địa chủ có đất sẽ nhận được
địa tô; công nhân có sức lao động thì nhận được tiền công; tư bản có vốn sẽ nhận
được lợi nhuận.
Do vậy, thu nhập của xã hội là tổng thu nhập của các tầng lớp dân cư,
nghĩa là bằng: tiền công + lợi nhuận + địa tô.
Trong các nhóm người của xã hội, các nhà tư bản giữ vai trò quan trọng
trong sản xuất và phân phối, đặc biệt họ là tầng lớp giữ vai trò chính thực hiện
tích lũy cho phát triển sản xuất.
4. Quan hệ cung cầu và vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng
Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng, thị trường với bàn tay vô hình dẫn dắt đã
gắn lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, làm linh hoạt giá cả và tiền công, hình thành
13
và điều chỉnh các cân đối kinh tế, bảo đảm công việc làm đầy đủ. Đây là quan điểm
cung tạo nên cầu.

Hình 2: Đường Cung cầu theo mô hình trường phái cổ điển
Trong mô hình này, đường cung AS luôn là đường thẳng đứng ở mức sản lượng
tiềm năng. Đường cầu AD thực chất là đường biểu thị hàm cung tiền, được xác
định bởi mức giá, không quan trọng với việc hình thành sản lượng. Điều này
cũng có nghĩa là các chính sách kinh tế không có tác động đáng kể vào hoạt
động kinh tế.
Tác giả còn cho rằng, chính sách kinh tế nhiều khi lại hạn chế khả năng phát
triển kinh tế. Ví dụ chính sách thuế, xét cho cùng thuế lấy từ lợi nhuận, tăng thuế sẽ
làm giảm tích lũy hoặc làm tăng giá cả hàng hóa dịch vụ.
Về chi tiêu của Chính phủ, các nhà kinh tế học cổ điển cho đó là những chi tiêu
“không sinh lời”. Ricardo chia những người làm việc thành hai nhóm. Những người
làm việc trực tiếp và gián tiếp tạo ra sản phẩm là những lao động sinh lời, còn
14
Y
o
GDP
AD
O
AD
1
P AS
những người khác là lao động không sinh lời. Do những hoạt động không sinh lời
này mà khả năng phát triển kinh tế bị giảm bớt.
II. MÔ HÌNH CỦA K. MARX VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
K.Marx (1818-1883) là nhà kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử và triết học xuất
sắc. Tác phẩm nổi tiếng của ông là bộ “Tư bản”. Những quan điểm của ông về phát
triển kinh tế có thể tóm lược như sau:
1. Các yếu tố tăng trưởng kinh tế
Theo Marx, các yếu tố tác động đến quá trính tái sản xuất là đất đai, sức lao
động, vốn và tiến bộ kỹ thuật.

- Về yếu tố sức lao động: Tác giả cho rằng sức lao động là yếu tố duy nhất tạo
ra giá trị thặng dư. Thời gian lao động của công nhân chia ra hai phần, thời gian lao
động cho mình (v) và thời gian lao động cho nhà tư bản (m). Tỷ lệ m/v phản ánh
mức độ bóc lột công nhân của nhà tư bản.
- Về yếu tố kỹ thuật: Mục đích của nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư. Muốn
vậy họ phải tăng thời gian lao động, giảm tiền lương của công nhân, tìm mọi cách
nâng cao năng suất lao động. Hai hình thức đầu có giới hạn trong khoảng nhất định.
Cho nên, tăng năng suất lao động thông qua cải tiến kỹ thật là con đường cơ bản để
tăng khối lượng giá trị thặng dư (đồng thời cũng làm tăng quy mô kinh tế).
Marx cho rằng, tiến bộ kỹ thuật làm tăng mức trang bị kỹ thật cho công nhân,
vì vậy cấu tạo hữu cơ (c/v) cũng ngày càng tăng lên.
Để trang bị kỹ thuật, nhà tư bản phải đầu tư bằng cách phân chia giá trị thặng
dư thành phần tiêu dùng cho mình và phần cho tích lũy. Đây là nguyên lý của tích
lũy tư bản chủ nghĩa.
2. Sự phân chia giai cấp trong xã hội
15
- Cũng như Ricardo, Marx cho rằng, khu vực sản xuất của cải vật chất cho xã
hội

gồm ba nhóm người: địa chủ, nhà tư bản và công nhân. Tương ứng thu nhập của
ba nhóm người này là địa tô, lợi nhuận, tiền công.
- Khác với Ricardo, Marx cho rằng phân phối này là bất hợp lý, mang tính chất
bóc lột. Một phần tiền công, đáng ra người công nhân được hưởng lại bị nhà tư bản
và địa chủ chiếm lấy. Địa chủ và nhà tư bản thuộc giai cấp bóc lột. Công nhân là
giai cấp bị bóc lột.
3. Các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng
- Marx đứng trên lĩnh vực sản xuất để nghiên cứu và đưa ra các chỉ tiêu tổng
hợp. Ông chia các hoạt động xã hội thành 2 hai lĩnh vực: sản xuất vật chất và phi
sản xuất vật chất và cho rằng: chỉ có lĩnh vực sản xuất mới sáng tạo ra sản phẩm xã
hội.

- Dựa vào tính hai mặt của lao động tác giả phân chia sản phẩm xã hội thành 2
hình thái hiện vật và giá trị.
- Dựa vào công dụng của sản phẩm Marx chia sản phẩm xã hội thành hai bộ
phận tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
- Trên cơ sở phân chia trên tác giả đưa ra 2 khái niệm tổng sản phẩm xã hội
( về mặt giá trị bao gồm C+V+m) và thu nhập quốc dân (về mặt giá trị bao gồm
V+m).
4. Chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế
-Marx bác bỏ quan điểm cung tạo ra cầu và sự bế tắc của tăng trưởng do giới
hạn về đất đai của các tác giả cổ điển và cho rằng, nguyên tắc cơ bản của sự vận
động của tiền và hàng trên thị trường là phải bảo đảm thống nhất giữa hiện vật và
giá trị. Nếu khối lượng hàng hóa cần bán cách biệt quá xa với sức mua sẽ tạo ra
khủng hoảng. Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thường là khủng hoảng thừa do
cung tăng lên nhanh để tối đa hóa lợi nhuận trong khi sức cầu tăng chậm bởi tích lũy
tư bản. Khủng hoảng là một “giải pháp” để lập lại thế cân bằng mới của quan hệ tiền
– hàng. Khủng hoảng diễn ra với những phân kỳ và đặc điểm của nó.
-Theo Marx, chính sách kinh tế của Chính phủ có vai trò quan trọng, đặc biệt là
chính sách khuyến khích, nâng cao sức cầu hiện có.
16
III. MÔ HÌNH TÂN CỔ ĐIỂN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Nội dung cơ bản của mô hình
Cuối thế kỷ 19 cách mạng khoa học công nghệ có sự chuyển biến mạnh, tác
động nhiều mặt đến kinh tế, xã hội. Sự chuyển biến này đã làm thay đổi cấu trúc
kinh tế nói chung và cấu trúc chi phí sản xuất nói riêng. Những thay đổi này đã thúc
đẩy sự ra đời của trào lưu kinh tế “tân cổ điển” đứng đầu là Marshall. Trường phái
này có những điểm thống nhất với trường phái cổ điển, đồng thời có những điểm
mới.
-Trong mô hình tân cổ điển, các nhà kinh tế bác bỏ quan điểm của trường phái
cổ điển cho rằng trong một tình trạng nhất định, tỷ lệ kết hợp của các yếu tố sản xuất
là không thay đổi. Họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công và có nhiều cách

kết hợp các yếu tố sản xuất.
-Từ đây, họ đưa ra quan điểm “phát triển kinh tế theo chiều sâu” trên cơ sở
trang bị kỹ thuật tăng nhanh hơn sức lao động và tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản
thúc đẩy phát triển kinh tế.
-Các nhà kinh tế tân cổ điển còn cho rằng: nền kinh tế có hai đường tổng cung:
AS-LR phản ánh sản lượng tiềm năng, còn đường AS-SR phản ánh khả năng thực
tế. Mặc dù vậy, họ cũng nhất trí với các nhà kinh tế cổ điển là nền kinh tế luôn cân
bằng ở mức sản lượng tiềm năng. Bởi vì trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi
có biến động thì sự linh hoạt của giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản điều tiết, đưa
nền kinh tế về lại sản lượng tiềm năng thông qua sử dụng hết nguồn lao động.
- Chính sách kinh tế của Chính phủ không thể tác động vào sản lượng, nó chỉ
ảnh hưởng đến mức giá cả, do vậy vai trò Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển
kinh tế.

17
PL
Y
0
AS-LR
AS-SR
GDP
AD

2. Mô hình Cobb –Douglas
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc và toàn học hóa sự
tăng trưởng thông qua hàm sản xuất.
Cobb - Douglas là đồng tác giả đã đề xuất mô hình được nhiều người thừa
nhận và ứng dụng trong phân tích tăng trưởng.
Mô hình này phản ánh mối quan hệ giữa kết quả của đầu ra với các yếu tố đầu
vào vốn, lao động, tài nguyên, khoa học công nghệ.

Xuất phát từ hàm sản xuất có tính nguyên tắc:Y=F(K, L, R, T)
Trong đó: Y: Đầu ra, chẳng hạn GDP, …
K: Vốn sản xuất
L : Số lượng nhân lực được sử dụng
R: Tài nguyên thiên nhiên huy động vào hoạt động kinh tế
T: Khoa học công nghệ
Tác giả đã đưa ra mô hình thực nghiệm:
Y=K
α
L
β
.R
γ
.T, Trong đó α, β, γ là các số lũy thừa, phản ánh tỷ lệ
cận biên các chi phí của yếu tố đầu vào, ( α + β + γ = 1). Sau khi biến đổi, tác giả thiết
lập được mối quan hệ giữa kết quả tăng trưởng phụ thuộc và các yếu tố như sau:

Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của sản lượng,
k, l, r : tốc độ tăng các yếu tố đầu vào
18
g = αk+ βl + γr + t


+t
t: phần dư tăng trưởng do tác động của khoa học công nghệ.
Như vậy, hàm Cobb- Douglas cho biết 4 yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh
tế và cách thức, mức độ đóng góp của mỗi yếu tố này là khác nhau. Trong đó khoa
học công nghệ có vai trò quan trọng nhất với tăng trưởng và phát triển kinh tế.
IV. MÔ HÌNH KEYNES VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Nội dung mô hình

Vào những năm 30 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp trở
thành căn bệnh thường xuyên của nền kinh tế các nước phát triển. Đại khủng hoảng
kinh tế 1929-1933 cho thấy học thuyết “tự do điều tiết “ của thị trường và ”bàn tay
vô hình” của trường phái cổ điển và tân cổ điển đã không còn sức thuyết phục. Các
công cụ này không bảo đảm cho nền kinh tế tự điều chỉnh để phát triển lành mạnh.
Thực tiễn đòi hỏi phải có học thuyết mới lý giải được sự vận động và đưa ra các giải
pháp hiệu chỉnh nền kinh tế.
Năm 1936, tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của
J.Keynes đánh dấu sự ra đời một học thuyết mới.
1.1. Sự cân bằng của nền kinh tế
Khác với các tư tưởng cổ điển và tân cổ điển, J.Keynes cho rằng nền kinh tế có
xu hướng tự điều chỉnh đi đến cân bằng ở một mức sản lượng nào đó dưới mức
công ăn việc làm đầy đủ cho tất cả mọi người, tại nơi mà những khoản chi tiêu mới
cho đầu tư được hình thành từ tiết kiệm bắt đầu được bơm vào hệ thống kinh tế.
Tác giả cho rằng, có hai đường tổng cung: AS-LR phản ánh mức sản lượng
tiềm năng và AS-SR phản ánh khả năng thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không
nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng, thông thường sản lượng thực tế đạt ở mức cân
bằng nhỏ hơn mức sản lượng tiềm năng (Y
O
<Y
*
), (xem hình 3:)
19
Hình 3: Cân bằng kinh tế theo Keynes
1.2. Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng
J.Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc kéo theo sản lượng thực
tế. Ông cho rằng, thu nhập của các cá nhân được sử dụng cho tiêu dùng và tích lũy.
Khi thu nhập tăng lên thì xu hướng tiết kiệm trung bình cũng tăng lên và xu
hướng tiêu dùng trung bình sẽ giảm xuống. Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ làm
giảm cầu tiêu dùng. Đây là nguyên nhân tạo ra trì trệ trong kinh tế hay là nghịch

lý của tiết kiệm.
Mặt khác, khi nghiên cứu đầu tư của các doanh nghiệp cho thấy: đầu tư quyết
định quy mô việc làm. Nhưng quy mô đầu tư lại phụ thuộc lãi suất cho vay và hiệu
suất cận biên của vốn. Ông viết:”Sự thúc đẩy tăng sản lượng phụ thuộc vào sự tăng
lên của hiệu suất cận biên của một khối lượng vốn nhất định so với lãi suất”.
Tác giả sử dụng lý thuyết về việc làm và sản lượng do cầu quyết định để giải
thích tình trạng sản lượng tăng chậm trong khi thất nghiệp tăng nhanh những năm
1930 ở hầu hết các nước công nghiệp phương Tây. J. Keynes đề xuất nhiều giải pháp
để kích thích tăng tổng cầu và việc làm. Do đó lý thuyết này còn được gọi là lý
thuyết trọng cầu.
20
Y
*
Y
0
GDP
PL
0
PL AS-LR
AD
AS-RS
E
0
1.3. Vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng
Từ phân tích tổng quan, Keynes đi đến kế luận: Muốn thoát khỏi khủng hoảng,
thất ngiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách, đặc biệt
là những chính sách nhằm kích thích và tăng cầu tiêu dùng.
Ông đề nghị:
- Chính phủ sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư (thông qua các đơn đặt
hàng của Chính phủ, trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp).

- Áp dụng nhiều biện pháp để tăng lợi nhuận, giảm lãi suất.
- Tăng khối lượng tiền trong lưu thông, lạm phát có mức độ.
- Coi trọng hệ thống thuế, áp dụng thuế thu nhập lũy tiến để làm cho phân phối
công bằng hơn.
- Coi trọng đầu tư của Chính phủ vào khu vực công cộng, trợ cấp tất nghiệp,…
như là một loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm sút.
V. MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG HARROD - DOMAR
Dựa vào tư tưởng của J.Keynes, vào những năm 40 của thế kỷ XX, Harrod và
Domar độc lập nghiên cứu, cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa thất
nghiệp và sản lượng ở các nước đang phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng để
xem xét quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu về vốn.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào đều phụ thuộc vào vốn
đầu tư dành cho nó.
Nếu gọi đầu ra là Y, tốc độ tăng trưởng của nó là g, K là vốn sản xuất, I là vốn
sản xuất tăng thêm do đầu tư mà có, S là khối lượng tiết kiệm,
Trong đó: g= ∆Y/Y
t
; s=S
t
/Y
t ;
S
t
=I
t;
s=I
t
/Y
t
; I

t
=∆K
t+n
; k=∆K
t+n
/∆Y=
I
t
/∆Y.
Với những giả thiết và điều kiện trên, qua biến đổi sẽ có:
k
s
g
=
21
Ở đây, k là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra). Hệ số này nói lên để
tăng một đơn vị sản lượng cần có thêm bao nhiêu đơn vị tiết kiệm ( cùng có nghĩa là
phải có bao nhiêu đơn vị đầu tư tăng thêm). Hệ số này cũng cho biết trình độ kỹ thuật
của sản xuất.
Đối với nhà kế hoạch, với phương trình này, có thể xác định các phương án
đầu tư ( trong trung hạn, dài hạn) là xuất phát từ nhu cầu tăng trưởng hay là xuất phát
từ khả năng tích lũy và các nguồn khác.
Tuy vậy, các nhà kinh tế trường phái tân cổ điển cũng phê phán mô hình này ở
các nội dung sau:
- Tăng trưởng trong thực tế không chỉ duy nhất là do đầu tư.
- Nếu đầu tư có tăng lên, nhưng đầu tư sai về mục tiêu và địa điểm,…thì chưa chắc
có tăng trưởng.
VI. LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ HIỆN ĐẠI
Dựa vào lý thuyết của Keynes, Chính phủ nhiều nước đã linh hoạt trong sử
dụng các chính sách để hạn chế lạm phát, thất nghiệp, làm tăng sản lượng thực tế. Sau

một thời kỳ, do quá nhấn mạnh vai trò của chính sách, vai trò tự điều tiết của thị
trường bị xem nhẹ. Nhiều trở ngại mới cho tăng trưởng đã xuất hiện.
Trong bối cảnh đó, một trường phái kinh tế mới đã ra đời mà người đại diện là
P.A.Samuelson với tác phẩm ”Kinh tế học”-1948. Ngày nay, hầu hết các nền kinh tế
đều vận động theo cơ chế hỗn hợp với nội hàm là nền kinh tế vừa chịu tác động của
chính sách và công cụ quản lý vừa chịu tác động của các lực của thị trường. Liều
lượng “pha trộn” hai lực này do hoàn cảnh kinh tế, xã hội của từng nước, từng thời kỳ
và nhận thức, vận dụng của Chính phủ. Vì vậy học thuyết của Samuelson được coi là
cơ sở của lý thuyết tăng trưởng hiện đại.
Nội dung cơ bản của lý thuyết này là:
1.Sự cân bằng kinh tế
Kinh tế học hiện đại cũng thừa nhận sự cân bằng kinh tế theo quan điểm của
Keynes, nghĩa là điểm cân bằng không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng, mà
22
thường ở dưới mức sản lượng đó. Trong khi nền kinh tế hoạt động bình thường vẫn có
thể có thất nghiệp và lạm phát. Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát ở
mức chấp nhận được.
2. Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế
- Lý thuyết tăng trưởng hiện đại cũng thống nhất với trường phái tân cổ điển về
các yếu tố tác động đến sản xuất là: vốn, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, khoa học
và công nghệ (K,L,R,T) và đồng ý cách phân tích tăng trường của Cobb-Douglas. Họ
coi các yếu tố này là nguồn gốc của sự tăng trưởng.
Dựa vào số liệu từ 1930-1981của Hoa Kỳ, Samuelson cho rằng:” Khoảng 1/3 mức tăng sản lượng ở Mỹ
là do tác động của nguồn nhân lực và vốn, 2/3 còn lại là một số dư có thể quy cho giáo dục, đổi mới, hiệu
quả kinh tế theo quy mô, tiến bộ khoa học và những yếu tố khác”. Trong bảng thống kê, đất đưa vào
sản xuất sản xuất không tăng trong thời gian đó nên không đóng góp cho tăng sản lượng ở Hoa Kỳ.
- Lý thuyết này cũng đồng ý với lý thuyết tân cổ điển về quan hệ giữa các yếu
tố là các nhà sản xuất, kinh doanh có thể lựa chọn kỹ thuật và tỷ lệ kết hợp giữa các
yếu tố; vai trò của đầu tư với tăng trưởng. Samuelson nhấn mạnh: kỹ thuật công
nghiệp tiên tiến, hiện đại dựa vào sử dụng vốn lớn vốn là cơ sở để sử dụng các yếu

tố khác.
- Các lực lượng hướng dẫn tổng cầu bao gồm các nhân tố mức giá, thu nhập,
dự kiến về tương lai cùng với các biến số về chính sách như thuế khóa, chi tiêu của
chính phủ, lượng cung tiền,…
3. Vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết tăng trưởng hiện đại cho rằng thị trường là nhân tố, là lực lượng cơ
bản điều tiết các hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng mức cung
và tổng mức cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm - tỷ lệ tất nghiệp, mức
giá – tỷ lệ lạm phát, đây là những “cơ sở” để giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức
kinh tế.
Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế hiện đại là Chính phủ trở
thành tác nhân có vị trí trung tâm để định hướng, phối hợp các hoạt động của toàn xã
hội; ổn định và cân bằng tổng chể; kích thích, tạo nhân tố mới cho sự phát triển. Vai
trò Chính phủ tăng lên không chỉ vì những thất bại của thị trường mà còn do xã hội
23
đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, đặc biệt là góp phần định hướng và điều chỉnh cấu
trúc kinh tế mà thị trường dù có hoạt động tốt cũng không thể giải quyết có hiệu quả.
Theo Samuelson, trong nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp, Chính phủ
có bốn chức năng cơ bản:
- Thiết lập khuôn khổ pháp luật;
- Xác lập chính sách ổn định kinh tế vĩ mô;
- Tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế;
- Thiết lập các chương trình tác động tới phân phối thu nhập.
Vì vậy Chính phủ cần:
- Tạo môi trường ổn định để các tác nhân kinh tế kinh doanh thuận lợi.
- Đưa ra những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế với những hướng ưu
tiên cần thiết cho từng phân kỳ.
- Sử dụng các công cụ quản lý, các chương trình để hướng dẫn các ngành, các
doanh nghiệp hoạt động.
- Tìm cách duy trì công việc làm ở mức cao thông qua chính sách thuế, tiền tệ

và chi tiêu hợp lý.
- Khuyến khích đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, chống ô nhiễm và
bảo vệ môi trường.
- Điều tiết, phân phối lại thu nhập.
- Thực hiện các chương trình phúc lợi công cộng và phúc lợi xã hội.
B. CÁC LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN
Trong ba tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được coi là tiêu thức
phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu cơ bản để đánh giá các giai đoạn phát triển
kinh tế. Cơ cấu kinh tế được thể hiện (và nghiên cứu quản lý) dưới nhiều hình thức
khác nhau, trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Vì nó phản ánh phân công lao
động (của mỗi quốc gia và cả quốc tế) và sự phát triển của lực lượng sản xuất, thể
hiện rõ nhất ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. ( cái gì?, như thế nào?, cho ai? )
24
Chỗ khác nhau căn bản giữa các lý thuyết, mô hình tăng trưởng với các lý
thuyết, mô hình phát triển là các lý thuyết, mô hình phát triển đề cập đến nội dung
và phương thức chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế: Là tương quan giữa ngành trong tổng thể kinh tế,
phản ánh quan hệ và tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành với
nhau. Các ngành này được hình thành, vận động trong những điều kiện nhất định về
kinh tế, xã hội và thể chế, hướng vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu ngành được
thể hiện ở các nội dung sau:
- Thứ nhất, đó là số lượng các ngành chủ yếu của nền kinh tế.
Về nguyên tắc, để nghiên cứu và quản lý chính xác trong phạm vi cần thiết,
cho phép ngành phải là ngành “sạch”. Nhưng thực tế, số lượng ngành rất nhiều và
không cố định. Nếu theo tiêu chuẩn sạch thì số lượng lại rất lớn. Vì vậy phải dựa vào
phương pháp phân chia và hợp nhất ngành để có số lượng ngành cần thiết, đủ lớn.
- Thứ hai, đó là mối quan hệ tương tác giữa các ngành về số lượng và chất
lượng. Mặt số lượng thể hiện ở tỷ trọng của sản lượng, vốn, nhân lực,… mà mổi
ngành tạo ra hoặc sử dụng trong tổng thể kinh tế. Mặt chất lượng phản ánh vị trí, tầm

quan trọng và tính chất tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Sự tác động qua lại
giữa các ngành có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực tiếp bao gồm tác động
cùng chiều và ngược chiều, còn tác động gián tiếp được thể hiện theo các cấp 1,2,3.,
…Nói chung mối quan hệ giữa các ngành luôn biến đổi theo đà phát triển của lực
lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, và sự thay đổi cơ cấu tiêu dùng cuối
cùng.
- Thứ ba, là các xu hướng có tính quy luật hoặc xu hướng ưu tiên (về phát
triển các ngành, sử dụng các nguồn lực,… ) trong chuyển dịch cơ cấu ngành.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành
Cơ cấu ngành kinh là phạm trù động, thay đổi theo từng thời kỳ phát triển, do
sự thay đổi của các nhân tố quy định nó. Ngày nay, khoảng thời gian trung bình cần
thiết để cơ cấu ngành kinh tế định hình, chuyển dịch, đạt mục tiêu, bắt đầu chuyển
dịch theo cơ cấu mới có xu hướng rút ngắn lại. ( xem hình 4)
25

×