Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiếp xúc văn hóa Việt Nam - Ấn Độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.53 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đông Nam Á là một khu vực lịch sử văn hoá, có nền tảng chung từ thời tiền
sử, được sản sinh và phát triển trong một môi trường sinh thái tự nhiên xã hội của
khu vực. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước được phân bố từ bờ Nam sông
Dương Tử đến Đông Bắc Ấn Độ sang cả châu Đại Dương. Trên cơ sở tầng văn hoá
chung đó qua tiếp biến với những nền văn hoá khác, đặc biệt là tiếp xúc với văn hoá
Ấn Độ và Trung Quốc đã tạo thành những nền văn hoá quốc gia khác nhau. Tất cả
đã tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng của văn hoá khu vực. Việt Nam – một
quốc gia ở Đông Nam Á cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Ấn Độ là một quốc gia có nền văn minh cổ xưa phương Đông. Ấn Độ được
biết đến như là xứ sở của tăng lữ và vũ nữ. Đất nước Ấn Độ trải qua mấy nghìn
năm tôi luyện và hoà hợp, kết tụ và phát triển, đã trở thành một dân tộc vĩ đại tràn
đầy sức sống trong cộng đồng các dân tộc thế giới. Văn hoá Ấn Độ là nền văn minh
độc lập sừng sững tại phía Đông thế giới với một dáng vẻ riêng biệt của mình.
Đương nhiên trong quá trình phát triển lịch sử, Đông Nam Á nói chung và Việt
Nam nói riêng chịu ảnh hưởng của các nền văn minh bên ngoài, song sự tác động ấy
không vì thế mà biến khu vực này thành khu vực “Hán hoá” hay “Ấn Độ hoá”… mà
nó đã lựa chọn những gì thích hợp, đồng thời phục tùng các đặc điểm của mình chứ
không phải tiếp thu tất cả những gì xa lạ. Việt Nam đã tiếp thu ở văn hóa Ấn Độ
những nét đặc sắc nhất, đồng thời hòa quyện vào những gì đang tồn tại trong chính
nền văn hóa bản địa của mình. Từ đó đã tạo nên một nền văn hóa đa dạng và phong
phú.
Để góp phần tìm hiểu thêm sự tiếp xúc của văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn
Độ, nhóm chúng tôi chọn đề tài “Tiếp xúc văn hóa Việt Nam - Ấn Độ” để làm đề tài
nghiên cứa của mình.
1
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về văn hóa Việt Nam là đề tài đã nhận được khá nhiều sự quan
tâm của các học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Mỗi tác giả đã đi vào
nghiên cứu khía cạnh này hay khía cạnh khác với nhiều nghiên cứu có giá trị khoa


học và thực tiễn cao. Vấn đề tiếp xúc văn hóa mà đặc biệt là tiếp xúc văn hóa giữa
Việt Nam - Ấn Độ cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam - văn hóa Ấn Độ được đề cập đến ở một số công
trình nghiên cứu như “ Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á” của tác giả
Phạm Đức Dương, nhiều tạp chí chuyên nghành về dân tộc và văn hóa… Tuy
nhiên, việc nghiên cứu sâu về vấn đề này vẫn còn khá khiêm tốn.
3. Đóng góp của đề tài
Đây là đề tài nghiên cứu khá toàn diện về sự tiếp xúc văn hóa giữa Việt Nam
- Ấn Độ ở nhiều khía cạnh khác nhau. Với đề tài này, chúng tôi mong muốn góp
phần vào việc phục dựng lại sự tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Việt Nam - Ấn Độ.
Qua đó góp thêm một nguồn tư liệu nhằm giúp cho việc nghiên cứu văn hóa dân tộc
cũng như sự những ai quan tâm đến vấn đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài nghiên cứu về sự tiếp xúc văn hóa giữa Việt Nam với Ấn Độ
nên đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nền văn hóa của 2 nước và cụ thể hơn đó
chính là sự tiếp xúc văn hóa giữa hai quốc gia Việt Nam và Ấn Độ. Phạm vi nghiên
cứu của đề tài đó là sự tiếp xúc văn hóa của 3 tiểu vong quốc Đại Việt, Champa,
Phù Nam với nền văn hóa Ấn Độ trong suốt chiều dài lịch sử.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương đường lối của nhà nước về văn hóa.
Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích, thống kê, thu thập tài
liệu, tổng hợp và nhiều phương pháp nghiên cứu liên nghành khác.
2
6. Bố cục đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo được chia thành hai
chương cơ bản:
Chương I: KHÁI QUÁT VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HAI
QUỐC GIA ẤN ĐỘ, VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
Chương II: TIẾP XÚC VĂN HÓA VIỆT NAM – ẤN ĐỘ

Đây là đề tài nghiên cứu về một vấn đề lớn của văn hoá Việt Nam, trải dài
lịch sử Việt Nam xuyên suốt quá trình lịch sử của dân tộc; chính vì thế chắc chắn sẽ
không thể tránh những thiếu sót. Nhóm chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp trên tinh thần xây dựng của cô và toàn thể các bạn.
3
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HAI QUỐC
GIA ẤN ĐỘ, VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
1.1. Vị trí địa lý và sự hình thành quốc gia Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia Nam Á, chiếm hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ. Ấn Độ có
ranh giới với Pakistan, Trung Quốc, Myanma, Bangladesh, Nepal, Bhutan và
Afghanistan. Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì trên thế giới, với dân số trên một tỉ
người, và đồng thời lớn thứ bảy về diện tích.
Cộng hoà Ấn Độ xuất hiện trên bản đồ thế giới vào ngày 15 tháng 8 năm
1947. Sự thiết lập nhà nước Ấn Độ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh của những người
tại Nam Á để thoát khỏi ách thống trị của Đế quốc Anh. Ấn Độ có nền văn minh
sông Ấn (Indus) phát triển rực rỡ cách đây 5 nghìn năm. Ấn Độ là nơi sinh trưởng
của bốn tôn giáo quan trọng trên thế giới: Ấn Độ giáo (Hindu), Phật giáo, đạo Jaini
và đạo Sikh. Trước ngày độc lập, Ấn Độ là một bộ phận trong tiểu lục địa Ấn Độ
thuộc Anh. Việc thành lập quốc gia này có công rất lớn của Mohandas Gandhi,
người được ca tụng là "người cha của Ấn Độ". Ông đã thuyết phục chính phủ Anh
trao trả độc lập cho Ấn Độ bằng con đường hòa bình và được chấp nhận. Nhưng
Anh đã quyết định tách Ấn Độ thành hai quốc gia: một có đa số dân theo đạo Hindu
là Ấn Độ; một có đa số dân theo Hồi giáo là Pakistan, nước này lại gồm hai phần:
phần phía đông Ấn Độ gọi là Đông Pakistan (sau này là Bangladesh), phần phía tây
gọi là Tây Pakistan (Cộng hòa Hồi giáo Pakistan ngày nay). Hai phần lãnh thổ này
cách nhau trên 2000 km băng qua lãnh thổ Ấn Độ.
Lãnh thổ Ấn Độ chiếm một phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ, nằm trên Mảng
kiến tạo Ấn Độ (India Plate), phần phía bắc Mảng kiến tạo Ấn - Úc, phía nam Nam
Á. Các bang phía bắc và đông bắc Ấn Độ nằm một phần trên dãy Himalaya. Phần

còn lại ở phía bắc, trung và đông Ấn gồm đồng bằng Ấn-Hằng phì nhiêu. Ở phía
tây, biên giới phía đông nam Pakistan, là Sa mạc Thar. Miền nam Bán đảo Ấn Độ
4
gồm toàn bộ đồng bằng Deccan, được bao bọc bởi hai dãy núi ven biển, Tây Ghats
và Đông Ghats.
1.2. Vị trí địa lý và sự tồn tại các tiểu vong quốc trên lãnh thổ Việt Nam
1.2.1. Đại Việt
Một số sử liệu cho rằng vào đầu thời kỳ Hồng Bàng, bộ tộc Việt có lãnh thổ
rộng lớn từ phía nam sông Dương Tử (Trung Quốc) đến vùng Thanh Hóa.
Nhà nước Văn Lang của bộ tộc Lạc Việt hình thành trên vùng đồng bằng
sông Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng Sông Lam
Thục Phán sau khi chiếm được Văn Lang đã sát nhập vào đất của mình,
nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía nam sông Tả Giang (Quảng Tây-Trung Quốc) kéo
xuống dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh)
Đến thời bắc thuộc, lãnh thổ của dân tộc Việt trong sự cai quản của chính
quyền trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện
nay, thỉnh thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao Châu) tiến xuống phía nam
đánh Champa và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân vào cai trị
nhưng không giữ được lâu vì sau đó Champa thường lấy lại được. Ranh giới lãnh
thổ về phía nam đôi khi được nhắc trong sử liệu là một cột mốc bằng đồng dựng lên
bởi Mã Viện sau khi chinh phạt sự nổi dậy của Hai Bà Trưng, còn gọi là cột đồng
Mã Viện.
Đến thời phong kiến tự chủ, sau khi Khúc Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ
năm 905, Đại Việt bắt đầu thời kỳ độc lập tự chủ. Đại Việt chính thức vào kỷ
nguyên độc lập từ khi Ngô Quyền đánh bại nhà Nam Hán vào năm 938. Năm 968,
Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu trở lại sau hơn 400 năm, là Đại Cồ Việt, sau đó Lý
Thánh Tông đổi tên nước lại là Đại Việt năm 1054.
Lãnh thổ Đại Việt thời kỳ đầu độc lập bao gồm khu vực Bắc Bộ và 3 tỉnh
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, tương đương với lãnh thổ cũ nước Văn Lang của
các vua Hùng

5
Trong quá trình tồn tại của mình, các triều đại phong kiến của Việt Nam liên tục
mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Năm 1069, Lý Thánh Tông nam chinh đánh
Champa và bắt được vua Champa là Chế Củ (Jaya Rudravarman) về Thăng Long.
Để được tha vua Champa đã cắt vùng đất phía bắc Champa gồm ba châu Bố Chính,
Ma Linh, Địa Lý cho Đại Việt, phần đất mà ngày nay là tỉnh Quảng Bình và bắc
Quảng Trị. Năm 1306 vua Chế Mân (Jaya Simhavarman) của Champa cắt đất hai
châu Ô và Rí cho vua Trần Anh Tông để làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân
của Đại Việt, vùng đất mà ngày nay là nam Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế. Biên
giới phía nam của Đại Việt lúc này tiến đến đèo Hải Vân. Năm 1471 vua Lê Thánh
Tông đưa 20 vạn quân tiến đánh vào kinh đô Vijaya (Bình Định) của Champa, kinh
đô Vijaya bị thất thủ. Lê Thánh Tông đã sát nhập vùng đất bắc Champa vào Đại
Việt (ngày nay là 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Phần đất còn lại của
Champa vua Lê Thánh Tông đã chia làm 3 vương quốc và giao cho tướng, hoàng
thân còn lại của Champa trấn giữ và có nghĩa vụ triều cống Đại Việt. Đến năm 1471
lãnh thổ phía nam của Đại Việt tiến đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa Bình Định và
Phú Yên ngày nay). Thời kỳ Trịnh, Nguyễn phân tranh do áp lực tấn công của các
chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và nhu cầu đất đai, các chúa Nguyễn đã tiến hành những
đợt nam tiến, mở rộng lãnh thổ Đại Việt chưa từng thấy. Năm 1611, chúa Nguyễn
Hoàng tiến chiếm vùng đất của Champa mà ngày nay là Phú Yên. Năm 1653, chúa
Nguyễn Phúc Tần tiến chiếm vùng Khánh Hòa của Champa. Năm 1693, tướng
Nguyễn Hữu Cảnh tiến chiếm và chính thức sát nhập phần còn lại của vương quốc
Champa là Bình Thuận, Ninh Thuận, tuy nhiên chính quyền Đàng Trong vẫn dành
cho người Chăm chế độ tự trị ở đây cho đến năm 1832. Năm 1698, Nguyễn Hữu
Cảnh vào Sài Gòn lập dinh, chia trấn, bổ nhiệm quan lại chính thức đưa khu vực các
tỉnh miền Đông Nam Bộ của Chân Lạp vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1708, Mạc
Cửu (thương nhân người Hoa) người khai phá vùng đất Hà Tiên, Kiên Giang (của
Chân Lạp) xin nội thuộc chúa Nguyễn, chúa Nguyễn phong chức Tổng binh cai
quản. Từ năm 1736-1739, Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) khai phá thêm vùng đất Cà
Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ (của Chân Lạp) đưa vào lãnh thổ Đàng Trong. Năm 1732,

6
chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm và sát nhập vùng đất ngày nay là Vĩnh Long,
Bến Tre. Năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) sau khi bị chúa
Nguyễn Phúc Khoát đánh bại đã dâng vùng đất Tân An, Gò Công để cầu hòa. Năm
1757, vua Nặc Nguyên chết, chú là Nặc Nhuận dâng vùng đất Trà Vinh và Sóc
Trăng để được chúa Nguyễn Phúc Khoát phong làm vua Chân Lạp. Sau khi Nặc
Nhuận chết, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã hỗ trợ Nặc Tôn (Outey II) lên ngôi và bảo
vệ trước sự tấn công của Xiêm La, vua Nặc Tôn đã dâng vùng đất ngày nay là Châu
Đốc, Sa Đéc cho chúa Nguyễn. Đến đây, có thể thấy lãnh thổ của quốc gia Đại Việt
có một sự hình chỉnh như ngày nay.
1.2.2. Chămpa
Vương quốc Chămpa, bao gồm các quốc gia Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm
Thành (Campanagara) và Thuận Thành (Nagar Cam), độc lập được từ 192 và kết
thúc vào 1832. Trước thế kỷ thứ 2, vùng đất của vương quốc Chăm Pa cổ đã được
nhắc đến với tên Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên huyện Tượng
Lâm (thuộc quận Nhật Nam thời nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị của Trung
Quốc. Lãnh thổ này được ghi nhận là từ miền Trung trở vào miền Nam Việt Nam,
thay đổi tùy thời kỳ. Từ 1694 đến 1832, chúa Chăm Pa (Trấn vương Thuận Thành)
nằm dưới sự đô hộ của các chúa Nguyễn, vua nhà Tây Sơn và vua nhà Nguyễn cho
đến lúc bị sáp nhập hoàn toàn
Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền
Đông Nam Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2
trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát
hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động
Niah ở Sarawak, Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú
đồ sắt trong khi nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các
nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ
Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian).
7
Chăm Pa đạt đến đỉnh cao của văn minh Chăm ở Indrapura nằm tại khu vực

Đồng Dương và Mỹ Sơn ngày nay. Tuy nhiên, nhà nước này cũng không tránh khỏi
thảm hoạ diệt vong. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau
chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên
có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và Khmer ở phía Tây
và Nam.
1.2.1. Phù Nam
Phù Nam là tên một quốc gia cổ trong lịch sử Việt Nam, xuất hiện khoảng
đầu Công Nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Theo nhiều thư
tịch cổ Trung Quốc, thì trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này về phía Đông, đã
kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến thung lũng
sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Malaixia. Quốc
gia này tồn tại cho đến khoảng nửa thế kỷ 7 (sau năm 627) thì bị sáp nhập vào lãnh
thổ của Chân Lạp. Mãi đến thế kỷ 17 - thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là
trung tâm của Phù Nam, tách khỏi Chân Lạp để trở thành một bộ phận của lãnh thổ
Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay.
Thủ đô của Phù Nam, theo sách Tân Đường thư là thành Đặc Mục, tiếng
Phạn là Vyadhapura (có nghĩa là thành phố của những người đi săn), gần ngọn núi
Ba Phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prey Veng (Campuchia) ngày nay.
Về nguồn gốc của Phù Nam, theo Khang Thái, sứ giả của Ngô Tôn Quyền
thời Tam Quốc chép trong sách Phù Nam thổ tục thì ông vua đầu tiên của nước Phù
Nam, có lẽ là một quí tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Bà-la-môn tên
Kaunđinya (sách Trung Quốc gọi là Hỗn Điền)
Truyền thuyết kể ông ta từ miền Đông Ấn Độ mang theo một chiếc nỏ thần
và một đạo quân hơn ngàn người vượt biển sang đánh chiếm xứ Koh Thlok. Công
chúa xứ này là Sôma (con gái của thần mặt trăng - sách Trung Quốc gọi là Liễu
Diệp), con vua Naga, đã chống cự lại kẻ xâm lược. Nhưng sau khi bị nỏ thần bắn
thủng nhiều chiến thuyền, nàng công chúa đành phải đầu hàng và thuận để cho
8
Kaunđinya lên ngôi vua, lấy mình làm vợ; rồi sinh ra dòng dõi vua chúa thống trị xứ
Koh Thlok, sau này lấy tên là Phù Nam.

Mặc dầu là truyền thuyết, nhưng ít nhiều nó cũng phản ảnh một thực tế lịch
sử: Người Khơme vẫn coi Kaunđinya là người sáng lập ra đất nước và đã đem đến
cho họ một nền văn hóa mới. Nhờ vị vua này, phụ nữ biết cách ăn mặc che thân,
biết ngôn ngữ, văn tự Sanskrit (tiếng Phạn), tôn giáo Ba-la-môn, luật pháp Ấn Độ
cùng chế độ chính trị xã hội thịnh hành ở Ấn Độ thời bấy giờ...
[4]
Căn cứ theo các sử liệu Trung Hoa, thì từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 6, Phù Nam đã
phát triển thành một đế chế lớn mạnh. Đấy là vào thời Phạm Sử Nan (tức Fan-che-
nan, hay Phan Chế Mân; trị vì khoảng năm 205 đến 225). Đây là một bộ tướng,
nhân cơ hội vua (thuộc dòng dõi Hổn Điền) mất, được dân tôn lên thay, đã liên tục
thôn tín hơn 10 nước, mở rộng lãnh thổ đến 5, 6 nghìn dặm, bao gồm các nước như:
Đô Côn, Cửu Trì, Đốn Tốn, Xích Thổ, Bàn Bàn, Đan Đan, Cát Miệt (sau này là
Chân Lạp)...Những tiểu quốc này đều nằm trên bán đảo Mã Lai và một phần vùng
hạ lưu sông Mê Nam.
Vương quốc Phù Nam phát triển hưng thịnh một thời gian nhất định rồi cũng
không tránh khỏi sự suy tàn
Khái quát lại giai đoạn suy tàn này, sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt
Nam (tr. 20) viết:
Sau một thời rực rở, đế quốc Phù Nam bắt đầu suy thoái vào cuối thế kỷ thứ
6. Nước Cát Miệt, một thuộc quốc của Phù Nam, đến thế kỷ này đã nhanh
chóng phát triển thành một vương quốc độc lập và hùng mạnh. Nhân sự suy
yếu của Phù Nam, Chân Lạp đã tấn công và chiếm lấy một phần lãnh thổ
(tương đương với vùng đất Nam Bộ Việt nam ngày nay) của đế chế này vào
đầu thế kỷ 7...
Sách Tùy thư chép tương tự:
Nước Chân Lạp ở về phía Tây Nam nước Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu
của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đánh chiếm và tiêu diệt
Phù Nam.
9
Sách Tân Đường thư do Âu Dương Tu và Tống Ký biên soạn cũng đã cho biết đầu

niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-649); trong nước Phù Nam có thay đổi lớn.
Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục, thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải
chạy trốn về Na Phất Na. Căn cứ năm 627, sứ giả Phù Nam còn đến tiến cống nhà
Đường, nên có thể suy ra nước Phù nam bị tiêu diệt phải sau năm này.
CHƯƠNG II
TIẾP XÚC VĂN HÓA VIỆT NAM – ẤN ĐỘ
10

×