Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
GIỚI THIỆU CHUNG
I. Giới thiệu chung
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình hội nhập mạnh mẽ kinh tế quốc tế là một trong những đặc trưng cơ
bản của nền kinh tế thế giới hiện nay. Đối với nhiều nước đang phát triển trong đó
có Việt Nam, hoạt động ngoại thương trở thành nguồn tích lũy vốn quan trọng trong
giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó, hoạt động
xuất khẩu đóng vai trị chủ chốt. Xuất khẩu góp phần cải thiện cán cân thương mại,
đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu
phục vụ cho quá trình sản xuất trong nước. Hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thị trường quốc tế rộng lớn với những tiêu chuẩn
sẵn có, luôn là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát huy được hiệu quả của sản
xuất quy mô lớn. Để tăng nhanh tốc độ xuất khẩu, đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới, Đảng ta đã chủ trương “tiếp tục mở cửa nền kinh tế, thực
hiện đa dạng hóa thị trường, đa phương hóa mối quan hệ với các nước trên thế
giới…”. Do đó, nghiên cứu về xuất khẩu là vấn đề quan trọng cần thiết cho các
doanh nghiệp sản xuất và thương mại Việt Nam.
Thị trường là một trong những yếu tố đóng vai trị quyết định trong việc thúc
đẩy sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu. Các thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt
Nam hiện nay là Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản, Australia…Mỗi thị trường có những
tiềm năng và khó khăn riêng. Để đẩy mạnh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần nắm rõ
đặc điểm của từng thị trường, từ đó có chiến lược cho các sản phẩm của mình,
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường quốc tế.
Công ty TNHH bao bì và thương mại Anh Đức là một trong những doanh
nghiệp xuất khẩu sản phẩm bao bì có uy tín. Công ty xác định Cộng hòa liên bang
Đức là thị trường mục tiêu và có nhiều tiềm năng cho việc mở rộng thị trường xuất
khẩu . Trong những năm qua, công ty đã đạt được nhiều thành tựu trong việc xuất
khẩu sản phẩm của mình sang thị trường Đức nói riêng và thị trường thế giới nói
chung. Tuy nhiên bên cạnh đó công ty vẫn còn một số hạn chế về nâng cao chất
lượng sản phẩm, đa dạng hóa loại hình sản phẩm xuất khẩu, phát triển thương hiệu
của công ty… Việc nghiên cứu, đánh giá hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công
ty có tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Từ đó em quyết
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
định lựa chọn đề tài “Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm bao bì sang
thị trường Đức của công ty TNHH bao bì và thương mại Anh Đức”
Em xin chõn thành cảm ơn Th.S Đặng Thị Lệ Xuân đã tận tình hướng dẫn
giúp em hoàn thành chuyân đề tốt nghiệp này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
• Mục tiêu tổng quát
Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sản phẩm bao bì của
công ty TNHH bao bì và thương mại Anh Đức vào thị trường Đức.
• Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về xuất khẩu.
- Phân tích thực trạng xuất khẩu sản phẩm bao bì của công ty TNHH bao bì và
thương mại Anh Đức vào thị trường Cộng hòa liên bang Đức thời kì 2006-2008.
- Căn cứ vào cơ sở lý luận và kết quả phân tích, đề xuất các giải pháp nhằm thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu sản phẩm bao bì của công ty TNHH bao bì và thương mại
Anh Đức vào thị trường Đức.
3. Câu hỏi nghiên cứu:
Đề tài nhằm trả lời những câu hỏi nghiên cứu sau:
• Tổng quát : “ Công ty TNHH bao bì & thương mại Anh Đức cần có những
giải phát nào nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu bao bì sang thị trường
Đức?”
• Cụ thể :
+ Xuất khẩu là gì? Nội dung của hoạt động xuất khẩu sản phẩm bao bì? Khái quát
về thị trường Đức?
+ Thực trạng xuất khẩu sản phẩm bao bì sang thị trường Đức trong thời gian qua
như thế nào?
+ Những giải pháp nào cần thiết nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm bao bì của
công ty TNHH bao bì & thương mại Anh Đức sang thị trường Đức
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu :
- Đối tượng nghiên cứu :
Nghiên cứu thực trạng xuất khẩu sản phẩm bao bì của công ty TNHH bao bì và
thương mại Anh Đức vào thị trường Đức.
- Phạm vi nghiên cứu :
• Về mặt nội dung:
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
Đề tài nghiên cứu tình hình xuất khẩu sản phẩm bao bì sang thị trường Đức
của công ty bao bì & thương mại Anh Đức.
• Về mặt không gian:
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi hoạt động của công ty TNHH bao bì &
thương mại Anh Đức.
• Về mặt thời gian:
Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2008.
5. Phương pháp nghiên cứu :
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu thực trạng xuất khẩu sản phẩm bao bì
của công ty trong những năm gần đây, đề tài sử dụng nhiều phương pháp khác nhau
như : phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, các phương pháp thống kê…Ngoài ra , đề tài còn sử dụng hương pháp dự báo
để có cơ sở đề ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm
bao bì sang thị trường Đức của công ty TNHH bao bì và thương mại Anh Đức.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến đạt được :
Đề tài góp phần làm rõ các vấn đề về xuất khẩu, tình hình xuất khẩu sản
phẩm bao bì của Việt Nam sang thị trường Đức.
Bên cạnh đó, đề tài đi phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm bao
bì của công ty TNHH bao bì và thương mại Anh Đức, từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của công ty sang thị trường Đức.
II. Tổng quan nghiên cứu
Xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng hoá và dịch vụ từ một quốc gia nhất
định ra ngoài quốc gia đó nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Xuất khẩu phản ánh
mối quan hệ thương mại, buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi khu vực và thế
giới. Hình thức kinh doanh xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh tế quan
trọng của một quốc gia. Nó là “chiếc chìa khó” mở ra những giao dịch kinh tế cho
quốc gia gia đó đồng thời tạo ra nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho quốc gia khi tham
gia vào kinh doanh quốc tế. Thực chất xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá
dịch vụ giữa các chủ thể có quốc tịch khác nhau. Kinh doanh xuất khẩu cũng chính
là hoạt động kinh doanh quốc tế cơ bản của doanh nghiệp.
Do tính chất quan trọng của hoạt động xuất khẩu nêu trên, đã có rất nhiều
nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu. Các nghiên cứu thường tập trung vào một thị
trường, hoặc nghiên cứu chung về xuất khẩu. Phạm vi nghiên cứu ở đây có thể là
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
của một công ty, hoặc của Việt Nam. Đề tài " Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty HANARTEX " của tác giả La
Văn Thái lớp Thương mại 44B nghiên cứu hoạt động xuất khẩu trong phạm vi công
ty Hanartex. Trong đề tài này, tác giả đã đi từ lý luận chung về hoạt động xuất khẩu,
đến nghiên cứu về thực trạng của công ty rồi rút ra giải pháp. Tác giả tập trung vào
nhóm giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh vì đặc thù về
hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm thiên về mẫu mã, thẩm mĩ. Còn với tác giả Lê
Ngọc Hải ở lớp TMQT44,trong đề tài của mình "Một số giải pháp đẩy mạnh xuất
khẩu chè ở Công ty AGREXPORT - Hà Nội" tác giả cũng đi theo chu trình nghiên
cứu lý luận- thực trạng- giải pháp. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cho công ty
Agrexport, tác giả tập trung vào sản phẩm, nhấn mạnh giải pháp thu mua chè, xác
định mặt hàng chủ lực và quản lý nâng cao chất lượng. Còn trong đề tài "Một số
giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê sang thị trường EU của Tổng công ty cà phê
Việt Nam" của tác giả Lê Thị Ngọc lớp KDQT45A lại tập trung vào giải pháp thị
trường do đề tài tập trung vào một thị trường, đó là thị trường EU. Cũng cùng dạng
đề tài nghiên cứu một thị trường nhất định nhưng trong đề tài "Một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường Hàn Quốc của công ty
cổ phần May Bắc Giang", tác giả Trần Thị Tươi ở lớp Kế hoạch 46A đã đưa ra rất
nhiều giải pháp. Ngoài giải pháp về thị trường, tác giả còn đưa ra nhiều giải pháp về
sản phẩm, về máy móc thiết bị, về nguồn nhân lực, về thương hiệu, về vốn Mỗi
giả pháp đưa ra đều có căn cứ, nội dung và điều kiện thực hiện giải pháp. Cách trình
bày theo ba phần này giúp người đọc hiểu rõ hơn về các giải pháp được chọn.
Nhìn chung, hầu hết các đề tài đều làm rõ được khái niệm, nội dung, vai trò
của xuất khẩu. Từ thực trạng, rút ta được mặt mạnh mặt yếu của công ty, từ thị
trường, rút ra được các cơ hội và thách thức để có cơ sở đề ra và làm rõ các giải
pháp được cho là phù hợp. Do đó, điều quan trọng khi nghiên cứu về xuất khẩu là
phải nắm rõ về các vấn đề lý luận, thực trạng của công ty, các vấn đề về thị trường
để từ đó có thể định hướng các giải pháp hợp lí nhất.
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
NỘI DUNG
CHƯƠNG I :NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU SẢN PHẨM BAO
BÌ VÀO THỊ TRƯỜNG ĐỨC
I. Khái quát chung về xuất khẩu hàng hóa
1. Khái niệm xuất khẩu hàng hóa
Trong mỗi một giai đoạn phát triển quan hệ kinh tế thì người ta đưa ra một
khái niệm về xuất khẩu khác nhau sao cho nó có thể phản ánh một cách toàn diện sự
nhận thức ở giai đoạn đó cũng như trình độ phát triển của nó. Ngày nay, xuất khẩu
được hiểu là việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở
dựng tiền tệ làm phương tiện thanh toán, tiền tệ ở đây phải là ngoại tệ đối với một
bên hoặc cả hai bên.
Xuất khẩu hàng hóa là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế.
Đó không phải là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan
hệ mua bán có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài nhằm thúc đẩy sự phát triển của
sản xuất hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao đời
sống của nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, đã
xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong mọi
lĩnh vực, từ sản xuất hàng tiêu dùng cho đến sản xuất công nghiệp, từ máy móc thiết
bị cho tới các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa
chính là sự phản ánh mối quan hệ giữa các quốc gia và sự phân công lao động quốc
tế, chuyên môn hóa sản xuất quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của các quốc gia. Hoạt
động xuất khẩu hàng hóa cũng cho ta thấy được sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
chặt chẽ giữa các quốc gia trên thế giới.
Hàng hóa xuất khẩu ở đây được hiểu gắn với khái niệm thương mại hàng
hóa, đó là những sản phẩm hàng hóa hữu hình được sản xuất hoặc gia công tại các
cơ sở sản xuất hay tại các khu chế xuất nhằm mục đích tiêu thụ tại thị trường nước
ngoài có đi qua hải quan. Theo khái niệm này thì hàng hóa tạm nhập tái xuất cũng
được xem là hàng hóa xuất khẩu, còn các hàng hóa quá cảnh thì không được xem là
hàng hóa xuất khẩu.
Yêu cầu đối với các sản phẩm hàng hóa xuất khẩu là nó phải đáp ứng được
với nhu cầu của người tiêu dùng tại nước nhập khẩu nó. Chất lượng của hàng hóa
phải đáp ứng được với các yêu cầu về thông số kỹ thuật, môi trường do nước nhập
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
khẩu đưa ra, và một điều quan trọng nữa là nó phải đạt được tính cạnh tranh cao ở
nước nhập khẩu nó.
Thị trường xuất khẩu hàng hóa là tập hợp những người mua và người bán có
quốc tịch khác nhau hoạt động với nhau để xác định giá cả, sản lượng hàng hóa mua
bán, chất lượng hàng hóa và các điều kiện khác theo hợp đồng, thanh toán chủ yếu
bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới.
Theo khái niệm trên, thị trường xuất khẩu hàng hóa bao hàng cả thị trường
xuất khẩu hàng hóa trực tiếp hay thị trường tiêu thụ hàng hóa cuối cùng, và thị
trường xuất khẩu hàng hóa gián tiếp, còn gọi là thị trường xuất khẩu qua trung gian.
Thị trường xuất khẩu không chỉ là thị trường ở ngoài nước mà nó còn có thể là thị
trường ở ngay chính quốc gia đó, đó còn gọi là hình thức xuất khẩu tại chỗ.
2. Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu
Công tác tổ chức hoạt động xuất khẩu tương đối phức tạp vì hoạt động xuất
khẩu có thể thay đổi theo mỗi loại hình hàng hoá xuất khẩu. Nhưng nhìn chung thì
nội dung chính của hoạt động xuất khẩu bao gồm:
2.1. Tổ chức điều tra nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Không chỉ riêng với hoạt động xuất khẩu mà với bất kỳ hoạt động kinh
doanh nào trước khi bước vào nghiên cứu thực hiện các khâu nghiệp vụ người kinh
doanh phải nắm bắt được các thông tin về thị trường. Nghiên cứu thị trường xuất
khẩu là vấn đề đầu tiên cần thiết được tiến hành hết sức kỹ lưỡng trong hoạt động
xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường tạo khả năng cho các nhà kinh doanh thấy được
quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu,
nguồn vốn cung cấp và giá cả hàng hoá đó trên thị trường giúp họ giải quyết được
vấn đề của thực tiễn kinh doanh .
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin số liệu về thị trường, so
sánh, phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết luận về xu hướng vận động
của thị trường. Những kết luận này giúp cho nhà quản lý đưa ra được những nhận
định đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch marketing.
2.1.1. Nghiên cứu nhu cầu thị trường
Doanh nghiệp xuất khẩu cần nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng của
người tiêu dùng từ đó mới có thể lựa chọn mặt hàng phù hợp để xuất khẩu, phải
nghiên cứu kĩ thêm nhu cầu đó về mặt hàng gì lớn nhất? Có thường xuyên hay
không, đó có phải là nhu cầu tiềm năng không? Điều này đòi hỏi phải bán cái mà thị
trường cần chứ không phải bán cái mà ta có.
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
Trước tiên phải dựa vào nhu cầu tiêu dùng của khách hàng như quy cách,
chủng loại, kích cỡ, giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng như tập quán của người tiêu
dùng từng địa phương, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó xem xét các khía cạnh của
hàng hoá trên thị trường thế giới. Về mặt thương phẩm phải hiểu rõ giá trị hàng hoá,
công dụng, các đặc tính lý hoá, quy cách phẩm chất, mẫu mã bao gói. Để hiểu rõ
vấn đề này yêu cầu các nhà kinh doanh phải nhạy bén, có kiến thức chuyên sâu và
kinh nghiệm để dự đoán các xu hướng biến động trong nhu cầu của khách hàng.
Trong xu thế hiện nay, đòi hỏi việc nghiên cứu phải nắm bắt rõ mặt hàng
mình lựa chọn, kinh doanh đang ở trong thời kỳ nào của chu kỳ sống của sản phẩm
trên thị trường, Bởi vì chu kỳ sống của sản phẩm gắn liền với việc tiêu thụ hàng hoá
đó trên thị trường, thông thường việc sản xuất gắn liền với việc xuất khẩu những
mặt hàng đang ở giai đoạn thâm nhập, phát triển là có nhiều thuận lợi tốt nhất. Tuy
nhiên đối với những sản phẩm đang ở giai đoạn bão hồ hoặc suy thoái mà công ty
có những biện pháp xúc tiến có hiệu quả thì vẫn có thể tiến hành kinh doanh xuất
khẩu và thu được lợi nhuận.
Tóm lại việc nghiên cứu mặt hàng thị trường đang cần là một trong những
yếu tố tiên phong cho hoạt động thành công của doanh nghiệp.
2.1.2.Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm
vi thị trường nhất định trong thời gian nhất định (thường là một năm). Từ việc
nghiên cứu dung lượng thị trường, cần nắm vững khối lượng nhu cầu của khách
hàng và lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm Cùng
với việc nắm vững nhu cầu của khách hàng là phải nắm vững khả năng cung cấp
của các đối thủ cạnh tranh và các mặt hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán.
Như chúng ta đã biết dung lượng thị trường không phải là cố định, nó thường
xuyên biến động theo thời gian, không gian dưới sự tác động của nhiều yếu tố. Căn
cứ theo thời gian người ta có thể chia các nhân tố ảnh hưởng thành ba nhóm sau:
+ Nhóm các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chu kỳ gồm: sự vận
động của tình hình kinh tế các nước xuất khẩu, tính thời vụ trong sản xuất, lưu
thông và phân phối hàng hóa. Do đặc điểm của sản xuất lưu thông và tiêu dùng là
khác nhau nên ảnh hưởng của nhân tố thời vụ đến thị trường hàng hóa cũng rất đa
dạng về phạm vi và mức độ.
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
+ Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường như : tiến bộ
khoa học công nghệ, chế độ chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập quán của
người tiêu dùng.
+ Nhóm các nhân tố ảnh hưởng có tính tạm thời đến dung lượng thị trường. Bao
gồm sự đầu cơ trên thị trường làm đột biến tình hình cung, cầu trên thị trường, sự
biến động của các chính sách chính trị - xã hội, sự biến động của thiên nhiên.
2.1.3. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
Doanh nghiệp cần phải xem xét kĩ có bao nhiêu doanh nghiệp khác cung cấp
hàng hoá giống doanh nghiệp của mình vào thị trường đó, thị phần của họ là bao
nhiêu, mục tiêu và phương hướng của họ là gì? quy mô có lớn không? nguồn tài
chính như thế nào? lợi thế cạnh tranh và vị thế và uy tín của doanh nghiệp đó, từ đó
đưa ra phương án kinh doanh hợp lý, ngoài ra doanh nghiệp cần phải nghiên cứu cả
sản phẩm thay thế.
2.1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đồng thời là một nhân tố
cấu thành thị trường. Do việc mua bán giữa các khu vực khác nhau diễn ra trong
một thời gian dài, hàng vận chuyển qua nhiều nước với các chính sách thuế quan
khác nhau, giá cả thị trường lại càng trở lên phức tạp, trong đó giá cả hàng hoá được
coi là giá tổng hợp bao gồm giá vốn hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí
bảo hiểm và các chi phí khác tùy theo các bước thực hiện và sự thoả thuận giữa các
bên tham gia.
Để có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả của hàng hoá trên
thị trường thế giới, trước hết phải đánh giá một cách chính xác các nhân tố ảnh
hưởng đến giá cả và xu hướng vận động của giá cả hàng hoá đó.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới giá cả của hàng hoá trên thị trường quốc
tế. Người ta có thể phân loại các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả theo nhiều phương
diện khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích nhu cầu. Thông thường những nhà hoạt
động chiến lược thường phân chia thành nhóm các nhân tố sau:
+ Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế, đặc biệt là
sự biến động thăng trầm của nền kinh tế các nước.
+ Nhân tố lũng đoạn của các công ty xuyên quốc gia (MNC). Đây là một
trong những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành của giá cả
của các loại hàng hoá trên thị trường quốc tế. Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức
giá khác nhau trên thị trường cho một loại hàng hoá. Lũng đoạn cạnh tranh: cạnh
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
tranh bao gồm cạnh tranh giữa người bán với nhau, người mua với người mua.
Trong thực tế cạnh tranh làm cho giá rẻ đi và chất lượng nâng cao.
+ Nhân tố cung cầu: là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lượng
cung cấp hay lượng tiêu thụ của hàng hoá trên thị trường, do vậy có ảnh hưởng rất
lớn đến sự biến động của giá cả hàng hoá.
+Nhân tố thời vụ: là nhân tố tác động đến giá cả theo tính chất thời vụ của
sản xuất và lưu thông.
+ Nhân tố lạm phát: giá cả hàng hoá không những phụ thuộc vào giá trị của
nó mà còn phụ thuộc vào giá trị của tiền tệ. Vậy cùng với các nhân tố khác sự xuất
hiện của lạm phát làm cho đồng tiềm mất giá do vậy ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá
của một quốc gia trong trao đổi thương mại quốc tế
Ngoài ra các chính sách của Chính phủ, tình hình an ninh, chính trị của các
quốc gia cũng tác động đến giá cả. Rõ ràng việc nghiên cứu và tính toán một cách
chính xác giá cả của các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là một công việc khó
khăn đòi hỏi phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, nhưng đó lại là một nhân tố
quan trọng quyết định hiệu quả thực hiện các hợp đồng kinh doanh thương mại
quốc tế.
2.2. Lựa chọn thị trường và đối tác xuất khẩu
2.2.1. Lựa chọn thị trường xuất khẩu
Khi lựa chọn thị trường để làm đối tượng xuất khẩu hàng hóa chúng ta phải
tìm hiểu tình hình sản xuất tiêu thụ hàng hóa của nước đó, nhu cầu nhập khẩu thuộc
đối tượng mặt hàng nghiên cứu, tình hình dự trữ ngoại tệ để biết được khả năng
nhập khẩu, phương hướng nhập khẩu của nước này và có thể dự đoán đối thủ cạnh
tranh. Doanh nghiệp phải đưa ra chính sách thương mại đối với nước lựa chọn làm
đối tác giao dịch để lường trước mọi việc có thể xảy ra.
2.2.2. Lựa chọn đối tác xuất khẩu
Lựa chọn đối tác xuất khẩu có căn cứ khoa học là điều quan trọng để thực
hiện thắng lợi hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, những tiêu chuẩn lựa chọn
như:
- Về mặt pháp lí: có đăng kí kinh doanh, được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy phép thành lập, được quyền tham gia kí kết hợp đồng ngoại thương.
- Về mặt kinh tế kĩ thuật: nên chọn những doanh nghiệp có vốn lớn, vững
chắc về tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật. Có tín nhiệm trên thị trường, làm ăn
nghiêm túc lâu dài.
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
Doanh nghiệp có thể tìm hiểu đối tác xuất khẩu thông qua tiếp xúc trực tiếp,
qua hội chợ triển lãm, báo chí, ngân hàng, hoặc các bạn hàng đáng tin cậy để tránh
sai lầm trong lựa chọn gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
2.3.Lập kế hoạch xuất khẩu
Trên cơ sở những kết quả thu gom được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận
thị trường, đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này
là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới mục tiêu xác định trong kinh doanh.
Việc xây dựng phương án bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường, dựa trên sự đánh giá đó doanh nghiệp sẽ
phác hoạ nên bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó
khăn.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa
chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
- Đề ra mục tiêu cụ thể như: Sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán bao nhiêu,
thâm nhập vào thị trường nào.
- Đề ra những biện pháp, cách thực hiện để đạt được những mục tiêu. Đó có
thể là các biện pháp trong nước (Đầu tư vào sản xuất, cải tiến bao bì, chất lượng sản
phẩm ) và những biện pháp ngoài nước (quảng cáo, tăng cường lập chi nhánh ở
nước ngoài tăng cường quan hệ bạn hàng ).
Một kế hoạch xuất khẩu có khoa học dựa trên sự phân tích chuẩn xác và
đúng đắn về thị trường, bạn hàng cũng như nội lực của doanh nghiệp sẽ quyết định
nhiều đến thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp.
2.4. Giao dịch và ký kết hợp đồng
Để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau, hai bên mua và bán thường
phải qua một quá trình giao dịch, thương lượng về các điều kiện giao dịch. Trong
buôn bán quốc tế, những bước giao dịch chủ yếu thường diễn ra như sau:
a. Hỏi giá : Về phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh cầu bước vào giao
dịch. Nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là đây là việc người mua đề
nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Nội dung của một hỏi giá có thể gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số
lượng, thời gian giao hàng mong muốn…Giá cả mà người mua có thể trả cho mặt
hàng đó thường được người mua giữ kín, nhưng để tránh mất thời gian hỏi đi hỏi lại
người mua nêu rõ những điều kiện mà mình mong muốn để làm cơ sở cho việc quy
định giá: loại tiền, hình thức thanh toán, điều kiện giao hàng…
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm của người hỏi giá. Người hỏi giá
thường hỏi nhiều nơi nhằm nhận được nhiều bản chào hàng khác nhau để so sánh
lựa chọn bản chào hàng phù hợp nhất. Tuy nhiên nếu người mua hỏi giá quá nhiều
nơi sẽ gây ảo tưởng là nhu cầu quá căng thẳng, điều đó không có lợi cho người
mua.
b. Phát giá hay chào hàng
Luật pháp coi đây là lời đề nghị ký kết hợp đồng và như vậy phát giá có thể
do người bán hoặc người mua đưa ra nhưng trong buôn bán thì phát giá lại là chào
hàng, là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định muốn bán hàng của mình. Trong
chào hàng người ta nêu rõ tên hàng, số lượng, quy cách, phẩm chất, giá cả… Trong
trường hợp hai bên đã có quan hệ mua bán với nhau hoặc có điều kiện chung giao
hàng điều chỉnh thì chào hàng nêu nội dung cần thiết cho giao dịch, những điều
kiện còn lại sẽ áp dụng như hợp đồng đã kí trước đó .
c. Đặt hàng
Là lời đề nghị kí hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới
hình thừc đặt hàng. Trong đặt hàng người mua yêu cầu về hàng hoá định mua và tất
cả những nội dung cần thiết cho việc kí hợp đồng. Trong thực tế người ta chỉ đặt
hàng có quan hệ thường xuyên. Vì vậy người ta thường nêu trong đặt hàng ngắn
gọn hơn. Còn những điều khoản khác áp dụng như hợp đồng trước.
d. Hoàn giá
Hoàn giá là việc mặc cả về giá cả hoặc các điều kiện giao dịch. Khi người
mua nhận được chào hàng, không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa ra một
số đề nghị mới thì đề nghị mới này là trả giá. Khi có sự trả giá, chào hàng trước coi
như bị huỷ bỏ. Trong buôn bán quốc tế, mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần
trả giá mới kết thúc. Như vậy hoàn giá bao gồm nhiều trả giá.
e . Chấp nhận
Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng mà
phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được giao kết : một hợp đồng muốn có hiệu
lực về mặt pháp luật thường phải đáp ứng các điều kiện sau đây :
- Phải được chính người nhận giá chấp nhận .
- Phải đồng ý hoàn toàn vô điều kiện mọi nội dung của chào hàng (đặt hàng)
- Phải chấp nhận trong thời gian có hiệu lực của chào hàng.
f . Xác nhận
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
Hai bên mua và bán sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về các điều
kiện giao dịch có khi cần thận trọng ghi lại mọi điều đó thoả thuận gửi cho đối
phương . Đó là văn kiện xác nhận văn kiện đó cho bên gửi bán gọi là các xác nhận
bán hàng , do bên mua gửi gọi là xác nhận mua hàng .
2.5. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu
Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ các hoạt động từ đầu tư sản xuất
kinh doanh cho đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, kí kết hợp đồng, thực hiện
hợp đồng vận chuyển bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ
tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu.
Trong hoạt động thương mại công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu có sự khác
nhau giữa doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiêp thương mại.Thu mua tạo nguồn
hàng cho xuất khẩu là một hệ thống nghiệp vụ trong kinh doanh mua bán trao đổi
hàng hoá. Đây là một hệ thống nghiệp vụ mà các tổ chức ngoại thương , trung gian
kinh doanh hàng hoá xuất khẩu thực hiện. Công tác tạo nguồn ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng hàng xuất khẩu, đến việc thực hiện hợp đồng , uy tín và hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp.
Nội dung công tác tạo nguồn :
- Nghiên cứu thị trường và lập kế hoạch thu mua của doanh nghiệp .
- Tổ chức mua sắm vật tư .
- Tổ chức vận chuyển vật tư về doanh nghiệp .
- Tiếp nhận và bảo quản vật tư về số lượng và chất lượng .
- Tổ chức cấp phát vật tư trong nội bộ doanh nghiệp.
Công tác tạo nguồn hàng cho xuất khẩu rất quan trọng đạc biệt đối với doanh
nghiệp sản xuất vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm, thực hiện hợp
đồng xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp để thiết lập quan hệ làm ăn lâu dài .
2.6. Thực hiện hợp đồng, khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu phải tiến hành các công việc dưới đây :
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
2.6.1.Xin giấy phép xuất khẩu
Giấy phép xuất khẩu là một giải pháp quan trọng của nhà nước quản lí xuất
khẩu. Vì thế sau khi kí hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp phải xin giấy phép xuất
khẩu để thực hiện hợp đồng đó . Ngày nay nhiều nước đã bỏ bớt số mặt hàng cần
phải xin giấy phép xuất khẩu.
Mỗi giấy phép xuất khẩu chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh đồ xuất khẩu
một hoặc một số mặt hàng sang một nước nhất định chuyên chở bằng một phương
thức vận tải và giao tại một cửa khẩu nhất định .
2.6.2.Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu thường qua các bước là : thu gom bao bì
hàng xuất khẩu, đóng gói bao bì hàng xuất khẩu, và chú thích về hàng xuất khẩu.
2.6.3. Kiểm tra chất lượng
Trước khi giao hàng xuất khẩu người xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra
hàng về phẩm chât về số lượng trọng lượng bao bì. Việc kiểm nghiệm và kiểm dịch
được tiến hành ở cơ sở và cửa khẩu. Kiểm nghiệm ở cơ sở do tổ chức kiểm tra chất
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
13
Xin giấy
phép
xuất khẩu
Chuẩn bị
hàng hoá
xuất khẩu
Kiểm tra chất
lượng
Thuê tàu
Mua bảo hiển Làm thủ tục
hải quan
Giao nhận
hàng xuất
khẩu
Làm thủ tục
thanh toán
Khiếu nại và giải quyết khiếu
nại ( Nếu có)
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
lượng sản phẩm tiến hành, kiểm dịch thực vật do phòng bảo vệ thực vật tiến hành
Trong trường hợp có tổn thất phải mời cơ quan giám định giấy tờ lập biên bản nếu
bị thiếu hoặc mất mát phải có biên bản kết toán nhận hàng với tàu , nếu có đổ vỡ
phải có biên bản đổ vỡ hư hỏng .
2.6.4. Thuê tàu
Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê tàu chở
hàng được tiến hành dựa vào các căn cứ : điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại
thương, đặc điểm hàng mua bán, điều kiện vận tải.
2.6.5.Mua bảo hiểm
Việc mua bảo hiểm là rất cần thiết hợp đồng ngoại thương nhằm giảm thiểu
các rủi ro về hàng hoá. Nghĩa vụ mua bảo hiểm do bên bán hoặc bên mua tuỳ theo
thoả thuận trong hợp đồng khi kí kết các hợp đồng bảo hiểm cần phải nắm rõ các
điều kiện bảo hiểm.
2.6.6.Làm thủ tục hải quan
Khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu thì các doanh nghiệp đều phải làm thủ tục hải quan
(gồm 3 bước )
- Khai báo hải quan.
- Xuất trình hàng hoá .
- Thực hiện các quyết định của hải quan.
2.6.7.Giao nhận hàng xuất khẩu
Trong buôn bán nguoaị thương hàng hoá thường được giao bằng đường biển
và đường sắt. Khi giao bằng đường biển chủ hàng phải làm các công việc sau:
- Căn cứ chi tiết hàng xuất khẩu lập bảng đăng kí chuyên chở cho người vận
tải để đổi lấy sơ đồ xếp hàng .
- Trao đổi với các cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng .
- Bố trí phương tiện đem hàng vào cảng , xếp hàng lên tàu .
Nếu hàng chuyên chở bằng đường sắt, thì chủ hàng phải kịp thời đăng kí với
cơ quan đường sắt để xin cấp toa xe phù hợp với tính chất hàng hoá và khối lượng
hàng hoá. Khi đã được cấp toa xe, chủ hàng tổ chức bốc xếp hàng, niêm phong kẹp
trì và làm các chứng từ vận tải.
2.6.8.Làm thủ tục thanh toán
Đây là khâu quan trọng, là kết quả của cả quá trình giao dịch. Do đặc điểm
buôn bán với nước ngoài nên thủ tục thanh toán phức tạp hơn. Thường dựa vào một
trong các phương thức thanh toán sau:
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
- Thanh toán bằng thư tín dụng
- Thanh toán bằng phương pháp nhờ thu
- Thanh toán bằng đổi chứng từ trả tiền .
- Thanh toán bằng chuyển khoản
Khi thanh toán, người thanh toán cần dựa vào các điều kiện riêng của mình
và chọn hình thức thanh toán phù hợp để có lợi nhất và tránh rủi ro.
2.6.9.Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nếu chủ hàng xuất nhập khẩu bị khiếu nại
đòi bồi thường, thì cần phải có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét
các yêu cầu của khách hàng. Việc giải quyết phải khẩn trương, kịp thời và có tình
có lí. Nếu khiếu nại của khách hàng là có cơ sở, thì người xuất khẩu có thể giải
quyết bằng một trong các phương pháp như sau:
- Giao bù hàng thiếu
- Sửa chữa hàng lỗi, hư hỏng bộ phận
- Giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao vào
thời gian sau đó. Trong trường hợp việc giải quyết khiếu nại không được thoả đáng,
thì bên bị thiệt hại có thể kiện ra trọng tài hoặc toà án kinh tế theo điều kiện đã thoả
thuận trong hơp đồng (chỉ khi nào không thể thoả thuận được nữa thì mới kiện ra
trọng tài hoặc toà án kinh tế )
- Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng.
3. Các hình thức xuất khẩu
3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu mà trong đó các nhà sản xuất,
công ty xí nghiệp và các nhà xuất khẩu, trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán trao đổi
hàng hoá với các đối tác nước ngoài.
Hình thức này không qua một tổ chức trung gian nào, có thể trực tiếp gặp nhau
cùng bàn bạc thảo luận để đưa đến một hợp động hoặc không cần gặp nhau trực
tiếp mà thông qua thư chào hàng, thư điện tử, fax, điện thoại cũng có thể tạo thành
một hợp đồng mua bán kinh doanh thương mại quốc tế được ký kết.
3.2. Xuất khẩu gián tiếp
Là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương
đứng ra với vai trò trung gian thực hiện xuất khẩu hàng hoá cho các đơn vị uỷ thác.
Xuất khẩu gián tiếp hay còn gọi là xuất khẩu uỷ thác gồm 3 bên, bên uỷ thác xuất
khẩu, bên nhận uỷ thác xuất khẩu và bên nhập khẩu. Bên uỷ thác không được quyền
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
thực hiện các điều kiện về giao dịch mua bán hàng hoá, giá cả, phương thức thanh
toán mà phải thông qua bên thứ 3 - người nhận uỷ thác.
Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp không được
phép kinh doanh xuất khẩu trực tiếp hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp, uỷ
thác cho doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu làm đơn vị xuất khẩu hàng hoá cho
mình, bên nhận uỷ thác được nhận một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác.
3.3. Xuất khẩu gia công ủy thác
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó có một đơn vị đứng ra nhập nguyên
liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu hồi sản phẩm để xuất
khẩu cho nước ngoài. Đơn vị này được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các xí
nghiệp sản xuất.
3.4. Phương thức buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua. Khối lượng hàng hoá
được trao đổi có giá trị tương đương. ở đây mục đích của xuất khẩu không phải thu
về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một khối lượng hàng hoá với giá trị tương
đương. Tuy tiền tệ không được thanh toán trực tiếp nhưng nó được làm vật ngang
giá chung cho giao dịch này.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm mục đích tránh được các rủi ro về sự
biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối .
Đồng thời có lời khi các bên không đủ ngoại tệ thanh toán cho lô hàng nhập
khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân
bằng hạn mục thường xuyên trong cán cân thanh toán quốc tế.
3.5. Gia công quốc tế
Là hình thức xuất khẩu trong đó có một bên nhập nguyên liệu hoặc bán thành
phẩm (bên nhận gia công) của bên khác (bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm
giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một khoản lệ phí như thỏa thuận
của cả hai bên. Trong hình thức này bên nhận gia công thường là các quốc gia đang
phát triển, có lực lượng lao động dồi dào, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Họ
sẽ có lợi vì tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, có điều kiện đổi mới và
cải tiến máy móc để nâng cao năng suất sản xuất. Còn đối với nước đặt gia công họ
khai thác được giá nhân công rẻ và nguyên phụ liệu khác từ nước nhận gia công.
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
3.6. Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức kinh doanh xuất khẩu mới đang có xu hướng phát triển và
phổ biến rộng rãi do ưu điểm của nó đem lại. Đặc điểm của loại hàng xuất này là
hàng hoá không cần phải vượt qua biên giới quốc gia mà khách hàng vẫn có thể
đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại đến với nhà xuất khẩu.
Mặt khác, doanh nghiệp tránh được một số thủ tục rắc rối của hải quan, không phải
thuê phương tiện vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hoá. Do đó, giảm được một
lượng chi phí khá lớn.
Hình thức xuất khẩu tại chỗ đang được các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
có thế mạnh về du lịch và có nhiều đơn vị kinh doanh, các tổ chức nước ngoài đúng
tại quốc gia đó khai thác tối đa và đã thu được những kết quả to lớn, không thua
kém so với xuất khẩu trực tiếp qua biên giới quốc gia, đồng thời có cơ hội thu hồi
vốn nhanh và lợi nhuận cao.
3.7. Tạm nhập tái xuất
Tái xuất là sự tiếp tục xuất khẩu ra nước ngoài những mặt hàng trước đây đã
nhập khẩu với điều kiện hàng hoá phải nguyên dạng như lúc đầu nhập khẩu.
Hình thức này được áp dụng khi một doanh nghiệp không sản xuất được hay
sản xuất được nhưng với khối lượng ít, không đủ để xuất khẩu nên phải nhập vào để
sau đó tái xuất.
Hoạt động giao dịch tái xuất bao gồm hai hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu
với mục đích thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn lúc ban đầu bỏ ra. Các bên tham
gia gồm có: nước xuất khẩu, nước tái xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Tạm nhập tái xuất có thể thực hiện theo hai hình thức sau:
+ Tái xuất theo đúng nghĩa của nó: Trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu tới
nước tái xuất khẩu rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất tới nước nhập khẩu.
Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của tiền tệ. nước tái xuất
trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền về từ nước nhập khẩu.
+ Chuyển khẩu : Được hiểu là việc mua hàng hoá của một nước (nước xuất khẩu)
để bán hàng hoá cho một nước khác (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập
khẩu vào nước tái xuất. Nước tái xuất trả tiền cho nước cho nước xuất khẩu và thu
tiền về từ nước nhập khẩu.
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
4. Vai trò của xuất khẩu:
4.1. Đối với nền kinh tế thế giới:
Xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động
đầu tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như toàn thế giới.
Do những lý do khác nhau nên mỗi quốc gia đều có thế mạnh về lĩnh vực này
nhưng lại yếu ở lĩnh vực khác. Để có thể khai thác được lợi thế, giảm bất lợi, tạo ra
sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phát triển phải tiến
hành trao đổi với nhau, mua những sản phẩm mà mình sản xuất khó khăn, bán
những sản phẩm mà việc sản xuất nó là có lợi thế . Tuy nhiên hoạt đông xuất khẩu
nhất thiết phải được diễn ra giữa những nước có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực
khác. Một quốc gia thua thiệt về tất cả các lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên, nhân
công tiềm năng kinh tế thông qua hoạt động xuất khẩu cũng có điều kiện phát
triển kinh tế nội địa.
Nói cách khác, một quốc gia dự trong tình huống bất lợi vẫn tìm ra điểm có lợi
để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này, các quốc gia tập trung vào sản
xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tương đối và nhập khẩu các mặt hàng không có
lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hoá trong sản xuất này đã làm cho mỗi quốc gia
khai thác được lợi thế tương đối cuả mình một cách tốt nhất để tiết kiệm nguồn
nhân lực như vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất hàng
hoá. Và vì vậy trên quy mô toàn thế giới thì tổng sản phẩm cũng sẽ được gia tăng.
4.2. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia cũng như toàn thế giới. Xuất khẩu là một trong những nhân tố cơ bản để
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia, thể hiện qua những vai trò sau
4.2.1.Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công
nghiệp hóa đất nước
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để thực hiện
đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì trước mắt chúng ta phải nhập
khẩu một số lượng lớn máy móc thiết bị hiện đại từ bên ngoài, nhằm trang bị cho
nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: đi
vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn
viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là
xuất khẩu. Thực tế là nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó sẽ
tăng theo. Ngược lại, nếu nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu làm cho thâm hụt cán cân
thương mại quá lớn có thể ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế quốc dân.
4.2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với
xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với đất nước ta. Thay đổi cơ
cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất đó là thành quả của công cuộc khoa
học và công nghệ hiện đại. Vì vậy xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sản xuất
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi,
tức là sự phát triển của ngành hàng xuất khẩu này sẽ kéo theo sự phát triển của một
ngành khác có quan hệ mật thiết. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia
vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh
này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích
nghi với thị trường.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,
nâng cao năng lực sản xuất trong nước, tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm
cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn đòi
hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới, hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và
kinh doanh.
4.2.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết việc làm và cải thiện
đời sống nhân dân
Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ bảo đảm cho sự phát triển công
nghiệp với quy mô hiện đại, sản xuất hàng loạt do đó không tạo thêm công ăn việc
làm, một vấn đề nan giải mà các nước nghèo luôn luôn phải nghĩ cách giải quyết.
Với phạm vi vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hoạt động xuất khẩu mở ra
một thị trường tiêu thu rộng lớn với nhu cầu vô cùng đa dạng của mọi tầng lớp, mọi
dân tộc trên toàn thế giới. Sản xuất phải gắn với thị trường, có thị trường là điều
kiện tiên quyết để thúc đẩy sản xuất hàng xuất khẩu, đến lượt nó, sản xuất hàng xuất
khẩu lại là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và tăng thu nhập. Xuất khẩu
còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống
và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
4.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta
. Xuất khẩu là một bộ phận rất quan trọng của kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và
các quan hệ kinh tế đối ngoại luôn có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy
khi hoạt động xuất khẩu phát triển sẽ kéo theo các bộ phận khác của kinh tế đối
ngoại phát triển như dịch vụ, quan hệ tín dụng, đầu tư, hợp tác, liên doanh, mở rộng
vận tải quốc tế Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo điều kiện
mở rộng xuất khẩu. Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác
quốc tế giữa các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế,
góp phần vào sự ổn định kinh tế chính trị của đất nước.
Nói tóm lại, với những vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế, phát
triển hoạt động xuất khẩu luôn là chiến lược để phát triển kinh tế ở nước ta.
4.3.Đối với các doanh nghiệp
Trong quá trình mở cửa và hội nhập nền kinh tế các doanh nghiệp đặc biệt là
các doanh nghiệp xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế thế giới. Các cơ hội
và thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp rất nhiều, nó là sự sống còn của nhiều
doanh nghiệp, nếu như doanh nghiệp tìm được nhiều bạn hàng thì sẽ xuất khẩu
được nhiều hàng hoá và sẽ thu được nhiều ngoại tệ cho quốc gia cũng như cho
chính doanh nghiệp để đầu tư phát triển. Thông qua xuất khẩu doanh nghiệp nhanh
chóng tiếp thu được khoa học kĩ thuật, từ đó có khả năng củng cố tổ chức sản xuất,
nâng cao mẫu mã, chất lượng, uy thế và địa vị của doanh nghiệp trên thị trường
quốc tế cũng thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu nhanh chóng hoàn
thiện sản phẩm của mình củng cố đội ngũ cán bộ công nhân viên nâng cao trình độ
đội ngũ cán bộ công nhân viên trong sản xuất cũng như trong xuất khẩu, mục đích
để tạo lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác trên thị trường thế giới.
II. Hoạt động xuất khẩu sản phẩm bao bì ở Việt Nam
1.Khái quát chung về ngành bao bì ở Việt Nam
Trước đây, khi nền kinh tế chưa mở cửa, nhu cầu sử dụng bao bì rất thấp,
hầu hết là nhập khẩu. Nhà nước chỉ có một công ty để nhập khẩu và chuyển tải
những bao bì của hàng nhập khẩu để phục vụ trong nước. Tuy nhiên, khi nền kinh
tế hội nhập, sản xuất kinh doanh và xuất khẩu phát triển kéo theo nhu cầu bao bì
tăng lên rất mạnh và nguồn cung trong nước không thể đáp ứng được. Bên cạnh đó,
quan niệm về bao bì đã thay đổi, nếu trước đây không mấy ai chú ý đến bao bì thì
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
nay lại hoàn toàn khác. Ví dụ đơn giản trong thực tế như một hộp bánh trung thu
bao bì chiếm đến 50% giá trị và nhiều khi người ta quyết định mua vì vỏ bao.
Bao bì ngày nay đã trở nên cần thiết và ngày càng quen thuộc với
chúng ta, bao bì hiện diện trong công việc, trong cuộc sống và mức độ thiết yếu của
nó tăng dần theo thời gian. Vậy bao bì là gì? Với hình dáng hấp dẫn và kích cỡ phù
hợp, bao bì chứa đựng và bảo vệ sản phẩm từ lúc sản xuất ra theo quá trình lưu
thông đến tay người tiêu dùng.
Như vậy khi mua một món hàng người tiêu dùng không chỉ trả tiền cho sản
phẩm của mình cần mua mà còn phải thanh toán một khoản chi phí không nhỏ cho
bao bì. Trong một số trường hợp chi phí này lến đến 30% hoặc lớn hơn 30% tổng
giá trị thanh toán, nhưng người vui vẫn vui lòng chấp nhận. Vì sao như vậy?
Câu trả lời nằm ở những chức năng sao đây của bao bì:
Một là, bao bì dựng để chứa đựng sản phẩm, để sản phẩm không bị rò rỉ, thất thoát,
không thay đổi, biến dạng.
Hai là, bao bì dựng để bảo vệ sản phẩm, làm cho sản phẩm không bị hư hỏng trong
những điều kiện thay đổi bất lợi như: nhiệt độ, không khí, độ ẩm, ánh sáng
Ba là, bao bì còn để trình bày, mô tả, quảng cáo cho sản phẩm. Trên bao bì có
hướng dẫn sử dụng, qui định thời hạn dựng, mô tả thành phần cấu tạo, nêu lên
những lưu ý đặc biệt. Tất cả những yếu tố trên được trình bày một cách hấp dẫn,
đẹp đẽ
Từ ba chức năng của bao bì: chứa đựng, bảo vệ, trình bày và quảng cáo, thể
hiện vai trò quan trọng của nó, các nhà sản xuất bao bì sẽ phải suy nghĩ nhiều điều
cho công việc của mình.
2. Đặc điểm và phân loại sản phẩm bao bì
Ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ, vật liệu làm bao bì cũng
rất phong phú như kim loại, thuỷ tinh, giấy, gỗ, nhựa Với nhu cầu thực tế về bao
bì tăng lên, cùng với sự khan hiếm dần của nguyên liệu truyền thống, bao bì bằng
chất dẻo đã phát triển thành một vị thế quan trọng trong ngành bao bì. Ngành sản
xuất bao bì bằng chất dẻo có thể chia thành 3 nhóm chính:
- Bao bì mềm một lớp và nhiều lớp;
- Bao bì nhựa;
- Bao bì dệt và bao bì khác.
Bao bì mềm : Là bao bì đơn, kép hoặc đa lớp, có kết hợp với các loại vật liệu
khác, dùng làm bao bì cho thực phẩm, nông sản, hải sản chế biến, mỹ phẩm, dược
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
phẩm Hiện nay, ở nước ta có 23 cơ sở sản xuất và gia công bán thành phẩm bao bì
mềm với khoảng 5000 lao động. Năng lực sản xuất bao bì mềm khoảng trên 1 tỷ
m2/năm, đáp úng được phần lớn nhu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia xuất
khẩu. Thị trường bao bì mềm đang là một thị trường đầy hứa hẹn và tiềm năng của
Việt Nam. Mức tăng trưởng trong những năm qua từ 25-30%/năm. Để đạt được
những thành tựu trên, ngành bao bì mềm đã không ngừng đổi mới thiết bị và công
nghệ. Trong vòng 5 năm qua, ước tính giá trị đầu tư của ngành khoảng trên 40 triệu
USD. Nhiều đơn vị đầu tư ngay thiết bị và công nghệ cao hoàn chỉnh từ các nước
G7. Nhờ đó,ngành bao bì mềm đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của thị trường
trong nước, đẩy lùi hàng ngoại, góp phần tiết kiệm hàng trăm triệu USD cho quốc
gia.
Bao bì nhựa : Đầu những năm 90 thế kỷ XX, ngành sản xuất bao bì nhựa của
nước ta còn lạc hậu cả về thiết bị và công nghệ so với các nước trong khu vực. Năm
1994, chai PET các loại còn phải nhập khẩu 100%. Nhưng từ năm 1996-2000,
ngành bao bì nhựa như chai lọ các loại bằng chất dẻo đã có những bước tiến vượt
bậc, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 30%. Sở dĩ tốc độ tăng trưởng cao là
trong những năm qua, nhu cầu xã hội được nâng lên, cùng với tính ưu việt: (Về giá
cả, chất lượng, vận chuyển và sự đa dạng ), chai lọ bằng chất dẻo đang thay thế
dần các loại bao bì bằng vật liệu thuỷ tinh và kim loại. Theo số liệu báo cáo của
Hiệp hội Nhựa Việt Nam, năm 2002, toàn quốc có hơn 100 cơ sở sản xuất chai
nhựa các loại, tiêu thụ khoảng trên 100.000 tấn nhựa/năm như PET, PP, PE Năm
2003, đã xuất hiện nhiều chủng loại chai PET khácnhau, kể cả chai PET có thể chịu
được nhiệt độ cao (từ 59oC trở lên). Trong khoảng 10 năm tới, xu thế sử dụng chai
PET vẫn tăng cao từ 20-25%/năm, phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng
trong nước các sản phẩm như nước khoáng, dầu ăn, nước uống có ga, nước ép trái
cây
Bao bì khác : Bao bì dệt từ sợi PP, PE cũng có những bước phát triển vượt
bậc, phục vụ cho việc xuất khẩu nông sản, gạo, cà phê đường và hoá chất phân bón,
xi măng Theo ước tính hiện nay các cơ sở của Việt Nam đã có thể sản xuất trên 1
tỷ bao/năm phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Ngoài các dạng bao bì chất dẻo nêu trên, các bao bì dạng tấm, định hình
bằng công nghệ hút chân không, bao bì dạng thùng chứa như thùng chứa nước, các
loại két cũng rất phát triển và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong xã hội.
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
Để đáp ứng chức năng bảo vệ sản phẩm, giữ sản phẩm bên trong nguyên vẹn
như ban đầu về chất lượng, kéo dài thời gian bảo quản. Tuỳ trường hợp mà các tính
chất sau đây được lưu ý:
*Độ bền cơ học
* Độ chịu đầu
* Độ bền kéo dứt
* Độ trong suốt
* Độ bền va đập
* Tính ngăn cản hơi nước
* Độ bền với nước
* Tính ngăn cản oxy
* Độ chịu nhiệt
* Tính giữ mùi
* Độ chịu ánh sáng
* Tính an toàn cho trẻ em và người già
Những tính chất trên đòi hỏi lưu ý đến các vấn đề công nghệ, thiết bị và
nguyên vật liệu Để đáp ứng chức năng này, quảng cáo sản phẩm bao bì cần phải
được thiết kế tạo nên sự hấp dẫn, nổi bật của sản phẩm bên trong, dễ dàng phân biệt
sản phẩm của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác Bao bì phải đẹp và hấp dẫn.
Màu sắc, hình ảnh, phải đáp ứng yêu cầu của nhà sản xuất sản phẩm. Màu phải bền
với thời gian, với ánh sáng, phải giống nhau giữa các đợt in khác nhau. Trong một
số trường hợp yêu cầu này cực kỳ nghiêm khắc như những bao bì dược phẩm. Các
nhà sản xuất bao bì phải cân nhắc kỹ lưỡng để quyết định xem sẽ phải làm như thế
nào để bao bì phải là một thể thống nhất với sản phẩm bên trong và bao bì phải góp
phần để gia tăng giá trị của sản phẩm. Chẳng những thế, bao bì còn phải có tính
kinh tế, nghĩa là với một lượng vật liệu tối thiểu phải có số thành phẩm tối đa. Bao
bì phải vừa khít, quá trình đóng gói sản phẩm dễ dàng ít tốn thời gian, giảm thiểu số
màu in nhưng đạt hiệu quả trình bày
Bao bì có tính động và thường xuyên thay đổi, vật liệu đòi hỏi phương pháp
sản xuất mới, và vì vậy cần có thiết bị mới. Chu kỳ thay đổi sẽ ngày càng nhanh.
Chất lượng bao bì sẽ ngày càng tốt hơn. vậy, tương lai công nghiệp bao bì sẽ phải
đối đầu với những thách thức lớn về công nghệ, đó là khuynh hướng bao bì phải
mỏng hơn, nhẹ hơn, an toàn hơn cho môi trường, năng suất đóng gói cao hơn, in ấn
đẹp hơn. Trong khi đó thì nguyên vật liệu phục vụ cho bao bì ngày càng than hiếm,
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
yêu cầu của khách hàng đối với nhà sản xuất bao bì ngày càng khắc khe và thường
xuyên đòi hỏi cao hơn đồng thời sự quản lý của chính phủ ngày càng nghiêm khắc.
3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu bao bì ở Việt Nam
3.1. Các phương thức xuất khẩu bao bì:
Trên thị trường thế giới, các nhà buôn giao dịch với nhau theo những cách
thức nhất định, ứng với mỗi ngành nghề có những phương thức xuất khẩu riêng với
những đặc điểm riêng. Đối với ngành bao bì xuất khẩu, người ta thường sử dụng
các phương thức chủ yếu sau :
a. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu trực tiếp bao bì do chính doanh
nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng
nước ngoài. Với trường hợp doanh nghiệp tham gia xuất khẩu là doanh nghiệp
thương mại không tự sản xuất ra sản phẩm thì việc xuất khẩu bao gổm hai công
đoạn. Trước tiên, doanh nghiệp phải thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu từ các đơn
vị sản xuất bao bì trong nước. Sau đó tiến hành đàm phán, kí kết với doanh nghiệp
nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng với đơn vị bạn.
Ưu điểm của phương thức này là xuất khẩu tiến hành thông qua đàm phán,
thảo luận trước tiếp nên dễ dàng đi đến thống nhất, ít xảy ra những hiểu lầm đáng
tiếc. Do đó, giúp doanh nghiệp giảm được chi phí trung gian, biết được nhu cầu của
khách hàng từ đó xây dựng phương án kinh doanh phù hợp. Ngoài ra giúp doanh
nghiệp có điều kiện phát huy tính độc lập và tính chủ động trong việc tiêu thụ hàng
hoá sản phẩm của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh đó phương thức này vẫn còn bộc lộ một số nhược điểm
như: chi phí giao dịch cao; rủi ro lớn do không có điều kiện tìm hiểu kĩ thông tin về
bạn hàng, và phương thức này đòi hỏi các cán bộ tham gia xuất nhập khẩu của
doanh nghiệp phải có trình độ kĩ thuật nghiệp vụ cao.
b. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức xuất khẩu mà nhà xuất khẩu và nhà nhập
khẩu phải thông qua một người thứ ba, người này là trung gian. Đây là hình thức
kinh doanh trong đó đơn vị XNK đóng vai trị là người trung gian thay cho đơn vị
sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, tiến hành làm các thủ tục cần thiết để
xuất khẩu do đó nhà sản xuất và qua đó được hưởng một số tiền nhất định gọi là phí
uỷ thác. Phương thức này còn được gọi là xuất khẩu uỷ thác.
Xuất khẩu uỷ thác bao gồm các bước sau :
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD:Th.s Đặng Thị Lệ Xuân
+ Ký kết hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với đơn vị trong nước.
+ Ký hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền hàng bên nước ngoài.
+ Nhận phí uỷ thác xuất khẩu từ đơn vị trong nước.
Phương thức xuất khẩu uỷ thác này có ưu điểm là những người nhận uỷ thác
nắm rõ tình hình thị trường cũng như luật pháp của nước xuất khẩu, do đó họ có khả
năng đẩy mạnh việc buôn bán. Tuy nhiên, công ty kinh doanh xuất nhập khẩu lại bị
thụ động, phụ thuộc vào người trung gian, lợi nhuận bị chia sẻ
3.2. Các thị trường xuất khẩu bao bì của Việt Nam
Cũng như các mặt hàng xuất khẩu khác, bao bì xuất khẩu cũng được các
doanh nghiệp Việt Nam chú trọng xuất khẩu vào các thị trường "truyền thống" như
Mỹ, EU, Nhật Bản và các nước trong khu vực như : Singapore, Đài Loan, Hồng
Kông Trong đó thị trường xuất khẩu lớn nhất phải kể đến là Mỹ và EU.
Trong các thị trường xuất khẩu bao bì của Việt Nam năm 2008, Hoa Kỳ là đối
tác lớn nhất, ước tính đạt 0.9 tỷ USD, tăng 14,5% so với năm 2007 với mặt hàng chủ
yếu (chiếm tỷ trọng 66% tổng kim ngạch bao bì xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường này) gồm: bao bì mềm, bao bì nhựa, sản phẩm in như poster, bưu thiếp
Bên cạnh đó, EU cũng là một thị trường đầy tiềm năng cho việc xuất khẩu bao
bì (chiếm tỉ trọng 24% tổng kim ngạch bao bì xuất khẩu). EU có những cường quốc
công nghiệp là bạn hàng quen thuộc của Việt Nam như Đức, Pháp, Anh
3.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu bao bì đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam
Như mọi ngành nghề xuất khẩu khác trong nền kinh tế, hoạt động xuất khẩu
bao bì góp phần tạo ra nguồn ngoại tệ để phát triển đất nước, phục vụ nhập khẩu.
Dự chưa phải là ngành trọng điểm trong xuất khẩu của Việt Nam, nhưng dự ít dự
nhiều cũng đã góp phần tạo nên một lượng ngoại tệ đáng kể cho đầu tư trang thiết
bị, xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ phát triển kinh tế.
Sản xuất bao bì gắn liền với máy móc trang thiết bị hiện đại và công nghệ
tiên tiến. Do đó, khi ngành bao bì phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của công nghệ
chế tạo máy, tạo điều kiện cho ngành cơ khí phát triển. Bên cạnh đó, ngành bao bì
sẽ giúp phát triển các ngành có liên quan đến như : công nghiệp in, nhuộm, sản xuất
nhựa, sản xuất giấy
Xuất khẩu bao bì tạo điều kiện thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại và
quảng bá thương hiệu của mặt hàng này trên thị trường thế giới. Thông qua mối
quan hệ với các bạn hàng quốc tế, chúng ta có cơ hội học hỏi, khai thác được những
SV: Nguyễn Kiều Oanh Lớp: Kế hoạch - 48A
25