Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP-Công Ty TNHH Đầu tư & Phát triển Công nghệ Hoàng Đạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1004.89 KB, 38 trang )

Lê Nhật Tân - 1 - Lớp KT13D1
Lời mở đầu
*
* *
Hiện nay, các phần mềm Hệ điều hành (HĐH) như Microsoft (MS)
Windows 2000, XP, Vista, Linux Ubuntu, Fedora, RedHat…, các ứng dụng
phổ biến như MS Office, Sun OpenOffice, Adobe Photoshop, Autodesk
AutoCAD… đều khá hoàn thiện và có cơ chế an toàn khá cao, nên ít xảy ra
trục trặc. Nhưng thực tế tỷ lệ máy tính bị trục trặc phần mềm vẫn rất lớn, mà
một trong những nguyên nhân chủ yếu là do virus.
Đi kèm với sự phát triển của công nghệ máy tính, phần mềm và truyền
thông thì càng ngày số lượng người có thể viết và phát triển virus càng
nhiều, khả năng lây lan và phát tán càng mạnh, mức độ ảnh hưởng của virus
càng lớn, và do đó thiệt hại trực tiếp cũng như gián tiếp do virus gây ra cũng
ngày càng mạnh mẽ.
Bài phân tích này sẽ giúp quý vị có một cái nhìn sơ lược về việc
Phòng chống virus và Khắc phục sự lây nhiễm của virus trên máy tính cá
nhân (PC) của mình.
Lê Nhật Tân - 2 - Lớp KT13D1
Lời cảm ơn
Để có được thành tích như ngày hôm nay, em xin chân thành cảm ơn
các thầy cô giáo của Trường THBC KTTH Hà Nội đã dạy dỗ em trong suốt
2 năm học qua.
Em xin chân thành cảm ơn cô Lê Văn Huỳnh đã hướng dẫn em
thực tập và hoàn thành tốt báo cáo thực tập này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn anh Vương Hoàng Điệp và các nhân
viên của chi nhánh công ty Công Ty TNHH Đầu tư & Phát triển Công
Nghệ Hoàng Đạt đã tạo điều kiện, giúp đỡ em thực tập tốt, đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt thời gian thực tập.
Lê Nhật Tân - 3 - Lớp KT13D1
A: VÀI NÉT VỀ CƠ QUAN THỰC TẬP


Cơ quan thực thập: Công Ty TNHH Đầu tư & Phát triển Công Nghệ
Hoàng Đạt
Văn Phòng giao dịch: Số nhà 58/59 Hoàng Cầu – Đống Đa
Gián Đốc: Vương Hoàng Điệp
Công ty Công Ty TNHH Đầu tư & Phát triển Công Nghệ Hoàng Đạt
là một công ty chuyên cung cấp về các mặt hàng điện tử, máy vi tính. Ngoài
ra công ty còn nhận lắp đặt, sửa chữa và thiết kế máy tính văn phòng và
phòng Game. Với phương châm phuc vụ khách hàng tốt nhất, chu đáo, nhiệt
tình nên giờ đây công ty đã và đang được rất nhiều nơi tín nhiệm để mua
sắm.
Khi về thực tập tại đây em được phân công vào phòng IT (information
technology) thuộc bộ phận sửa chữa và bảo hành. Tại đây em được anh
Vương Hoàng Điệp hướng dẫn và chỉ bảo cho e để em hoàn thành tốt công
việc được giao. Tai đây có 3 máy tính được dùng để cài và sửa chữa những
phần mềm mà khách hàng yêu cầu.
Qua 8 tuần thực tập ở đây em đã cảm nhận được một không khí làm việc rất
nghiêm túc và có tính chuyên nghiệp cao. Đội ngũ nhân viên tại đây có
chuyên môn cao, rất nhiệt tình với công việc và luôn giành những thiện cảm
cho khách hàng ngay cả những khách hàng khó tính nhất cũng phải hài lòng
với phong cách phục vụ và làm việc của họ.
Lê Nhật Tân - 4 - Lớp KT13D1
B: NỘI DUNG THỰC TẬP
1, Công việc: Tại đây em được giao nhiệm vụ là:
+) Hàng ngày làm những công việc phụ giúp cho nhân viên của phòng làm
việc và giao trả hàng đã được bảo hành sửa chữa
+) Cuối tuần sẽ tiến hành lau chùi và bảo dưỡng máy tính của chi nhánh tại
phòng thu ngân và lau dọn phòng sau 1 tuần làm việc.
+) Khi không có việc thì trực điện thoại tiếp nhận những thông tin từ khách
hàng để nhân viên của phòng tiến hành sửa chữa, bảo hành và tư vấn về cách
sử dụng những sản phẩm mà họ đã mua tại chi nhánh.

2, Tự đánh giá về chất lượng và hiệu quả công tác của bản thân:
Qua 8 tuần thực tập tại đây am đã hoàn thành tốt được những công việc
được giao và có đựơc nhưng kết quả nhất định tuy còn một số vướng mắc do
mới ra trường kinh nghiệm làm việc chưa có nhiều và kiến thức còn yếu nên
còn vướng mắc trong một số công việc, nhưng do dược sự giúp đỡ của các
anh trong phòng và đặc biệt là anh Vương Hoàng Điệp nên em cũng hoàn
thành dược công việc đã được giao. Là một người hoạt bát và sôi nổi trong
công việc nên em được mọi người tin yêu và quý mến coi em như một đồng
nghiệp, em rất tự hào về điều đó.

Lê Nhật Tân - 5 - Lớp KT13D1
C: Đề tài thực tập
Virus máy tính và cách phòng chống
I, Virus máy tính là gì?
1, Các định nghĩa
1.1, Định nghĩa chung
Một định nghĩa tốt hơn - Malware là gì? là một thuật ngữ chỉ chung
cho các phần mềm không mong muốn có mặt trong máy tính. Nó có thể có
nhiều loại, nhiều danh mục.
Về bản chất, đối với máy tính thì malware cũng là một phần mềm như
tất cả các phần mềm thông thường khác. Tuy nhiên, đối với người sử dụng
thì malware thực sự là một nỗi đau đầu, vì các phần mềm này luôn ở trạng
thái không mời mà đến, thực hiện các tác vụ gây ra hậu quả xấu cho người
sử dụng như đánh cắp thông tin, phá hoại tài liệu và các phần mềm khác,
tiêu tốn năng lực xử lý của máy tính, gây ra các trục trặc liên tục cho PC.
Nguyên lý lây nhiễm, phát tán của malware trên máy tính cũng tương
tự như malware trên các cơ thể sống: chúng tìm mọi cách để lây nhiễm từ tài
liệu này sang tài liệu khác, từ máy tính này sang máy tính khác, luôn cố
gắng tự nhân bản và phát tán chính nó trong mọi trường hợp có thể được,
theo những cách thức mà ngay cả các chuyên gia về phòng chống nhiều lúc

cũng phải ngạc nhiên.
Tuy nhiên, có một đặc điểm khác của malware máy tính với virus
thông thường, đó là nó do con người tạo ra. Vì vậy malware máy tính liên
tục biến đổi không ngừng, các biến thể mới xuất hiện rất nhanh và chúng
luôn tìm cách tiêu diệt các phần mềm chống malware. Vì vậy không có một
loại vắc-xin đặc trị nào có thể “uống một lần” mà phòng tránh được mãi mãi,
mà muốn chống được thì máy tính phải được cài đặt các phần mềm có cơ
chế phòng chống malware hiệu quả nhất và chúng phải được “uống vắc-xin”
thường xuyên, có nghĩa là phải liên tục biến đổi, cập nhật theo sự phát triển
của malware.
1.2, Các định nghĩa khác
Ngoài virus, ngày nay người ta còn dùng những thuật ngữ khác để chỉ
những kẻ không mời mà đến có những cơ chế hoạt động, cách thức lây lan,
Lê Nhật Tân - 6 - Lớp KT13D1
mục đích phá hoại tương tự như virus, đó là Sâu (Worm), Spyware, Con
ngựa thành Tơ-roa (Trojan Horse)
-Virus máy tính là một đoạn chương trình đặc biệt được "gắn lén" vào
một chương trình khác sao cho khi chúng ta thực hiên chương trình này thì
đoạn chương trình virus sẽ được thực hiện trước. Ðoạn chương trình virus có
khả năng lây lan sang các chương trình khác hay từ dĩa này sang dĩa khác và
gây tác hại trên máy tính của chúng ta
Virus máy tính được chia làm thành 2 loại :
+ B-virus (Boot sector & partition table virus) : đây là dạng thông
thường nhất, virus loại này thường nằm ẩn trong cung mồi dĩa mềm hoặc
trên bảng phân khu dĩa cứng. Dấu hiệu phát hiện là thấy tổng số byte của bộ
nhớ quy ước thấp hơn 640 Kb
+ F-virus (File infector virus) : loại này thường nằm trong các file
chương trình (.com, .exe). Dấu hiệu phát hiện là kích thước của file tăng lớn
hơn thường lệ. Tuy nhiên cũng có nhiều con virus loại này không làm kích
thước của file bị nhiễm tăng lên

- Sâu: thường bị nhầm lẫn với virus máy tính, sâu là một chương trình
độc lập có thể sao chép chính nó thông qua mạng. Khác với virus cần một
phần mềm cụ thể để chạy và mã lệnh của virus được thực thi như là một
phần của các mã lệnh máy tính thông thường, Sâu máy tính không cần một
máy tính cụ thể để chạy, mặc dù nó cũng có thể ẩn náu dưới các tệp cụ thể
của máy tính.
Một sâu máy tính nổi tiếng là MyDoom, lây lan qua hệ thống mạng
ngang hàng P2P Kazaa, nhiệm vụ chủ yếu là tấn công gây tê liệt dịch vụ
(DoS). Bản thân hệ thống bị nhiễm có thể không sao, nhưng nó làm bàn đạp
để tấn công các hệ thống khác, làm tê liệt hoạt động của các máy chủ.
- Spyware: Là một thuật ngữ chỉ đến các phần mềm chuyên dùng để
do thám, đánh cắp thông tin. Spyware thường không phá hoại trực tiếp, mà
nó ngấm ngầm tìm cách ăn cắp thông tin của người sử dụng, như
Username/Password, thói quen truy cập, danh sách các địa chỉ web ưa thích,
danh sách địa chỉ của bạn bè, người thân, đối tác
Spyware cũng thường hay làm cơ chế trung gian để cài đặt các phần
mềm không mời mà đến vào máy tính, cố tình hướng khách hàng xem
những thông tin mà nó muốn quảng cáo Spyware cũng có họ hàng gần với
Adware, một loại phần mềm chuyên tìm cách đăng quảng cáo.
Lê Nhật Tân - 7 - Lớp KT13D1
Để diệt Spyware cần có phần mềm Anti-Spyware như Ad-aware.
- Con ngựa thành Tơ-roa: lấy nguồn gốc từ con ngựa thành Tơ-roa của
thần thoại Hy Lạp, Trojan Horse nhằm chỉ bất cứ phần mềm nào cố gắng
mạo danh, lừa đảo để cài đặt vào máy tính của khách hàng nhằm mục đích
phá hoại. Nói chung cách thức lừa đảo thì đa dạng, cách thức phá hoại cũng
đa dạng, nhưng thường nhằm vào những lúc bất ngờ nhất để phá hoại.
Đặc điểm cơ bản của Trojan Horse khác với virus là Trojan Horse
không tìm cách tự nhân bản, lây lan chính nó bằng lập trình phần mềm, mà
nó tìm cách lây lan bằng cách chào mời người sử dụng bằng những chiêu
thức hấp dẫn để chính người dùng tự cài đặt vào máy của mình.

-Logic Bombs: Đây là chương trình phá hủy có điều kiện, phụ thuộc
vào trạng thái các biến môi trường cụ thể. Nói cách khác là chương trình chờ
đợi một sự kiện nào đó để ra tay Có những Trojan mạng bom logic. Chương
trình vẫn phục vụ ta một cách bình thường nhưng bắt đầu phá hoại khi ta
làm một việc gì đó, hoặc chức năng nào đó, v.v. Bom logic có thể nổ theo
nhiều kiểu khác nhau như xóa hoặc ghi sai số liệu, format đĩa, .v.v.
- Rootkits : Khái niệm rootkit được sử dụng để mô tả các cơ chế
và kĩ thuật được sử dụng bởi malware cố gắng ẩn nấp, trốn tránh không
bị phát hiện bởi các chương trình chống spyware, virus và các tiện ích
hệ thống. Thực ra, rootkit tự bản thân không mang tính hiểm độc
nhưng khi chúng được sử dụng cùng với các chương trình mang tính
"phá hoại" như: virus, sâu, phần mềm gián điệp, trojan thì lại nguy
hiểm hơn rất nhiều.
1.3, Lược sử của virus máy tính
- Nếu viết đầy đủ về các loại virus đã từng được xuất hiện trong
lịch sử thì có thể viết đầy một quyển sách lớn. Nhưng trong khuôn khổ của đề
tài, em chỉ xin trích dẫn bài viết “20 năm lịch sử virus máy tính” của tác giả
Phạm Khương đăng trên vnExpress
Ngày 3/11/1983, cái gọi là virus máy tính đầu tiên ra đời. Kể từ đó,
một thế giới các loại mã và chương trình tấn công đã hình thành và phát
triển với tốc độ chóng mặt. Đi kèm với nó là cả một ngành công nghiệp
sản xuất công cụ phòng ngừa và tiêu diệt. Hậu quả là ngày nay, chúng ta
có tới vài chục nghìn họ virus khác nhau đang hiện diện trên hệ thống
máy tính toàn cầu.
Lê Nhật Tân - 8 - Lớp KT13D1
Những dấu mốc lớn:
1949. Lý thuyết đầu tiên về các chương trình tự sao chép ra đời.
1981. Apple II là những virus đầu tiên được phát tán thông qua hệ
điều hành của hãng "Quả táo", lây lan khắp hệ thống của công ty Texas
A&M, thông qua các trò chơi ăn cắp bản quyền trên đĩa mềm. Những người

đầu tiên phát hiện còn gọi nó là Elk Cloner.
1983. Fred Cohen, một sinh viên đại học Mỹ, đã đưa ra định nghĩa
đầu tiên về virus: “Là một chương trình máy tính có thể tác động những
chương trình máy tính khác bằng cách sửa đổi chúng bằng phương pháp đưa
vào một bản sao của nó”. Fred Cohen luôn là cái tên được nhắc đến khi nói
về lịch sử virus.
1986. Hai anh em lập trình viên người Pakistan là Basit và Amjad
thay thế mã thực hiện (executable code) trong rãnh ghi khởi động của một
đĩa mềm bằng mã riêng của họ, được thiết kế với mục đích phát tán từ một
đĩa mềm 360 K khi cho vào bất cứ ổ đĩa nào. Loại đĩa mềm mang virus này
có mác “© Brain”. Đây chính là những virus MS-DOS xuất hiện sớm nhất.
1987. Lehigh, một trong những virus file đầu tiên xâm nhập các tệp
lệnh command.com (virus này sau đó tiến hoá thành virus Jerusalem). Một
virus khác có tên IBM Christmas, với tốc độ phát tán cực nhanh (500.000
bản sao/tiếng), là cơn ác mộng đối với các máy tính lớn (mainframe) của Big
Blue trong suốt năm đó.
1988. Một trong những virus phổ biến nhất, Jerusalem, xuất hiện.
Được kích hoạt vào các thứ Sáu ngày 13, virus này tác động file có đuôi .exe
và .com, xoá tất cả những ứng dụng chạy trong ngày hôm đó. Cùng năm
này, virus MacMag and the Scores gây ra đợt bùng phát lớn đầu tiên trên các
máy Macintosh. Đây là cuộc khủng hoảng Internet đầu tiên khiến một số
lượng lớn máy tính bị tê liệt. Cũng từ đó, Trung tâm điều phối phản ứng
nhanh (CERT) đã ra đời để đối phó với những sự cố tương tự.
1989. Xuất hiện chương trình Trojan có tên AIDS. Virus này nổi tiếng
vì có khả năng khống chế giữ liệu giống như con tin. Nó được gửi đi dưới
dạng một chương trình thông tin về bệnh suy giảm hệ miễn dịch. Khi được
kích hoạt, AIDS sẽ mã hoá ổ cứng của nạn nhân và yêu cầu người sử dụng
phải nộp tiền nếu muốn được giải mã.
Lê Nhật Tân - 9 - Lớp KT13D1
1990. Kaspersky tung ra công cụ Norton AntiVirus, một trong những

chương trình diệt virus đầu tiên do một công ty lớn phát triển.
Thị trường trao đổi virus đầu tiên (VX) được tung lên mạng từ
Bulgaria. Tại đây, các tin tặc có thể buôn bán mã và giao lưu ý tưởng. Cùng
năm này, cuốn Sách đen về virus máy tính của tác giả Mark Ludwig được
xuất bản.
1991. Tequila, một trong những virus phát tán dưới nhiều hình dạng
đầu tiên được phát hiện. Những sâu loại này khiến cho việc xác định và truy
quét chúng trở nên khó khăn do sự thay hình đổi dạng sau mỗi lần lây
nhiễm.
1992. Trong vòng 2 năm, người ta ghi nhận tổng số 1.300 virus đang
tồn tại, tăng 420% so với tháng 12/1990. Xuất hiện DAME (Dark Avenger
Mutation Engine), một bộ công cụ cho phép chuyển những virus thông
thường thành những chương trình có khả năng thay đổi hình dạng. Sau đó là
VCL (Virus Creation Laboratory), công cụ sáng tác virus thực sự đã ra đời.
Sự xuất hiện của virus Michelangelo làm dấy lên những lời cảnh báo về thiệt
hại quy mô lớn trên toàn cầu, mặc dù cuối cùng những gì xảy ra không như
người ta lo ngại.
1994. Trò lừa qua e-mail đầu tiên xuất hiện trong cộng đồng tin học.
Trò này cảnh báo người sử dụng về một loại virus có thể xoá toàn bộ ổ cứng
ngay khi mở e-mail có dòng chủ đề “Good Times”. Mặc dù không gây thiệt
hại gì mà chỉ có tính chất doạ dẫm, trò lừa này vẫn tiếp tục xuất hiện trong
chu kỳ từ 6 đến 12 tháng/lần.
1995. Word Concept xuất hiện, tấn công các văn bản Microsoft Word
và trở thành một trong những virus ghê gớm nhất vào giữa thập kỷ này.
1996. Baza, Laroux (virus macro) và một số virus Staog xuất hiện lần
đầu tiên, tấn công các file trong hệ điều hành Windows 95, chương trình
bảng tính Excel và cả Linux.
1998. Không được đánh giá là nguy hiểm và chưa phát tán rộng,
StrangeBrew là virus đầu tiên lây nhiễm vào file Java. Virus này sửa đổi các
file CLASS để đưa một bản sao của nó vào giữa mã file để có thể bắt đầu

chạy một vùng virus. Virus Chernobyl, hay còn gọi là CIH, phát tán rất
nhanh qua các file .exe. Ngay như cái tên nó đã thể hiện, virus này có sức
tàn phá khủng khiếp, không chỉ tấn công file mà cả chip trong máy bị nhiễm.
Lê Nhật Tân - 10 - Lớp KT13D1
1999. Virus Melissa (W97M/Melissa) chạy một macro trong văn bản
đính kèm e-mail, gửi tiếp thư này tới 50 người khác sử dụng Outlook. Virus
này cũng lây nhiễm vào các văn bản Word và tiếp đó gửi chúng đi như
những nội dung đính kèm. Melissa phát tán nhanh hơn bất kỳ virus nào từng
xuất hiện trước đó, đạt tổng số 1 triệu máy tính nạn nhân.
Bubble Boy là sâu máy tính đầu tiên không dựa vào việc người nhận
e-mail có mở file đính kèm hay không. Chỉ cần thư được mở ra, nó vẫn sẽ tự
hoạt động.
Tristate là virus macro đa chương trình đầu tiên xuất hiện, tấn công
nhiều ứng dụng như Word, Excel và PowerPoint.
2000. Love Bug, còn gọi là virus ILOVEYOU, phát tán qua OutLook
(giống như Melissa) trong một file đính kèm VBS và xoá hết các file MP3,
MP2, và .JPG. Nó còn ăn cắp và gửi tên người sử dụng và mật khẩu về cho
tin tặc.
W97M.Resume.A, một biến thể mới của Melissa, được tung ra, sử
dụng một macro trong Word để lây lan vào Outlook.
Virus Stage, giả dạng một e-mail với nội dung ngộ nghĩnh về những
giai đoạn đời người, lan rộng trên Internet. Khác với những virus trước đó,
nó ẩn trong một file đính kèm với một đuôi giả “.txt”, để dễ lừa người nhận
mở file. Cho đến nay, virus này không còn tác động nữa.
Các cuộc tấn công từ chối dịch vụ bằng virus của hacker đã đánh bật
khỏi mạng nhiều website như Yahoo, eBay, Amazon,… trong nhiều giờ
đồng hồ.
2001. Nimda (vẫn được gọi là Quái vật đa đầu) với sức mạnh kết hợp
từ 5 loại virus với phương thức hoạt động khác nhau tấn công hàng trăm
nghìn máy tính trên thế giới. Đây là một trong những virus phức tạp nhất tới

nay mà người ta xác định được.
Virus mang tên nữ hoàng quần vợt Nga Anna Kournikova, tự sao
chép vào danh sách địa chỉ e-mail trong Microsoft Outlook và mặc dù không
gây hại nhiều, vẫn khiến các nhà phân tích lo sợ đây là một sản phẩm được
thiết kế từ công cụ hỗ trợ viết virus, nhờ đó những tin tặc ít kinh nghiệm lập
trình nhất cũng có thể chế tác các chương trình phá hoại.
Lê Nhật Tân - 11 - Lớp KT13D1
Hàng loạt sâu mới xuất hiện với những cái tên như Sircam, CodeRed
và BadTrans. Sircam phát tán qua văn bản e-mail Internet. CodeRed tấn
công những trang web có khiếm khuyết và thậm chí còn lái hướng tấn công
tới trang chủ của Phủ Tổng thống Mỹ. Trong vòng 12 giờ đầu tiên, virus này
đã xâm nhập 359.000 máy tính. BadTrans là loại sâu được thiết kế để ăn cắp
mật khẩu và thông tin thẻ tín dụng.
2002. David L. Smith, tác giả của virus Melissa, bị kết án 20 năm tù.
Tháng 1, virus LFM-926 xuất hiện trong các file Shockwave Flash (.swf) với
thông điệp mời tải phim (Loading.Flash.Movie). Liên tiếp phát hiện những
virus sử dụng tên các nhân vật và nghệ sĩ nổi tiếng như Shakira, Britney
Spears và Jennifer Lopez. Klez, một ví dụ tiêu biểu của xu hướng gia tăng
những loại sâu e-mail, viết đè lên file, tạo ra các bản sao ẩn của bản gốc và
vô hiệu hoá nhiều công cụ phòng chống thông thường. Sâu Bugbear lần đầu
tiên xuất hiện vào tháng 9, với tính chất phức tạp và sử dụng nhiều phương
thức lây lan.
2003. Tháng Giêng, sâu Slammer ra đời và đến nay vẫn được coi là
loại virus có tốc độ phát tán nhanh nhất: 75.000 máy tính chỉ trong 10 phút,
tức là trong phút đầu tiên, trung bình cứ 8,5 giây, con số này lại được nhân
đôi. Virus Sobig ra đời và trở thành công cụ ưa thích của cộng đồng spam.
Những hệ thống máy tính bị nhiễm virus này trở thành trạm tiếp vận phát tán
thư không mời. Nhiều kỹ thuật spam được sử dụng trong Sobig giúp nó gửi
đi lượng bản sao e-mail khổng lồ.
Tuy nhiên, sự kiện đáng chú ý nhất trong năm nay là Blaster (còn có

tên MBlast hay LoveSan), là một trong những loại virus có sức lây lan rất
mạnh, nhắm vào máy tính sử dụng hệ điều hành Windows 2000 và XP. Bắt
đầu xuất hiện ngày 11/8, chỉ trong chưa đầy 1 tuần, Blaster đã xâm nhập ít
nhất 300.000 máy tính tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Khi xâm nhập
vào một máy tính bị lỗi Windows, Blaster tự động tải đoạn mã từ PC bị
nhiễm trước đó để tự nhân bản và tiếp tục phát tán. Sau đó, nó tìm quét
những máy tính khác có lỗ hổng tương tự và tấn công. Những máy tính đã
nhiễm, mỗi khi kết nối Internet được vài phút liền bị shutdown tự động.
II, Các dấu hiệu của máy tính bị nhiễm virus
2.1, Con đường lây lan, triệu chứng
Trên Windows, có những con đường lây lan chủ yếu của Malware gồm:
Lê Nhật Tân - 12 - Lớp KT13D1
- Mở một trang web mà trang web đó có chứa Malware nhằm
vào lỗ hổng của máy tính. Lưu ý là chỉ cần mở trang web thôi là máy
tính đã bị nhiễm, mà ngay cả các trang web có uy tín cũng có thể bị
nhiễm virus như thường.
- Nhận e-mail có chứa virus
- Đưa vào máy tính đĩa CD/DVD hoặc ổ đĩa USB có chứa virus
- Mở các tệp, tài liệu được truyền qua mạng hoặc đĩa mềm/đĩa
USB có chứa virus.
- Máy tính có nối mạng đến các máy tính khác bị nhiễm virus
- Mở một trang web có đính kèm virus.
Về mặt nguyên tắc, mục tiêu tối thượng của virus là phá hoại, đánh
cắp, nhưng để làm được việc đó thì nó phải có khả năng ẩn mình để
lan tỏa. Do vậy ngoài những hành động mà virus chủ tâm làm, nó luôn
cố gắng che dấu mọi hành vi để người dùng không thấy có gì bất
thường. Do vậy nhiều người sử dụng sống chung với virus một thời
gian dài mà không hề biết.
Tuy nhiên, do yêu cầu phải gọn, nhỏ, chú tâm vào việc luồn lách,
được phát triển một cách không minh bạch bởi một số ít cá nhân hoặc

tổ chức nhỏ, nên phần mềm virus thường không hoàn hảo. Khi bị
nhiễm, ngoại trừ thời điểm phát tác, virus hay gây ra những trục trặc
phần mềm khiến người sử dụng chú ý. Đặc biệt, các virus hiện đại
luôn cố gắng tiêu diệt các phần mềm antivirus. Do vậy, nếu phần mềm
antivirus trên máy tính của bạn bỗng dưng biến mất hoặc bạn không
thể cài đặt chúng (tất nhiên, ở đây chỉ nói đến các phần mềm antivirus
nổi tiếng chẳng hạn như Kasperskyhay McAfee), thì bạn có thể đoan
chắc là máy tính đã bị nhiễm virus.
2.2, Dấu hiệu máy tính bị nhiễm virus
Virus có thể lây nhiễm vào máy tính khi bạn lướt net, mở e-mail, hoặc
khi mở một chương trỡnh mới download nào đó. Hoặc khi bạn trao đổi dữ
liệu với người khác thông qua các phương tiện lưu trữ di động (đĩa mềm,
CD, Flash Disk, thẻ nhớ), môi trường mạng máy tính Làm thế nào để phát
hiện ra sự đột nhập của chúng? Những dấu hiệu bất thường của hệ thống sẽ
Lê Nhật Tân - 13 - Lớp KT13D1
là cơ sở để bạn đặt ra nghi vấn, để rồi sau đó chạy các chương trỡnh chống
virus tống cổ chúng ra, trả lại sự bình yên cho hệ thống của bạn.
- Máy tính vẫn hoạt động ngon lành mấy hôm trước, nhưng hôm nay
Windows cứ hay bị “rối loạn”, làm cho máy tính cứ bị treo thường xuyên
khi đang sử dụng.
- Các chương trình, game đang sử dụng bỗng nhiên bị thoát ra ngoài
thật khó hiểu, không một lời báo trước.
- Windows cứ luôn đưa ra thông báo các tập tin hệ thống nào đấy bị
lỗi, hoặc không tìm thấy mặc dự bạn chẳng hề “đụng chạm” đến chúng.
- Hệ thống máy tính của bạn đang chậm dần, hoạt động ngày một ỡ
ạch.
- Ổ cứng của bạn bị đầy lên một cách nhanh chóng bất thường, dù rằng
bạn không hề sao chép dữ liệu mới nào hoặc cài đặt chương trỡnh mới nào.
- Ổ cứng bị lỗi, chạy scan-disk thấy bỏo quỏ nhiều bad sector.
- Một số chương trình đang dùng không thể mở được dù bạn kích hoạt

trực tiếp file thực thi (.exe) của chương trỡnh đó.
- Khi mở bất kỳ thư mục nào (kể cả thư mục con của nó) trong các ổ
đĩa, bạn đều thấy sự hiện diện của các file Folder.htt và Desktop.ini.
- Khi đang truy nhập Internet, tốc độ duyệt web của trỡnh duyệt chậm
đi rừ rệt.
- Modem (dial-up) có hiện tượng quay số lại - khi đó bạn sẽ nghe
modem phát ra tiếng rít, đèn LED đỏ ở hộp đấu dây điện thoại cứ nhấp nháy
liên tục.
- Bạn liên tục bị làm phiền bởi những trang web quảng cáo không
lành mạnh cứ tự động bật ra (pop-up) giữa màn hinh khi đang lướt web.
Trang chủ (Home Page) của trình duyệt web tự nhiờn bị thay bằng một trang
web khụng rừ ở đâu ra? Trang web tìm kiếm, trang web bạn thường xuyên
vào nay lại được chuyển sang một trang web lạ hoắc.
- Trình duyệt Internet của bạn cũng tự nhiờn cú thờm những nỳt bấm,
cụng cụ lạ trờn Toolbars.
- Đang truy cập các website sử dụng font chữ Việt có dấu bỗng dưng
bạn thấy toàn bộ font chữ Việt có dấu trên trang web đều bị biến dạng kỳ lạ.
- Bạn không thể nào đăng nhập được vào chương trình e-mail thường
dùng vì password gừ vào khụng được chương trình chấp nhận (vụ hiệu), dự
bạn đó gừ đi gừ lại nhiều lần thật chính xỏc và cũng chưa hề tự thay
password mới.
- Bạn đang truy cập Internet, bỗng hiện lên bảng thông báo máy tính sẽ Shut
Down sau 60 giây. Virus W32.Blaster đang hỏi thăm và đó cư trú vào máy
tính của bạn rồi đấy
Lê Nhật Tân - 14 - Lớp KT13D1
Khi mở ổ đĩa theo cách thong thường bạn thấy dấu hiệu như sau:
Hoặc:
Kinh nghiệm:
Máy tính đã bị nhiễm worm autorun.inf nhưng vì một lý do nào đó
chương trình virus (trong ổ đĩa gốc) đã bị xóa

Cách khắc phục: xóa tệp autorun.inf và khởi động lại máy
Lê Nhật Tân - 15 - Lớp KT13D1
III, Phòng tránh và tiêu diệt virus máy tính
3.1, Các phân tích sâu về virus máy tính
-Loại trừ virus, vì có kiểu lây lan khác thường, phần động các loại
Malware lây lan trên máy tính có kịch bản lây lan như sau:
Bước một: Tìm cách lây nhiễm vào máy tính đối tượng: -Mỗi loại sâu
hay trojan, spyware có cách lây nhiễm khác nhau, tùy theo cách hiệu quả mà
kẻ phát tán mong muốn.
B ư ớc hai : Sao chép vào thư mục hệ thống: Theo kinh nghiệm cho thấy
thư mục : “C:\Windows” thường là nơi ẩn náu của Malware. Đây là cách để
chúng giảm thiểu tối đa nguy cơ bị người xử dụng.tiêu diệt.
Bước ba: Đăng ký khởi động: có nhiều cách để chúng được hoạt động
cùng hệ thống, tuy nhiên cách thường gặp nhất là đăng ký một khóa trong
regedit tự chúng sẽ được hệ thống load khi khởi động.
Bước bốn: Thực hiện ý tưởng của người thiết kế: có thể là lây lan tiếp
tục như worm, ăn cắp mật khẩu như keylogger, hoặc thậm chí là thực hiện
tấn công một mạng máy tính khác (Botnet)
3.2, Nguyên tắc chung
3.2.1, Nguyên tắc phòng virus
1. Nguyên tắc đầu tiên: Xử dụng một trình diệt virus mạnh: Đây là cách
dễ dàng nhất để tìm và diệt virus tuy không phải là an toàn 100%.
2. Quét tất cả các gói tin và các thiết bị lưu trữ ngoài khi đưa về máy tính
( đặc biệt với các tệp tin thi hành)
3. Đóng băng ổ đĩa chứa hệ điều hành: phương pháp đơn giản nhất rất
hữu hiệu nếu máy tính phải nối mạng hay trao đổi dữ liệu với các thiết
bị khác. Có thể xử dụng phần mềm DeepFrezee để đóng băng ổ đĩa.
4. Chống sâu autorun Không bao giờ nháy đúp vào ổ cứng để lấy tài liệu
(), mà chỉ xử dụng cách sau:
Lê Nhật Tân - 16 - Lớp KT13D1

Hình minh họa cách xử dụng cách mở ổ đĩa an toàn
5. Mẹo bảo mật dữ liệu:
-Không xử dụng tài khoản Administrator để xử dụng, có thể xử dụng
tài khoản AdminComputer để thay thế.
-Không lưu trữ các thong tin quan trọng trong ổ đĩa chứa hệ điều
hành.
-Đặt thư mục My Document vào ổ đĩa phụ, cách thay đổi được minh
họa phía dưới:
Lê Nhật Tân - 17 - Lớp KT13D1
3.2.2, Tiêu diệt
Do các virus ngày nay biết rõ ai đối kháng với nó, nên một khi máy
tính đã bị nhiễm virus thì việc cài đặt phần mềm chống virus để diệt gần như
là một nhiệm vụ bất khả thi. Bởi vì khi virus đã được cài đặt vào máy tính
trước phần mềm Antivirus, nó sẽ chiếm thế thượng phong và luôn tìm cách
tiêu diệt phần mềm anti-virus khi bạn cố gắng cài chúng vào để diệt virus.
Phương thức tiêu diệt hiệu quả đơn giản nhất như sau:
• Sử dụng một máy tính mà bạn biết chắc là sạch virus,
cài đặt phần mềm chống virus lên trên đó và cập nhật lên bản
“vân tay” virus mới nhất. Phải chắc chắn tính năng tự động quét
virus được bật.
• Tháo ổ đĩa cứng ở máy bị lây nhiễm và lắp sang máy
tính đã cài phần mềm. Bạn phải chắc chắn ổ cứng bị nhiễm phải
được đặt ở chế độ Slave (ổ phụ), bởi vì nếu bạn đặt ở chế độ
Lê Nhật Tân - 18 - Lớp KT13D1
chính (Master) thì kết cục là khi bật máy lên, cả hai máy đều bị
nhiễm virus ngay lập tức.
• Bật máy, khởi động Windows trên máy có ổ cứng
sạch và dùng phần mềm chống virus ở máy sạch đó để quét
virus trên ổ nhiễm bệnh.
• Lắp trở lại ổ cứng đã được quét vào máy tính cũ.

Phương thức thứ hai đơn giản nhưng hiệu quả không cao: là xử
dụng một đĩaHiren Boot’s phiên bản mới nhất khởi động máy tính
từ đĩa này sau đó dung chương trình diệt virus của đĩa để diệt
virus từ trong DOS.
Nếu bạn cảm thấy quy trình trên quá phức tạp thì hãy nhờ các công ty
chuyên nghiệp. Trong trường hợp toàn hệ thống của bạn đều nhiễm virus
(không có máy tính sạch nào), thì việc xử lý cực kỳ khó khăn.
Ngoài ra, cũng có những phương cách khác như cài đặt lại máy tính, khởi
động Windows và phần mềm chống virus từ đĩa CD/DVD sạch để quét…
nhưng nói chung là rất khó cho những người sử dụng thông thường.
3.2.3, Xóa tàn tích
- cách xóa worm đang thường trú trên ổ đĩa
chú ý: bạn phải diệt worm từ trước ( các cách diệt đã nêu ở trên), sau
đó bạn vào DOS ( Nháy vào Start\Run gõ CMD) trong DOS đánh lệnh sau:
attrib –s –h –r autorun.inf để xóa các thuộc tính: hệ thống, ẩn và chỉ
đọc do sâu tạo ra trên tệp autorun.inf nếu nó thông báo “Files not found” thì
tức là tệp này không tồn tại
Bước 2: Bạn đánh lệnh: Edit autorun.inf
[autorun]
OPEN=VIUS.EXE
shell\open=Open
shell\open\Command=VIUS.EXE
shell\open\Default=1
shell\explore=Explore
shell\explore\Command=VIUS.EXE
Lê Nhật Tân - 19 - Lớp KT13D1
bạn sẽ thấy đại loại như hình phía trên trong đó virus.exe là chương
trình cần tiêu diệt. Bạn đánh tiếp lệnh attrib –s –h –r virusname.exe để xóa
bỏ thuộc tính cho chương trình.
Cuối cùng: bạn trở lại thư mục gốc theo cách tôi sẽ hướng dẫn phía

dưới và có thể thấy 2 tệp lúc nãy mà ta đã hủy bỏ thuộc tính. Bạn xóa chúng
đi và khởi động lại máy tính, tiêu diệt thành công các tàn tích của sâu
3.3, Xử dụng phần mềm JMS 1.0 diệt sâu và Trojan thủ công
3.3.1, Giới thiệu chung
Giới thiệu: Đây là mộ bộ công cụ giúp bạn tìm và diệt các loại sâu,
Trojan, spyware… một cách hiệu quả. Phần mềm có đầy đủ các chức năng
của các phần mềm của windows như quản lý tiến trình của Task Manager,
quản lý khởi động của MSCONFIG, quản lý tệp và thư mục như Windows
Explorer. Phần mềm được em và bạn Đào Đức Tuân viết
Các thầy và các bạn có thể download phiên bản mới nhất tại
www.truongton.110mb.com
Giao diện chương trình:
Lê Nhật Tân - 20 - Lớp KT13D1
3.3.2, Cách xử dụng
-Giao diện chức năng quản lý tệp và thư mục
Lê Nhật Tân - 21 - Lớp KT13D1
So với chương trình quản lý tệp và thư mục truyền thống: Tab File and
Folder có những ưu điểm sau:
+ Liệt kê tệp và thư mục ẩn
+ Phân tích đánh giá về tệp và thư mục
- Các chức năng:
+ Tùy chọn:
Liệt kê Folder: Chương trình sẽ liệt kê Folder tại đường dẫn đã chọn.
Liệt kê File: Chương trình sẽ liệt kê File tại đường dẫn đã chọn.
Hiện icon: Load thông tin kèm theo icon của chúng
Hiện màu sắc: Hiện màu sắc dựa vào thuộc tính của chúng.
Nhìn kiểu List: Tương đương với kiểu nhìn Details trong Windows
Nhìn kiểu Icon: Tương đương với kiểu nhìn List trong Windows
+ Tạo xóa thuộc tính:
Siêu ẩn: Hidden + System. Thuộc tính này thường dùng cho File hoặc

Folder quan trọng.
Tất cả thuộc tính: Archive + Read-Only + Hidden + System. Thuộc
tính này thường dùng cho File hoặc Folder hệ thống.
Xóa toàn bộ thuộc tính: Làm cho File hoặc Folder không có thuộc
tính nào nữa. Chức năng này thường được dùng để phá sự che dấu của các
tập tin Virus.
Chức năng quản lý khởi động
Lê Nhật Tân - 22 - Lớp KT13D1
- Các chức năng:
+ Cơ bản:
Xóa khởi động: Không cho chương trình khởi động cùng Windows
nữa.
Mở Regedit: Mở chương trình Regedit.exe có trong Windows.
Mở Msconfig: Mở chương trình Msconfig.exe có trong Windows
Sửa Key hệ thống: Sửa chữa key khởi động hệ thống khi Virus đăng
kí khởi động chèn vào các Key này.
+ Tạo khởi động:
Làm cho chương trình tự chạy khi Windows khởi động: Đặt tên miêu
tả + Chọn chương trình + Chọn khóa .
Chức năng quản lý process
- Các chức năng:
+ Tác động:
Tắt tiến trình: Bắt buộc chương trình phải kết thúc.
Đóng băng tiến trình: Làm cho chương trình dừng chạy nhưng
không phải là kết thúc chương trình.
+ Phân tích & So sánh:
Lê Nhật Tân - 23 - Lớp KT13D1
Tiến trình cùng loại: Các chương trình giống nhau đang chạy ( Dùng
chức năng này để nhận dạng các con Worm có chức năng nhân bản và chạy
cùng lúc với nhau )

Kiểm tra tiến trình: Kiểm tra các chương trình đang chạy với danh
sách các chương trình có hại đã được nhận dạng trước.
Tiến trình mới: So sánh các chương trình đang chạy với danh sách
các chương trình tại 1 thời điểm chuẩn do người dùng đánh dấu để tìm ra
chương trình mới.
3.3.3, Các chi tiết kỹ thuật
Chương trình có giao diện đẹp và dễ xử dụng, việt hóa hoàn toàn,
cách xử dụng đã được nói kỹ trong tệp trợ giúp kèm theo. Ở đây em chỉ xin
giới thiệu một số chi tiết kỹ thuật liên quan đến chương trình:
-JMS được viết trên ngôn ngữ Visual Basic 6.0 đây không phải là một
ngôn ngữ mạnh,chuyên nghiệp xong nó lại rất trong sang, đơn giản phù hợp
cho người thiết kế thực hiện ý tưởng.
-Chương trình được bọn em ( nhóm việt source ) viết khoảng 50% còn
lại là lấy từ các nguồn khác.
-Mã nguồn gồm 7 Form, 11 Module, 1 Class Module, 2 User Control
(phiên bản ngày 8-3-2008)
+Về Form: gồm một Form MDI lấy tên là FrmMain là form chính các
form :frmProcess, FrmFileFolder, FrmStarup làm form phụ có các chức
năng: quản lý tiến trình, tệp và thư mục, khởi động việc sắp đặt như vậy làm
chương trình gọn và dễ viết mã hơn.
+Về Module: gồm
1. mApi: tập trung các hàm API sử dụng cho chương trình lấy từ
caulacbovb.com
2. mFile: các hàm xử lý tệp và thư mục lấy từ pscode.com có sửa
chữa
3. mFun_Sub: các hàm và thủ tục dung chung cho cả chương
trình
4. mIcon: các hàm lấy Icon của tệp và thư mục
Lê Nhật Tân - 24 - Lớp KT13D1
5. mOther: các hàm và thủ tạc khác

6. mProcess: lấy các process đang hoạt động module lấy từ
caulacbovb.com
7. mShowProperties: hiện thuộc tính của tệp hay thư mục, nguồn
vblib
8. mShowRootkit: hàm dung để phát hiện rootkit đơn giản tác giả
phamtiensinh caulacbovb.com
9. mStartUp: lấy các chương trình khởi động cùng hệ thống,
nguồn pscode.com
10.mUniFunc: các hàm chuyển chuổi mô phỏng VNI sang
Unicode, tác giả thuongall, caulacbovb.com
11.mUniMsgBox: hiện thị msgbox tiếng việt, nguồn vblib
+Class Module: ComShow: hiện thị Comon dilog: để lấy đường dẫn
tệp được chọn. lấy từ vblib
+User Control: Nút bấm và Frame tự tạo
-Các thầy và các bạn có thể yêu cầu với em và bạn Tuân để lấy mã
nguồn chương trình.
3.3.4, Ba bước diệt sâu và Trojan
Bước 1: Kiểm tra các tiến trình lạ: Dựa theo kinh nghiệm và đường
dẫn do chương trình xác định bạn có thể dễ dàng nhận ra chương trình
nào là virus.
Bước 2: Hầu như tất cả virus đều tự tạo Key khởi động riêng cho mình để
được hệ điều hành mở khi vừa khởi động máy vì vậy đây cũng là một
phương pháp rất hiệu quả.
Một virus điển hình là một chương trình đang hoạt động trong hệ thống và
có key khởi động cùng hệ điều hành (Hãy thận trọng trước khi “Phán quyết”
một chường trình nào đó có phải virus hay không)
Bươc 3
Bạn đừng nghĩ rằng bạn ngắt ngay chương trình đó và xóa key của nó tạo
trong regedit đã là xong việc, bởi vì các virus thường để lại rất nhiều “Tàn
tích” trên máy tính của bạn, vì vậy nếu chỉ thực hiện các thao tác trên thì

chưa đủ. Bạn nên kiểm tra các ổ đĩa để tìm các tệp autorun.inf và sâu trong
Lê Nhật Tân - 25 - Lớp KT13D1
các ổ đĩa gốc. Chương trình có thể hỗ trợ bạn tìm và diệt các tệp có thuộc
tính ẩn và hệ thống ( siêu ẩn) vì vậy bạn có thể dễ dàng tiêu diệt chúng
3.4, Cài đặt và xử dụng phần mềm Kaspersky Anti-Virus
Ngày nay các phần mềm chống virus cũng có nhiều và nhiều phần
mềm được quảng cáo rầm rộ khắp nơi. Tuy nhiên theo kinh nghiệm của em
trong ngành máy tính, thì ngoại trừ việc cái tên Kaspersky ị nhắc đi nhắc lại
quá nhiều lần đến nhàm chán, đây vẫn là hãng phần mềm số một trong việc
xử lý virus. Bản Antivirus tốt nhất là Kaspersky Antivirus Corporate Edition
với những ưu điểm sau:
• Số lượng virus quét được rất lớn, lên đến trên dưới
tám mươi ngàn các loại virus khác nhau (cần lưu ý là phần mềm
BKAV của Việt Nam chỉ diệt được trên một ngàn virus, nghĩa
là xác suất diệt thành công là 2%).
• Chế độ cập nhật vân tay (Virus Definition)
được thực hiện qua Live Update tự động và cho phép bạn cập
nhật vĩnh viễn (thậm chí dù bạn có dùng bản phần mềm lậu –
tất nhiên chúng tôi không cổ súy cho phần mềm lậu, nhưng nó
thể hiện trách nhiệm của Kaspersky đối với sự an toàn của cộng
đồng).
• Tốc độ quét rất cao. Bạn nên lưu ý là với
mỗi tác vụ bất kỳ nào của Windows, Kasperskycũng kiểm tra
nó với cơ sở dữ liệu mẫu hàng trăm ngàn virus, do đó bạn sẽ
thấy là Kaspersky hạy thực sự nhanh. Đôi khi có những phần
mềm chạy nhanh hơn Kaspersky Antivirus, nhưng thực tế là có
rất nhiều hành động có thể làm lây lan virus mà nó không kiểm
soát được, hoặc CSDL vân tay quá ít nên khả năng tiêu diệt
virus bị hạn chế.
• Các kỹ sư của hãng cập nhật rất nhanh các

virus mới xuất hiện, kể cả trong ngày nghỉ. Có thể bạn nghĩ
rằng các virus nội địa (Việt Nam) thì Kaspersky không biết nên
không quét được, nhưng như vậy có lẽ là bạn đã đánh giá hơi
thấp Kaspersky.
• Cơ chế quét và xử lý rất an toàn. Khả năng
nhận dạng nhầm virus (tức là nhận dạng nhầm dữ liệu tốt thành
virus) hoặc khả năng phá hủy mất dữ liệu của bạn sau khi sửa
chữa virus (tức là tài liệu bạn đang dùng bị nhiễm virus nhưng

×