Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP-PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ CHÍNH THỨC VÀ KHU VỰC KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 124 trang )

PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

CHƯƠNG I
PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA
KHU VỰC KINH TẾ CHÍNH THỨC VÀ
KHU VỰC KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC

37


38

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

1.1

LAO ĐỘNG PHI CHÍNH THỨC

VÀ NGHÈO ĐĨI Ở CHÂU MỸ LATIN.
TRƯỜNG HỢP CỦA ARGENTINA,
BRAZIL, CHILE VÀ PERU

Roxana Maurizio

Giới thiệu1
Châu Mỹ Latin vẫn là châu lục của sự bất bình đẳng và nghèo đói. Khía
cạnh nổi bật của tình trạng này là thị trường lao động không ổn định cùng với
một hệ thống an sinh xã hội rất hạn chế. Mức độ bảo hiểm thất nghiệp ít ỏi


buộc những người mất việc trong khu vực chính thức phải nhanh chóng tìm
những việc làm bấp bênh hoặc lao động tự do vì họ khơng có đủ thời gian để
tìm kiếm cơng việc phù hợp.
Trong bối cảnh thiếu vắng một hệ thống an sinh xã hội mở rộng, cần xác
định mối liên hệ giữa tình trạng lao động và mức độ đói nghèo của các hộ
gia đình. Trên thực tế, tình trạng hội nhập lao động kém - tính theo số lượng
giờ làm việc và chất lượng công việc - đã tạo nên hiện tượng “người lao động
nghèo” khá phổ biến ở các nước Mỹ Latin và cho thấy rằng có việc làm khơng
có phải là bảo đảm không rơi vào nghèo khổ.
1

Phiên bản trước của báo cáo này đã được trình bày tại Hội nghị về khu vực phi chính thức và việc làm
phi chính thức, ngày 06- 7 tháng Năm 2010, Hà Nội. Tôi muốn cảm ơn Luis Beccaria, Aureo de Paula và
các đại biểu tham dự hội nghị này đã cho ý kiến đóng góp và cũng cảm ơn Ana Laura Fernández và Paula
Monsalvo đã hợp tác nhiệt tình.

39


40

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Trong một khu vực với tỉ lệ lao động bấp bênh, mức độ phi chính thức và
tỉ lệ nghèo đói cao, cần phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng này. Bài viết
này nhằm mục đích phân tích so sánh hai khía cạnh liên quan tới phi chính
thức. Khía cạnh đầu tiên là mối liên hệ giữa phi chính thức và tình trạng thu
nhập phân khúc. Khía cạnh thứ hai là mối quan hệ giữa phi chính thức và
nghèo đói, và đặc biệt là các cơ chế trực tiếp và gián tiếp mà thơng qua đó
quan hệ này được xác minh.

Bốn nước Mỹ Latin có lao động phi chính thức khác nhau đáng kể về quy
mô và đặc điểm đã được lựa chọn. Argentina và Chile có IS tương đối nhỏ
trong bối cảnh châu Mỹ Latin; trong khi đó Brazil và Peru có IS khá lớn. Dữ
liệu được sử dụng trong bài viết này dựa trên các cuộc điều tra hộ gia đình
được cập nhật mới nhất. Nghiên cứu này là một trong những nghiên cứu đầu
tiên phân tích so sánh mối liên hệ giữa phi chính thức, sự phân khúc, và
nghèo đói ở Mỹ Latin.
Phần tiếp theo trình bày tổng quan các khn khổ lí thuyết khác nhau
về khái niệm phi chính thức và phân khúc thu nhập. Phần 2 đề cập chi tiết
các tiêu chí khác nhau dùng để đo lường mức độ phi chính thức cũng như
các phương pháp ước tính được sử dụng. Phần 3 mô tả các nguồn thông tin.
Phần 4 giới thiệu một vài nét chính về mức độ và đặc điểm phi chính thức tại
các quốc gia được lựa chọn. Hai phần tiếp theo trình bày các kết quả kinh tế
lượng: trong phần 5 các kết quả liên quan đến chênh lệch thu nhập lao động
gắn với tình trạng phi chính thức, phần 6 các kết quả liên quan đến tác động
độc lập của tình trạng phi chính thức đối với tỉ lệ đói nghèo. Cuối cùng, phần
7 trình bày các kết luận.

1. Phi chính thức, phân khúc thu nhập và nghèo đói:
một số vấn đề lí thuyết
1.1 Việc làm trong khu vực chính thức và việc làm phi chính thức (IE)
Lao động phi chính thức là một trong các đề tài được phân tích và được
coi là đặc điểm nổi bật của tình trạng lao động ở châu Mỹ Latin. Có ít nhất
hai cách tiếp cận khác nhau về khái niệm khác nhau liên quan đến lao động


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

phi chính thức, như trình bày bên dưới:
Phương pháp


Khái niệm liên quan

Sản xuất

Khu vực phi chính thức (IS) / Khu vực chính thức (FS).
Việc làm trong khu vực phi chính thức (EIS) / Việc làm trong Khu vực chính
thức

Lao động

Việc làm phi chính thức (IE) (Người lao động phi chính thức) / Việc làm chính
thức (FE) (Người lao động chính thức)

Khái niệm IS (IS) xuất hiện vào đầu những năm 1970, trong các tài liệu
của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO, 1972) về các nước châu Phi. Sau đó
Chương trình việc làm khu vực Mỹ Latin và vùng Caribe (“PREALC” chữ viết
tắt tiếng Tây Ban Nha) phát triển khái niệm này cho châu Mỹ Latin nhằm lí
giải sự gia tăng của một bộ phận lớn dân cư, những người không thể tham
gia vào q trình hiện đại hóa sản xuất thơng qua thị trường lao động chính
thức. Theo cách tiếp cận “sản xuất”, tình trạng phi chính thức phản ánh sự
bất lực của các nền kinh tế trong việc tạo ra đủ việc làm trong khu vực chính
thức nhằm theo kịp sự phát triển của lực lượng lao động. IS thường gắn với
các cơ sở sản xuất nhỏ có năng suất thấp và thường phải vật lộn để sống cịn
và ít khả năng tích lũy tài sản. Cơng việc được tạo ra trong lĩnh vực này được
gọi là việc làm trong khu vực phi chính thức (EIS).
Cùng với khái niệm dựa trên “cách tiếp cận sản xuất”, việc làm phi chính
thức (IE) là một khái niệm được phát triển trong những năm gần đây. Dựa trên
“cách tiếp cận lao động”, IE đề cập đến một khía cạnh khác của phi chính thức
và tập trung vào điều kiện làm việc. Đặc biệt, cách tiếp cận này gắn khái niệm

phi chính thức với việc trốn tránh các quy định lao động, định nghĩa IE là tình
trạng người lao động khơng chịu sự điều tiết của pháp luật về lao động.
Trong bài viết này, cả hai cách tiếp cận “sản xuất “ và “lao động “ sẽ được
xem xét để xác định tính chất đặc thù của mỗi khía cạnh và mối liên hệ giữa
các khía cạnh này.

1.2 Tình trạng phi chính thức và phân khúc thu nhập
Khái niệm về phân khúc thu nhập được sử dụng ở đây để chỉ sự khác biệt
về thu nhập lao động khơng do các thuộc tính cá nhân của người lao động
tạo ra. Điều đó có nghĩa là chênh lệch về thu nhập liên quan tới một số đặc

41


42

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

điểm của việc làm. Đặc biệt, bài viết này so sánh hai người lao động có các
thuộc tính cá nhân tương tự để xác định xem thù lao của họ có khác nhau hay
khơng phụ thuộc vào thực tế họ làm việc trong khu vực chính thức (FS) hay
trong IS. Cách lí luận tương tự được áp dụng cho mức chênh lệch thu nhập lao
động giữa việc làm phi chính thức và chính thức.
Tính phi chính thức được định nghĩa theo một trong hai phương pháp tiếp
cận sản xuất và lao động là thích đáng với cả hai trường hợp có và khơng có
phân khúc thu nhập. Trong trường hợp khơng có phân khúc thu nhập, theo
“cách tiếp cận sản xuất “ có thể lập luận rằng nếu khơng bị hạn chế, các lao
động dư thừa khi khơng có thể gia nhập khu vực chính thức sẽ chuyển đến
các IS có năng suất thấp hơn và sẽ gây ra mức giảm chung về tiền lương, cả
trong các lĩnh vực chính thức và phi chính thức. Theo “tiếp cận lao động”,

tình trạng phi chính thức khơng có phân khúc có thể diễn ra nếu lao động
chính thức và phi chính thức nhận cùng một mức thù lao sau khi đã trừ chi
phí, ngay cả khi trong trường hợp lao động phi chính thức người sử dụng lao
động phải chịu thêm chi phí liên quan tới các quy định về lao động.
Ngược lại, có lập luận khác đề cập tới sự tồn tại của việc chia phân khúc
thu nhập liên quan đến phi chính thức ngay cả khi khơng có hạn chế về di
chuyển lao động, hay các hạn chế khác của quy định về lao động. Một trong
những lập luận này cho rằng, các công ty nhỏ - tiêu biểu cho IS - thường có
năng suất thấp hơn, và do đó trả thù lao trung bình thấp hơn. Tương tự như
vậy, việc khơng thực hiện các nghĩa vụ thuế có thể giảm hiệu quả và năng
suất của các công ty, cũng sẽ dẫn đến các mức lương thấp hơn cho người lao
động phi chính thức so với những người lao động chính thức (Beccaria và
Groisman, 2008). Tuy nhiên, chỉ sự tồn tại của chênh lệch năng suất thôi là
không đủ để tạo sự phân khúc tiền lương. Vì vậy, cần giải thích lí do tại sao
các lực lượng cân bằng của thị trường khơng hoạt động và vì sao một số cơng
ty - có năng suất cao hơn - lại trả lương cao hơn so với các công ty khác.
Một giả thuyết dựa trên lí thuyết tiền lương hiệu quả, cho rằng người sử
dụng lao động có thể quyết định trả lương cao hơn mức lương của thị trường
nhằm giảm hiện tượng lao động bỏ việc, hoặc để khuyến khích nhân viên nỗ
lực làm việc nhiều hơn2. Hiện tượng phân khúc thu nhập có thể diễn ra nếu

2

Stiglitz (1981); Shapiro và Stiglitz (1984).


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

các công ty trong khu vực chính thức sử dụng cơ chế này thường xuyên hơn
so với các công ty trong IS. Đồng thời, sự tồn tại của thị trường lao động nội

bộ trong các cơng ty thuộc khu vực chính thức có thể tách người lao động
khỏi ảnh hưởng từ các đối thủ cạnh tranh bên ngoài, đặc biệt là người lao
động có trình độ cao, qua đó tạo ra chênh lệch tiền lương với người lao động
phi chính thức.
Ngồi ra, theo “phương pháp tiếp cận lao động”, có thể nói rằng việc thực
hiện các chuẩn mực lao động không chỉ ảnh hưởng đến tổng chi phí lao động
mà cịn đến mức lương ròng trả cho người lao động. Tác động của tiền lương tối
thiểu, thương lượng tập thể và công đồn về cơ cấu tiền lương là những ví dụ về
tác động của chuẩn mực lao động đến mức lương rịng trả cho người lao động.
Do đó, một nguồn khác tạo ra sự phân khúc tiền lương có thể là do một số người
lao động được pháp luật lao động hoặc cơng đồn bảo vệ, trong khi những người
lao động có các thuộc tính tương tự lại khơng được hưởng sự bảo vệ này.
Cuối cùng, nếu có sự chồng lấn trong hai cách tiếp cận và mức độ không
thực hiện pháp luật lao động trong các cơng ty phi chính thức cao hơn, các
yếu tố được nêu sẽ bổ sung cho nhau để giải thích sự tồn tại của tình trạng
phân khúc. Ví dụ, một người lao động có các thuộc tính cá nhân nào đó làm
việc cho một cơng ty nhỏ có thể có một mức lương thấp hơn so với một nhân
viên khác với các đặc điểm tương tự nhưng làm việc cho một công ty lớn hơn,
do cả hai nguyên nhân là năng suất thấp hơn và các cơng ty nhỏ nói chung
chịu áp lực cơng đồn ít hơn hoặc không tuân thủ các quy định lao động,
chẳng hạn như mức lương tối thiểu.
Về phía người lao động, một điều kiện quan trọng dẫn tới các kết quả này
là FE được tạo ra hoặc tạo ra trong khu vực chính thức khơng đáp ứng đủ nhu
cầu, khiến họ phải chấp nhận thù lao thấp hơn hoặc điều kiện làm việc bấp bênh
hơn. Hành vi này lại được tăng cường bởi tình trạng thiếu hoặc yếu kém của cơ
chế an sinh xã hội. Ở mức độ nào đó, đây là hiện trạng tại các nước Mỹ Latin.

1.3 Phi chính thức và nghèo đói
Có thể xác định mối quan hệ giữa phi chính thức và nghèo đói có thể
có hoặc có thể khơng thơng qua trung gian là tình trạng phân khúc. Trong

trường hợp không thể, chừng nào phân khúc cịn được xác định là tình trạng
người lao động không nhận đủ thù lao để đáp ứng nhu cầu của gia đình, tình

43


44

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

trạng phi chính thức sẽ cấu thành một yếu tố độc lập liên quan đến tình trạng
nghèo đói của hộ gia đình.
Có thể xảy ra trường hợp khơng có phân khúc gắn với tình trạng phi
chính thức khi người lao động rơi vào tình trạng đói nghèo do thu nhập gắn
với một số đặc điểm cá nhân dù họ làm trong khu vực chính thức hay phi
chính thức. Tuy nhiên, nếu những đặc điểm này là phổ biến hơn ở người lao
động phi chính thức so với người lao động chính thức (hoặc phổ biến trong
IS hơn FS), thì cấu tạo lao động khác nhau này sẽ có nghĩa là người lao động
phi chính thức (EIS) tính trung bình sẽ có thu nhập thấp hơn so với người
lao động chính thức (EFS) và do đó sẽ có xác suất rơi vào tình trạng nghèo
đói cao hơn. Điều này có thể được xác định là một “hiệu ứng cấu tạo”. Như
Beccaria và Groisman (2008) đã đề cập, điều này có thể là trường hợp của
những người lao động có tay nghề thấp, có mức lương thấp dù làm việc chính
thức hoặc phi chính thức, nếu họ chiếm tỷ trọng quá cao trong IS và/hoặc
trong các ngành nghề phi chính thức.
Bằng cách tổng hợp các lập luận khác nhau trình bày ở trên, bài viết này
có mục đích đánh giá sự sự tồn tại của mối quan hệ có thể có giữa tình trạng
phi chính thức, sự phân khúc, và đói nghèo tại bốn quốc gia Mỹ Latin.

2. Cách tiếp cận và phương pháp luận

2.1 Đo lường tình trạng phi chính thức
Hội nghị quốc tế về Thống kê Lao động của ILO (ICLS) lần thứ 15 và 17 đã
thiết lập các tiêu chí phân loại người lao động chính thức và phi chính thức.
Theo “cách tiếp cận sản xuất”, EIS được xác định là nhóm người lao động
làm việc trong các cơ sở sản xuất nhỏ không đăng ký kinh doanh, sử dụng ít
vốn và cơng nghệ.
Tuy nhiên, do các cuộc điều tra hộ gia đình khơng tìm hiểu sâu về đặc
điểm của các công ty, ILO đề xuất áp dụng tiêu chuẩn đo lường dựa trên sự
kết hợp các loại nghề nghiệp, các nhóm nghề nghiệp được xác định theo trình
độ tay nghề, và quy mô của công ty. Bằng cách này, có thể xác định hai thành
phần chính của IS: (1) Các đơn vị gia đình bao gồm người lao động tự làm chủ


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

và người lao động gia đình, và (2) Doanh nghiệp siêu nhỏ gồm người sử dụng
lao động và nhân viên tại các cơ sở có ít hơn năm nhân viên. Trong trường
hợp người lao động độc lập, chỉ những người khơng có kỹ năng chuyên môn
mới được coi là thuộc IS, đây là một biện pháp chỉ giữ lại người lao động độc
lập với năng suất thấp trong lĩnh vực này. Cuối cùng, khu vực công được loại
trừ ra khỏi IS.
Mặt khác, như đã đề cập, IE được xác định là nhóm nghề nghiệp không
tuân thủ quy định lao động: người hưởng lương không đăng ký, lao động độc
lập và người sử dụng lao động không thực hiện nghĩa vụ thuế của họ.
Cũng theo đề xuất của ILO, do thông tin từ các cuộc điều tra hộ gia đình
khơng đầy đủ, trong trường hợp người lao động độc lập, tính chất chính thức/phi
chính thức của họ được trực tiếp xác định bởi các đặc điểm của doanh nghiệp của
họ: người lao động độc lập và người sử dụng lao động phi chính thức là những
người làm việc trong các doanh nghiệp thuộc IS. Vì vậy, việc phân loại người lao
động theo tình trạng họ đồng thời thuộc về IS hay FS, thuộc về EIS hoặc EFS là

thú vị hơn đối với những người hưởng lương vì với những người khơng hưởng
lương cả hai phân loại trùng nhau. Cuối cùng, người lao động làm việc cho gia
đình và khơng hưởng lương được coi là đồng thời thuộc về IE và EIS.
Biểu đồ bên dưới nêu chi tiết phân loại các nhân viên theo cả hai phương
pháp tiếp cận:
Việc làm chính thức

Việc làm phi chính thức

Việc làm trong khu vực
chính thức

- Người hưởng lương chính thức (hưởng lương
có đăng ký) trong FS
- Người khơng hưởng lương chính thức

Người hưởng lương phi chính thức (hưởng
lương khơng đăng ký) trong FS

Việc làm trong khu vực
phi chính thức

- Người hưởng lương chính thức (hưởng lương
có đăng ký) trong IS

- Người hưởng lương phi chính thức (hưởng
lương khơng đăng ký) trong IS
- Người khơng hưởng lương phi chính thức
- Lao động gia đình khơng hưởng lương


2.2. Cách tiếp cận ngưỡng nghèo tuyệt đối đối để xác định tình
trạng nghèo
Cách tiếp cận nghèo tuyệt đối đối để xác định tình trạng nghèo được sử
dụng trong bài viết này dựa trên phương pháp chính thức của mỗi nước trừ
Peru. Cụ thể là hộ gia đình được phân loại nghèo nếu tổng thu nhập tiền tệ

45


46

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

của hộ - được đo trong khảo sát hộ gia đình, thấp hơn chuẩn nghèo tuyệt đối
được xác định dựa trên quy mơ và thành phần của hộ gia đình3. Tại Peru, mức
nghèo đói chính thức được tính dựa trên việc so sánh ngưỡng nghèo với tổng
chi tiêu của hộ gia đình. Trong trường hợp này, để áp dụng phương pháp được
giải thích dưới đây, tiêu chí mới về hộ nghèo dựa trên so sánh tổng thu nhập
với ngưỡng nghèo được xây dựng.

2.3 Phương pháp luận
Các phân tích được thực hiện trong bài viết này gồm hai phần chính.
Phần đầu có mục đích ước tính mức chênh lệch về thu nhập liên quan đến phi
chính thức. Theo giả thuyết về phân khúc liên quan đến phi chính thức, người
lao động trong khu vực IS và/hoặc người lao động phi chính thức nhận mức
lương thấp hơn người lao động có các đặc tính cá nhân tương tự nhưng làm
việc trong FS hoặc là người lao động chính thức. Phần hai có mục đích đánh
giá xem ở mức độ nào thì sự phân khúc thu nhập liên quan đến phi chính
thức là một yếu tố độc lập liên quan đến nghèo đói.
Để làm điều này, một số phương pháp parametric và non-parametric được

thực hiện để kiểm định mức độ vững chắc của các kết quả. Từng phương pháp
này được mô tả chi tiết dưới đây.
Chênh lệch về thu nhập, phi chính thức và sự phân khúc
1. Trước tiên, chênh lệch mức lương trung bình giữa các IE (EIS) và FE
(EFS) được ước tính bằng cách sử dụng các phương trình Mincer dựa trên hồi
quy OLS. Đây là phương pháp phổ biến nhất khi phân tích các ảnh hưởng của
biến độc lập đối với thu nhập lao động, trong khi loại trừ tác động của các
đồng biến (covariates). Liên quan tới các vấn đề chính trong nghiên cứu này,
hệ số của biến xác định tính phi chính thức lượng hóa tác động độc lập đối với
việc xác định tiền lương. Các ước tính này này được điều chỉnh trên cơ sở tính
đến sai lệch lựa chọn mẫu thơng qua sử dụng ước tính hai bước Heckman.
3

Giá trị của một giỏ lương thực danh nghĩa đáp ứng yêu cầu dinh dưỡng tính đến mức tiêu thụ của “quần
thể tham chiếu”. Chuẩn nghèo chung được tính bằng cách nhân giá trị của giỏ lương thực danh nghĩa với
nghịch đảo của hệ số Engel của quần thể tham chiếu. Các ngưỡng nghèo này đã được xây dựng theo cách
tiếp cận Orshansky (1965) cho nước Mỹ và sau đó được ECLAC (1991) áp dụng rộng rãi ở châu Mỹ Latin.
Giá trị của chuẩn nghèo được cập nhật thường xuyên theo sự biến đổi giá của giỏ thực phẩm và những
thay đổi trong tỉ lệ giá tiêu dùng thực phẩm/phi thực phẩm.


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

2. OLS chỉ ước tính ảnh hưởng của các đồng biến ở phần trung tâm của
phân bố có điều kiện. Tuy nhiên, cần xác định tác động của các đồng biến
trên toàn bộ phân phối có điều kiện của thu nhập. Để làm điều đó, mơ hình
hồi quy điểm phân vị (QR)4 được áp dụng nhờ đó có thể đánh giá xem chênh
lệch tiền lương không đổi, tăng hoặc giảm trên đường phân phối có điều
kiện. Các ước tính này cũng được điều chỉnh trên cơ sở tính đến sai lệch lựa
chọn mẫu5.

3. Từ kết quả ước tính phương trình lương, phương pháp phân tách
Oaxaca Blinder cho phép phân tách mức chênh lệch thu nhập trung bình
giữa người lao động chính thức và phi chính thức (hoặc của FS và IS) thành
ba hiệu ứng: các “Hiệu ứng nguồn lực”, thuộc về sự khác biệt bắt nguồn từ
sự khác biệt trong vector của các đặc điểm của mỗi nhóm, các “Hiệu ứng hệ
số”, tương ứng với sự khác biệt trong mức độ hiệu quả trong việc sử dụng
các đặc tính đó, và “Hiệu ứng tương tác”. Giả thuyết phân khúc được xác
nhận nếu hiệu ứng thứ hai có ý nghĩa thống kê và dương, qua đó chỉ ra rằng,
với thuộc tính như nhau, một nhân viên chính thức (hoặc nhân viên của FS)
nhận mức lương cao hơn so với một nhân viên phi chính thức (hoặc nhân
viên của IS). Các ước tính này cũng được điều chỉnh trên cơ sở tính đến sai
lệch lựa chọn mẫu.
4. Một cách khác để đo lường sự phân khúc gắn với phi chính thức là
thơng qua mức chênh lệch cá nhân về lương giữa người lao động chính thức
và phi chính thức. Trong trường hợp này, sự phân khúc thu nhập được đo
bằng cách xem xét sự khác biệt giữa thu nhập của một nhân viên phi chính
thức và thu nhập của chính người này khi làm việc chính thức (tức là thu
nhập phản thực (counterfactual) của người lao động phi chính thức). Để tính
mức thu nhập trong trường hợp làm việc chính thức, bước đầu tiên là ước
tính các phương trình tiền lương cho người lao động chính thức và sau đó áp
dụng các thơng số kết quả cho từng người lao động phi chính thức dựa trên
đặc điểm của người này. Các thông số này được ước tính bởi OLS. Một khi tính
được chênh lệch tiền lương của từng người lao động phi chính thức, có thể
biểu diễn phân bố của biến này và ước tính khơng chỉ giá trị trung bình mà

4

Koenker và Bassett (1978).

5


Tannuri-Pianto và Pianto (2002) áp dụng thủ tục tương tự cho Brazil.

47


48

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

cịn các chỉ số khác với những đặc tính thích hợp cho việc phân tích sự khác
biệt và phân khúc6. Chênh lệch cá nhân thu được như sau:

Gapij =

eij − wij
eij

[1]

trong đó eij là ước tính phản thực của thu nhập cá nhân thứ j như thể người
này làm chính thức, trong khi wij là mức lương ước tính cho người lao động
phi chính thức dựa trên các thơng số ước tính cho người lao động phi chính
thức.
5. Cuối cùng, phương pháp Hàm ước tính Phù hợp (Matching Estimator
Method) là một phương pháp phi tham số (non-parametric) để ước tính tác
động của phi chính thức đối với thu nhập lao động. Các tham số cần quan
tâm là các hiệu ứng khảo sát trung bình trên yếu tố được khảo sát (Average
Treatment Effect on the Treated) (ATT), được định nghĩa là:


θ ATT = E (τ | D = 1) = E[Y (1) | D = 1] − E[Y (0) | D = 1] [2]
trong đó E[Y (1) | D = 1] là giá trị kỳ vọng của nhóm khảo sát trong trường
hợp nhóm được khảo sát, và E[Y (0) | D = 1] là giá trị kỳ vọng cho nhóm khảo
sát trường hợp nhóm khơng được khảo sát.
Do tình trạng phản thực này không quan sát được, cần sử dụng một
phương pháp thay thế để ước tính ATT. Cách chính xác nhất để xác định
chuyện gì sẽ xảy ra với nhóm khảo sát trong trường hợp không được khảo
sát là xem xét tình hình của các cá nhân khơng được khảo sát với các đặc
điểm ngang bằng (hoặc tương tự) (nhóm đối chứng). Một trong những
phương pháp được sử dụng để xây dựng các nhóm đối chứng là phương
pháp Ước tính xu hướng điểm phù hợp7 (Propensity Score Matching
Estimator), trong đó số điểm xu hướng tham gia của toàn bộ mẫu được
ước tính và các cá nhân thuộc nhóm khảo sát và nhóm đối chứng có số
điểm tương tự được xác định và xếp chung. Trong trường hợp chúng tơi

6

Del Río và những người khác. (2006) áp dụng biện pháp chênh lệch cá nhân để ước tính mức phân biệt
đối xử về lương giữa nam và nữ tại Tây Ban Nha

7

Do Rosenbaum và Rubin (1983) phát triển.


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

đang phân tích, IE (và EIS) được xem như là nhóm khảo sát, trong khi FE
(và EFS) là nhóm điều khiển.
Có nhiều cách khác nhau để xác định cá nhân nào trong nhóm đối chứng

sẽ tương ứng với các cá nhân nào trong nhóm khảo sát. Một biện pháp được
sử dụng ở đây là Ước tính Kernel, trong đó kết quả của cá nhân đã được khảo
sát được gắn với một kết quả phù hợp được xác định bởi một trung bình gia
quyền kernel của kết quả của tất cả các cá nhân khơng được khảo sát. ATT
được ước tính như sau:

ATT =

1
Nn



∑ ⎜ w − ∑κ

i∈n



i

j∈ f

ij


w j ⎟ [3]




trong đó wi và w j lần lượt là mức lương của từng nhân viên chính thức và phi
chính thức, κ ij là Kernel và N n là số lượng người lao động phi chính thức.
Phi chính thức và nghèo đói
Như đã đề cập, một trong những mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá
xem ở mức độ nào thì sự phân khúc thu nhập liên quan đến phi chính thức là
yếu tố thích đáng để giải thích tình trạng nghèo đói của hộ gia đình.
Do đó, sau khi ước tính chênh lệch tiền lương gắn với phi chính thức,
tác động độc lập của tình trạng phi chính thức đối với đói nghèo được tính
tốn. Để làm như vậy, chúng tơi đã thực hiện các mô phỏng nhỏ mô phỏng
tỉ lệ nghèo trong trường hợp IE nhận được thù lao tương tự như những lao
động chính thức (hoặc nếu EIS được trả lương như các EFS). Tổng cộng
thu nhập phản thực của gia đình được tính bằng cách nhân thù lao thực tế
hàng tháng của người lao động phi chính thức với giá trị của tỷ số (ratio)
giữa thu nhập ước tính của một nhân viên chính thức với một nhân viên
phi chính thức có các thuộc tính ngang bằng nhau8. Giả định ở đây là phần
thu nhập còn lại của gia đình là khơng đổi. Cuối cùng, tổng số thu nhập
phản thực của gia đình được so sánh với ngưỡng nghèo để ước tính mức
độ đói nghèo sẽ như thế nào nếu khơng có tình trạng phân khúc do phi
chính thức.

8

Thu nhập lao động được ước tính là các kết quả đã tính được qua hàm OLS.

49


50

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN


3. Nguồn thông tin
Dữ liệu được sử dụng trong bài báo này dựa trên các cuộc điều tra hộ gia
đình thường xuyên của mỗi quốc gia được nghiên cứu. Đối với mỗi trường
hợp, dữ liệu vĩ mô cơ bản cập nhật nhất được sử dụng.
- Argentina. Encuesta Permanente de Hogares (Ep). Nửa sau năm 2006.
- Brazil. Pesquisa Nacional por Amostra de Domicilios (PNAD). Năm 2006.
- Chile. Encuesta de Caracterización Socioeconómica Nacional (CASEN).
Năm 2006.
- Peru. Encuesta Nacional de Hogares sobre Condiciones de Vida y Pobreza
(ENAHO). Năm 2007.
Như đã đề cập ở phần trên, nhân viên không đăng ký là những người
hưởng lương không được pháp luật lao động điều chỉnh. Việc xác định thực
nghiệm về điều kiện đăng ký lao động hưởng lương tại các quốc gia này được
dựa trên các thông tin được lấy từ các cơ sở dữ liệu này. Tại Argentina, một
người lao động hưởng lương được coi như đã đăng ký trong hệ thống an sinh
xã hội nếu được người sử dụng lao động trả tiền đóng góp an sinh xã hội. Tại
Chile và Brazil, một người lao động hưởng lương được coi như đã đăng ký nếu
anh/cô ấy ký hợp đồng lao động. Tại Peru, người lao động đăng ký là những
người có quyền hưởng lương hưu.
Do mức độ không đồng nhất cao giữa thị trường lao động thành phố và
nông thôn và do thực tế là các cuộc điều tra hộ gia đình tại Argentina chỉ bao
gồm các khu vực đô thị, bài viết này sẽ chỉ tập trung vào khu vực này.

4. Tổng quan về phi chính thức tại bốn quốc gia châu
Mỹ Latin
Mục đích của phần này là trình bày khái qt về tầm quan trọng và đặc
điểm của IE và EIS tại bốn quốc gia được nghiên cứu. Bảng 1 cho thấy EIS và
IE chiếm hơn 1/3 tổng số người lao động ở các nước này. Peru nằm ở thái cực
nơi mà EIS (bao gồm cả người làm việc trong gia đình) chiếm 56% lực lượng

lao động làm việc trong khi đó IE (bao gồm cả lao động phi chính thức trong


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

gia đình) chiếm 67% tổng số người lao động. Ở thái cực khác là Chile, nơi
những con số này giảm xuống lần lượt là 35% và 38%.
Bảng 1. Tỉ lệ phi chính thức trong thị trường lao động thành phố
2006/2007 (%)
Loại công việc
Người khơng hưởng lương chính thức

ARGENTINA PERU
4,4

5,6

BRAZIL

CHILE

2,8

3,7

Người khơng hưởng lương phi chính thức

21,6

31,1


22,6

20,6

Người khơng hưởng lương chính thức trong FS

38,4

24,8

36,2

51,8

Người khơng hưởng lương phi chính thức trong FS

10,4

13,5

10,3

9,1

Người khơng hưởng lương chính thức trong IS

3,8

2,2


5,6

4,0

Người khơng hưởng lương phi chính thức trong IS

10,6

10,7

8,7

3,8

Dịch vụ gia đình chính thức

0,8

0,6

2,5

2,3

Dịch vụ gia đình phi chính thức

8,7

5,0


6,4

3,9

Lao động gia đình khơng hưởng lương

1,3

6,4

4,9

0,9

Tổng việc làm

100

100

100

100

Việc làm trong khu vực phi chính thức (kể các dịch vụ gia đình)

46,8

56,1


50,6

35,4

Việc làm trong khu vực phi chính thức (khơng kể các dịch vụ gia
đình)

37,3

50,5

41,0

29,3

Việc làm phi chính thức (kể các dịch vụ gia đình phi chính thức)

52,6

66,8

52,9

38,3

% lao động hưởng lương phi chính thức trong tổng lao động
hưởng lương

40,8


51,5

36,5

22,4

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên các dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình.

Trong tất cả các trường hợp, IE cao hơn EIS. Nếu khơng tính dịch vụ gia đình,
mức giảm tầm quan trọng tương đối của EIS là lớn hơn ở Argentina, các hoạt
động này chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng số việc làm so với các nước khác.
Do đó, sự khác biệt giữa Argentina-Chile và giữa Brazil-Peru trở nên rõ ràng hơn.
Các loại công việc khác nhau phát sinh từ việc phân loại trùng về phi
chính thức cũng cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nước. Ví dụ, số lượng
người khơng hưởng lương phi chính thức khá lớn ở Peru, nơi mà họ chiếm
khoảng 1/3 tổng số việc làm. Tại Chile, 50% tổng số người lao động là người
hưởng lương chính thức của khu vực chính thức, trong khi con số này giảm

51


52

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

xuống khoảng 40% ở Argentina và Brazil (mặc dù họ vẫn chiếm đa số) và
25% ở Peru. Trong tất cả các nước, các nhóm quan trọng nhất là những người
khơng hưởng lương phi chính thức (do số lượng lớn những người lao động
độc lập) và những người hưởng lương chính thức của khu vực chính thức. Số

lượng những người hưởng lương chính thức trong IS và những người khơng
hưởng lương chính thức là khơng đáng kể trong tất cả các trường hợp.
Tuy nhiên, ngoài những khác biệt này, phần giới thiệu khái quát này cho
thấy tỷ trọng của IS, lao động phi chính thức và những người hưởng lương
khơng đăng ký trong hệ thống an sinh xã hội trong cơ cấu nghề nghiệp tại tất
cả các nước được phân tích.
Đối với cấu tạo của tình trạng phi chính thức về phương diện các thuộc
tính khác nhau, một số đặc điểm chung được rút ra (Bảng A.1). Trong mọi
trường hợp, người lao động phi chính thức chưa tốt nghiệp phổ thơng có tỉ lệ
rất cao (ví dụ, chiếm đến 69% tại Brazil). Tỉ lệ lao động có tay nghề thấp trong
IS thậm chí cịn cao hơn. Người lao động chính thức và người lao động của
khu vực chính thức có tình hình ngược lại. Một kịch bản tương tự như vậy
cũng diễn ra nếu chỉ giới hạn phân tích các nhóm người hưởng lương. Ví dụ,
ở Brazil, người lao động khơng có trình độ trung học chiếm gần 70% tổng số
lao động hưởng lương không đăng ký (40% số đăng ký) trong khi con số này
giảm xuống 4% đối với người lao động có trình độ đại học (16% đối với những
người hưởng lương đăng ký).
Phụ nữ chiếm tỉ lệ phi chính thức cao hơn trong tổng số nghề nghiệp.
Điều này đặc biệt rõ ràng đối với trường hợp của Peru, trong khi họ chiếm gần
50% IE và EIS, tỉ lệ này giảm xuống lần lượt là 37% và 39% đối với FE và EFS.
Tại Argentina và Brazil, nơi mặc dù vẫn có nhiều phụ nữ gắn với phi chính
thức, sự khác biệt trong phân phối của IE và EIS giữa nam và nữ không rõ rệt
như ở hai nước kia. Nếu chỉ phân tích các lao động hưởng lương, sự khác biệt
trong hội nhập nghề nghiệp giữa nam và nữ tăng lên. Tuy nhiên, do số lượng
lớn nam giới tham gia thị trường lao động tại những nước này, đa số nam giới
làm việc phi chính thức trong hầu hết các trường hợp, mặc dù “tỉ lệ phi chính
thức cụ thể”của họ thấp hơn so với phụ nữ (Bảng A1 - phần phụ lục).
Nghiên cứu cũng thấy rằng tỉ lệ lao động thanh niên và người có tuổi
trong IE và EIS (trừ trường hợp người cao tuổi ở Peru) là cao hơn so với tổng
việc làm. Trong trường hợp lao động thanh niên, tỉ lệ này tăng cao trong



PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

số những người hưởng lương, vì tỉ lệ thanh niên trong các công việc không
đăng ký tăng hơn gấp đôi tỉ lệ tương ứng trong các công việc đăng ký trong
hệ thống an sinh xã hội. Ngược lại, sự khác nhau này giảm nếu quan sát cấu
tạo của khu vực chính thức và phi chính thức. Tình trạng ngược lại xảy ra
với người có tuổi, khi sự khác biệt theo đó IS ít lao động có tuổi hơn, rõ ràng
là cao hơn so với sự khác biệt quan sát được giữa FE và IE. Đây là một phần
lí do tỉ lệ người lao động độc lập cao hơn ở những người lao động có tuổi.
Ngồi ra, tầm quan trọng của IE và EIS thay đổi tùy theo ngành. Nói
chung, tình trạng phi chính thức có tỉ lệ tương đối cao hơn trong hoạt động
thương mại, xây dựng và dịch vụ tại gia đình, trong khi khá thấp trong sản
xuất, khu vực cơng, dịch vụ tài chính và ở mức độ nhỏ hơn trong các dịch vụ
cá nhân. Tình trạng tương tự cũng diễn ra với những người hưởng lương khi
các hoạt động thương mại, xây dựng và dịch vụ tại gia đình chiếm hơn 60% các
hoạt động phi chính thức ở Argentina và Brazil, khoảng 50% ở Peru và Chile.
Cũng cần chỉ ra mối tương quan chặt chẽ giữa người hưởng lương không
đăng ký và người lao động trong IS (Bảng 2). Khoảng 45% tổng số người
hưởng lương không đăng ký làm việc trong IS ở Chile và Peru trong khi con số
này tăng lên 65% và 68% tại Argentina và Brazil. Mặt khác, hơn một nửa số
lao động hưởng lương trong IS ở Chile không đăng ký trong hệ thống an sinh
xã hội, con số này đạt gần 90% ở Peru. Điều này cho thấy tính bấp bênh của
EIS nơi năng suất thấp cộng với tình trạng khơng thực hiện các quy định lao
động có thể dẫn đến mức tiền lương thấp.
Bảng 2. Việc làm trong khu vực phi chính thức (EIS) và lao động hưởng
lương không đăng ký (%)
ARGENTINA
Đăng ký

Khu vực chính thức

78,7

Khơng
đăng ký
21,3

89,3
Khu vực phi chính thức

19,4

PERU
Tổng
100

35,2
80.6

Đăng ký
53,8

67,2
100

Khơng
đăng ký
41,7


100
53,6

92,0
12,3

Tổng

87,7

70,8
100

10,7
Tổng

64,8

32,8

8,0

46,4

29,2

100

100


100

100

100

100

53


54

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

BRAZIL
Đăng ký
Khu vực Chính thức

85,1

Khơng
đăng ký
14,9

82,8
Khu vực Phi chính thức

36,0


CHILE
Tổng
100

31,9
64,0

Đăng ký
84,4

66,8
100

Không
đăng ký
15,6

100
54,4

88,4
45,9

Tổng

54,1

80,5
100


17,4

33,2

11,7

45,6

19,5

100

Tổng

68,1
100

100

100

100

100

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên các dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình.

Cuối cùng, phi chính thức và nghèo đói có tương quan thuận chiều. Tỉ lệ
đói nghèo trong những người lao động làm việc phi chính thức hoặc trong IS
cao hơn từ 2 đến 5 lần so với tỉ lệ đói nghèo nhận thấy trong những người lao

động chính thức. Điều này dẫn đến một thực tế là khoảng 1/3 những người
lao động phi chính thức là người nghèo ở Argentina và Brazil, trong khi chỉ
có 5% và 10% của người lao động chính thức là người nghèo tại hai nước trên
(Bảng 1).
Vì vậy, kết quả được trình bày trong phần này cho phép chúng ta kết luận
rằng người lao động phi chính thức (và cả người lao động trong IS và hưởng
lương không đăng ký) tính trung bình có mức độ giáo dục thấp hơn so với
những người lao động chính thức, có nhiều lao động trẻ và lao động nữ làm
việc phi chính thức, và chiếm tỉ lệ cao hơn so với người lao động chính thức
trong các hoạt động thương mại, xây dựng và dịch vụ tại gia đình. Cấu trúc
khác biệt này gợi ý tưởng rằng các cơng việc phi chính thức9 sẽ có thu nhập
trung bình thấp hơn cơng việc chính thức bởi vì những người lao động phi
chính thức có vector của các đặc tính cá nhân thường được trả cơng thấp hơn,
hay nói cách khác, có một “hiệu ứng cấu tạo “ khơng có lợi đối với cơng việc
phi chính thức. Phần tiếp theo phân tích ở chừng mực nào thì chênh lệch tiền
lương cũng được giải thích bởi sự khác biệt trong mức độ phát huy hiệu quả
của cơng việc chính thức và cơng việc phi chính thức đối với từng đặc điểm
được xem xét.

9

Phi chính thức đề cập đến cả IE and EIS. Tương tự, chính thức đề cập đến FE và EFS.


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

5. Chứng cứ chứng thực nghiệm về phi chính thức và
phân khúc thu nhập
Các kết quả thu được từ các phương pháp tham số và phi tham số (đã được
trình bày chi tiết trong phần 2) sẽ được trình bày trong phần này. Đặc biệt,

Bảng 3 cho thấy chênh lệch thu nhập thu được từ phương pháp OLS cho toàn
bộ người lao động. Các con số này tương ứng với các biến giả (dummy) xác
định tính phi chính thức - IE và EIS - trong các phương trình thu nhập. Biến
phụ thuộc là log của thu nhập hàng tháng hoặc theo giờ. Toàn bộ hàm hồi quy
được thể hiện trong Bảng A.2 - phần Phụ lục.
Bảng 3. Chênh lệch thu nhập lao động. Phương trình Mincer theo OLS
Argentina

Hourly giờ
Lương wages
EIS/EFS
EIS/EFS
Lương tháng
Monthly wages

Lương wages
Hourly giờ

Brazil

Chile

-0.655***

-0.324***

-0.245***

-0.103***


[0.00733]

[0.0181]

[0.00374]

[0.00465]

-0.517***

-0.258***

-0.200***

-0.0140***

[0.00676]

[0.0177]

[0.00382]

[0.00468]

-0.486***

-0.390***

-0.179***


-0.0109**

[0.00798]

[0.0175]

[0.00405]

[0.00479]

-0.387***

-0.298***

-0.135***

0.0724***

[0.00725]

IE/FE
IE/FE
Lương tháng
Monthly wages

Peru

[0.0171]

[0.00413]


[0.00480]

Standard errors in ngoặc đơn
Độ lệch chuẩn trongbrackets
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên các dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình.

Một yếu tố “hình phạt” gắn với phi chính thức có ý nghĩa thống kê được
xác nhận ở bốn quốc gia, xảy ra với IE và lao động làm việc trong IS (EIS).
Mức chênh lệch lớn hơn trong thu nhập hàng tháng so với thu nhập theo giờ.
Điều này cho thấy lao động phi chính thức có thu nhập thấp hơn không chỉ do
họ được trả lương theo giờ thấp hơn mà cịn do họ làm việc ít giờ hơn. Ngoài
kết luận tổng quát này, mức độ chênh lệch khác nhau tùy theo quốc gia. Cụ
thể là mức độ chênh lệch thu nhập tháng giữa IE và FE là 66% tại Argentina,
32% tại Peru, 25% tại Brazil và 10% tại Chile.
Chênh lệch thu nhập cũng có ý nghĩa thống kê nếu so sánh người lao
động của IS và khu vực chính thức. Tuy nhiên, ngoại trừ Peru, nghiên cứu

55


56

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

cho thấy mức chênh lệch ít hơn và qua đó cho thấy mức độ phi chính thức
đo lường qua quan hệ lao động (IE) có vẻ cao hơn mức độ phi chính thức
đo lường qua “cách tiếp cận sản xuất” (EIS). Trong trường hợp này, “Hình

phạt” về thu nhập tháng là 48% ở Argentina, 39% ở Peru, 18% ở Brazil và 1%
ở Chile. Trong trường hợp của Chile, chênh lệch giữa EIS và EFS chỉ tồn tại
do sự chênh lệch số giờ làm việc, vì đối với thu nhập theo giờ, giá trị chênh
lệch đổi dấu.
Như đã nêu, OLS chỉ ước tính hiệu ứng của các đồng biến (covariates)
tại trung tâm của phân phối có điều kiện. Vì lí do này cần tìm hiểu hiệu ứng
của các đồng biến tại các điểm khác trên tồn bộ phân phối có điều kiện. Để
làm điều này, QR được áp dụng cho cả thu nhập tháng và thu nhập giờ. Các
kết quả trình bày trong Bảng A.3 và Đồ thị A.1 - phần phụ lục10 cho thấy mức
chênh lệch gắn với phi chính thức là không đều trên phân bố và tăng lên ở
đầu phân phối có các giá trị nhỏ. Ngồi ra, tại Chile và và Brazil, sự chênh
lệch lại đảo chiều tại đỉnh của phân phối có điều kiện. Kết quả này được xác
minh cho cả thu nhập tháng và thu nhập giờ.
Một số phát hiện rất thú vị được đưa ra dựa trên sự phân tách mức độ
chênh lệch thu nhập tháng thu được bằng thủ tục Oaxaca-Blinder cho cả hai
cách tiếp cận về phi chính thức (Bảng 4).
Bảng 4. Phân tách Oaxaca-Blinder. Thu nhập hàng tháng

Chênh lệch
Difference

Argentina
IE/FE
EIS/EFS
-1.019***
-0.848***

Peru

Endowments

Nguồn lực

[0.00765]

[0.00829]

[0.0151]

[0.0151]

[0.00440]

[0.00451]

[0.00562]

[0.00542]

-0.335***

-0.322***

-0.417***

-0.480***

-0.207***

-0.367***


-0.229***

-0.214***

Coefficients
Hệ số

[0.00683]

[0.0335]

[0.0186]

[0.0377]

[0.00344]

[0.00405]

[0.00324]

[0.00352]

-0.544***

-0.296***

-0.279***

-0.313


-0.162***

-0.160***

-0.100***

-0.0643***

Interaction
Tương tác

[0.0125]

[0.0516]

[0.0222]

[0.306]

[0.00411]

[0.0351]

[0.00611]

[0.00575]

-0.140***


-0.230***

-0.204***

-0.0627

-0.106***

-0.151***

-0.0207***

0.0163***

[0.0123]

[0.0610]

[0.0253]

[0.308]

[0.00375]

[0.0351]

[0.00467]

[0.00435]


IE/FE
-0.900***

EIS/EFS
-0.855***

Brazil
IE/FE
EIS/EFS
-0.476***
-0.678***

Chile
IE/FE
EIS/EFS
-0.350***
-0.262***

Độ lệch chuẩn trong ngoặc đơn
Standard errors in brackets

*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên các dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình.

10

Chỉ trình bày hệ số phi chính thức.



PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

Trước tiên, trong mọi trường hợp, tổng mức chênh lệch giá trị trung bình
của thu nhập lớn hơn đáng kể so với tổng mức chênh lệch thu được khi sử
dụng OLS và QR. Thứ hai, khi mức chênh lệch này được phân tách thành ba
cấu phần nêu trên, trong tất cả các trường hợp “Hiệu ứng Hệ số” có ý nghĩa
thống kê và có dấu âm. Vì vậy, giả thuyết phân khúc một lần nữa được kiểm
định, qua đó chỉ ra rằng, với thuộc tính như nhau, một nhân viên phi chính
thức (hoặc một người lao động trong IS) được trả một mức lương thấp hơn so
với một nhân viên chính thức tương tự (hoặc một nhân viên trong khu vực
chính thức). Tuy nhiên, trong mọi trường hợp (trừ ngoại lệ Chile khi so sánh
FS và IS) chênh lệch tiền lương có vẻ nhỏ hơn so với mức chênh lệch thu được
thông qua giá trị của biến giả về phi chính thức trong các hàm hồi quy OLS.
Thứ ba, “Hiệu ứng nguồn lực” cũng được chứng minh là có ý nghĩa thống
kê và có dấu âm. Trong hầu hết các trường hợp, hiệu ứng này là yếu tố giải
thích tỉ lệ cao nhất về chênh lệch thu nhập. Điều này phản ánh thực tế là
người lao động chính thức (người lao động trong khu vực chính thức) có
vector của các đặc tính thuận lợi hơn so với vector của người lao động phi
chính thức (người lao động trong IS), như mơ tả trong phần trước. Cụ thể, việc
làm chính thức có vốn con người cao hơn và có tỉ lệ phụ nữ thấp hơn - thường
bị phân biệt đối xử trong thị trường lao động và do đó nhận được tiền lương
thấp hơn nam giới có các thuộc tính tương tự. Như vậy, tổng số chênh lệch
thu nhập lao động giữa việc làm chính thức (FE) và phi chính thức (IE) được
giải thích khơng chỉ bởi vì chính thức có vector nguồn lực thuận lợi hơn, mà
cịn vì hiệu quả sử dụng thuộc tính của họ cao hơn so với IE.
Ước tính chênh lệch thu nhập trung bình cũng khẳng định rằng tình trạng
phi chính thức có tác động tiêu cực độc lập đối với thu nhập lao động hàng
tháng. Như thể hiện trong Bảng 5, chênh lệch giữa người lao động phi chính
thức và chính thức là 70% ở Argentina, 64% ở Peru, 29% tại Brazil và 11% ở Chile.
Bảng 5. Giá trị trung bình chênh lệch thu nhập cá nhân. Thu nhập hàng tháng

IE/FE
EIS/EFS

Argentina
-0.7044***
-0.3551***

Peru
-0.6355***
-1.0035***

Brazil
-0.2884***
-0.2911***

Chile
-0.1092***
-0.0395***

*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên các dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình.

57


58

KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN


Cuối cùng, các ước lượng phi tham số dựa trên phương pháp Hàm ước
tính phù hợp (Bảng 6) là phù hợp với kết quả trước đó và một lần nữa xác
nhận sự tồn tại của một “hình phạt” gắn với tình trạng phi chính thức. Cụ
thể, giá trị của ATT có ý nghĩa thống kê và có dấu âm trong mọi trường hợp,
ngay cả khi mức độ chênh lệch có xu hướng cao hơn so với chênh lệch thu
được bằng các phương pháp trước đó.
Bảng 6. Phương pháp Hàm ước tính Phù hợp. Thu nhập hàng tháng
Argentina
Việc làm Employment
Phi chính thức -0.759***
Informal

Brazil
-0.416***

Chile
-0.147***

[0.00819]

[0.00968]

[0.000713]

[0.00326]

-0.287***

-0.560***


-0.301***

-0.0296***

[0.0414]

Khu vực Sector
Informal Phi chính thức

Peru
-0.666***

[0.00809]

[0.00225]

[0.000947]

Standard errors in brackets
Độ lệch chuẩn trong ngoặc đơn
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên các dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình.

Ngồi ra, phù hợp với kết quả trước đó, mức chênh lệch thu nhập tại
Argentina và Peru dường như cao hơn so với Brazil và Chile. Đây là một kết
quả quan trọng bởi vì nó khơng có vẻ hồn tồn liên quan đến quy mơ của
tình trạng phi chính thức. Đặc biệt, ngay cả khi có thể nghĩ rằng mức chênh
lệch tiền lương cao hơn tại Peru và chênh lệch tiền lương thấp hơn tại Chile
là do mối quan hệ trực tiếp giữa tỷ trọng tương đối của tình trạng phi chính

thức và mức độ chênh lệch tiền lương, điều này có vẻ khơng đúng đối với
Argentina và Brazil, nơi tỉ lệ của IS rất giống nhau ở cả hai nước, nhưng hình
phạt ở Argentina cao hơn ở Brazil đáng kể.
Tính đến thời điểm này chênh lệch được ước tính cho tình trạng phi
chính thức được xác định bởi hai phương pháp tiếp cận (“tiếp cận sản xuất”
và “tiếp cận lao động”). Tuy nhiên, có thể xảy ra trường hợp cả hai cách này
cùng được sử dụng để xác định thu nhập lao động, khiến cho việc xác định
các hiệu ứng độc lập của mỗi cách gặp khó khăn. Ví dụ, “hình phạt” đối với
người lao động phi chính thức có thể là do một tỉ lệ lớn lao động như họ làm
việc trong IS, như đã nêu. Trong trường hợp đó, năng suất thấp - chứ khơng
phải là quan hệ lao động - có thể là yếu tố quyết định mức lương thấp hơn.
Cũng có thể là người lao động trong khu vực chính thức kiếm được mức lương


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

cao hơn do tỉ lệ cao hơn của người lao động chính thức trong khu vực này.
Điều này có thể là kết quả của một số quy định lao động như mức lương tối
thiểu được pháp luật quy định hoặc việc thương lượng tập thể, những điều ít
thấy ở người lao động phi chính thức.
Để đo ảnh hưởng độc lập của mỗi cách tiếp cận, chúng tôi chạy các hàm
hồi quy OLS đối với thu nhập hàng tháng, nhưng lần này bao gồm tất cả các
loại nghề tạo nên từ sự kết hợp của cả hai phương pháp tiếp cận. Các nhóm
cơ sở gồm người lao động chính thức trong khu vực chính thức. Như thể hiện
trong Bảng 7, tại Argentina, tất cả các loại nghề nghiệp liên quan tới những
người lao động phải chịu “hình phạt”. Cũng có thể quan sát thấy so với lĩnh
vực lao động, các mối quan hệ lao động thích đáng hơn đối với chênh lệch
thu nhập lao động.
Bảng 7. Chênh lệch giữa các loại hình về thu nhập lao động. Phương trình
Mincer bởi OLS. Thu nhập hàng tháng

Loại hình
Categories
ARGENTINA
Formalhưởng lương Chính thức
Non-wage earners
-0.2161***
Khơng
Informal Non-wage earners thức
-0.7271***
Khơng hưởng lương Phi chính
Informal wage earners in FStrong FS -0.5730***
Hưởng lương Phi chính thức
Formal wage earners in trong IS
-0.2233***
Hưởng lương Chính thức IS
Informal wage earners thức
Hưởng lương Phi chính in IS trong IS -0.8012***

PERU
-0.6887***
-0.6095***
-0.2969***
-0.5177***
-0.6703***

BRAZIL
0.3246***
-0.1422***
-0.2016***
-0.1021***

-0.4172***

CHILE
0.6556***
0.2271***
-0.2754***
-0.146***
-0.5081***

*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên các dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình.

Chile và Brazil có kết quả tương tự. Trong các quốc gia này, mức chênh
lệch giữa người lao động chính thức và phi chính thức lớn hơn mức chênh
lệch giữa người lao động trong khu vực chính thức và trong IS. Nhưng dù
sao, và nhất quán với kết quả trước đó, mức chênh lệch khơng lớn như ở
Argentina. Hơn nữa, người khơng hưởng lương phi chính thức ở Chile có thu
nhập cao hơn so với nhóm cơ sở. Tương tự như vậy, cả ở Chile và Brazil người
khơng hưởng lương chính thức có thù lao cao nhất.
Giống như tại Argentina, người lao động chính thức trong khu vực chính
thức ở Peru có mức lương cao nhất. Tuy nhiên, trong trường hợp người hưởng
lương, khu vực (chính thức/phi chính thức) có vẻ quan trọng hơn quan hệ lao
động. Cuối cùng, trong mọi trường hợp sự kết hợp cả hai cách tiếp cận tạo ra

59


60


KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

mức chênh lệch thu nhập lớn hơn so với mức chênh lệch của mỗi cách tiếp cận
riêng biệt, biết rằng nhóm người lao động phi chính thức trong IS có thu nhập
thấp nhất (khi loại trừ tác động của tất cả các đặc điểm cịn lại).
Vì vậy, các ước lượng khác nhau (tham số và phi tham số) cho thấy
tồn tại mức chênh lệch thu nhập đáng kể mà phần hơn thuộc về tình trạng
chính thức và mức chênh lệch này khơng do sự khác biệt trong các thuộc
tính nhận thấy của người lao động. Vì vậy chúng ta có thể kết luận rằng
có tồn tại phân khúc thu nhập gắn với tình trạng phi chính thức tại bốn
nước được phân tích.
Tới đây câu hỏi đặt ra là: Yếu tố nào giải thích sự khác biệt về mức độ
chênh lệch thu nhập giữa các nước và đặc biệt là, chênh lệch tiền lương giữa
những người hưởng lương (đăng ký và khơng đăng ký) trong FS? Một giả
thuyết có thể cho rằng các kết quả thu được là do các quy định về lao động
như mức lương tối thiểu, thương lượng tập thể, cơng đồn. Cụ thể là mức
chênh lệch giữa những người hưởng lương có đăng ký và khơng đăng ký có
thể phụ thuộc vào mức độ “ràng buộc” của các quy định lao động này. Chừng
nào mà mức lương tối thiểu còn tương đối cao so với mức lương trung bình
hoặc cơng đồn cịn nhiều sức mạnh thương lượng, điều này có thể tạo ra
một mức chênh lệch tiền lương lớn hơn đối với những người lao động có hoặc
không chịu sự điều tiết của các quy định về lao động.
Ngồi ra, các kết quả này có thể chịu tác động của các biến không quan
sát được, và do đó, khơng được đưa vào trong ước tính. Ví dụ như có thể có
một số lợi ích phi tiền tệ có thể bù đắp cho mức lương phi chính thức thấp
hơn khiến công việc trở nên hấp dẫn hơn đối với một số cá nhân. Tuy nhiên,
do tồn tại mối liên hệ chặt chẽ giữa phi chính thức và nghèo đói (như đã được
trình bày trong phần trước và sẽ được xác minh trong phần sau), lập luận cho
rằng tình trạng phi chính thức là sự lựa chọn tự nguyện của người lao động
có thể khơng áp dụng được cho tất cả người lao động trong khu vực. Ngược

lại, mức độ thất nghiệp và trình lao động bấp bênh tại các quốc gia này cho
thấy việc tham gia IS có thể là sự lựa chọn duy nhất của một bộ phận lớn
người dân.


PHÂN KHÚC VIỆC LÀM GIỮA KHU VỰC KINH TẾ...

6. Phi chính thức và nghèo đói
Với mục tiêu đánh giá tác động độc lập của tình trạng phi chính thức đối
với tỉ lệ đói nghèo, chúng tơi đã thực hiện các mô phỏng nhỏ. Các mô phỏng
nhỏ này cho phép chúng tơi ước tính thu nhập phản thực của hộ gia đình tức
là thu nhập đạt được khi giả sử các thành viên gia đình - những người làm
việc phi chính thức- sẽ làm việc chính thức (Xem xét hai phương pháp tiếp
cận với phi chính thức).
Như thể hiện trong Bảng 8, trong mọi trường hợp, “việc chính thức hóa”
người lao động phi chính thức sẽ làm giảm tỉ lệ nghèo đói. Tuy nhiên, mức độ
giảm này khác nhau giữa các nước. Ít nhất một phần các kết quả khác nhau là
do mức chênh lệch thu nhập khác nhau giữa chính thức và phi chính thức. Ví
dụ tại Argentina và Peru, nơi mà mức chênh lệch thu nhập lớn hơn mức giảm
nghèo do việc chính thức hóa người lao động cũng lớn hơn. Tại Argentina
mức giảm này là khoảng 34%. Tại Peru, mức giảm đói nghèo cũng đáng kể,
khoảng 30% của tỉ lệ nghèo ban đầu. Nhưng do ở những nước này tỉ lệ nghèo
ban đầu là rất cao nên ngay cả khi tất cả người lao động đã được chính thức
hóa, tỉ lệ người nghèo sẽ vẫn ở mức cao. Tác động thấp của “chính thức hóa”
tại Chile đã được dự kiến một phần là do mức chênh lệch phi chính thức thấp
hơn. Cuối cùng tại Brazil, mức giảm nghèo cũng khá lớn nhưng rõ ràng là
thấp hơn so với ở Peru và Argentina.
Bảng 8. Mô phỏng nhỏ về giảm nghèo liên quan đến việc chính thức hóa
người lao động
Argentina

Tỷ lệ nghèo ban rate
Inicial povertyđầu
26.85
Initial lệch nghèo ban đầu 0.4171
Chênh poverty gap
Contrafactual
Hợp đồng
FE/IE
FE/IE
EFS/EIS
EFS/EIS
Giảm
Reduction
FE/IE
FE/IE
EFS/EIS
EFS/EIS

Peru
34.68
0.3792

Brazil
29.96
0.4249

Chile
13.7
0.3179


17.81
22.59

24.44
20.69

26.35
26.32

13.12
13.61

-34%
-16%

-30%
-40%

-12%
-12%

-4%
-1%

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên các dữ liệu từ Khảo sát hộ gia đình

61



×