Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

luận văn kế toán TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẾN NHÂN CÁCH DOANH NHÂN VÀ VĂN HÓA KINH DOANH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.73 KB, 52 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC
TẾ ĐẾN NHÂN CÁCH DOANH NHÂN VÀ VĂN HÓA KINH DOANH
VIỆT NAM
Tác động của quá trình đổi mới với sự phát triển của doanh nhân và
doanh nghiệp Việt Nam
Sau hơn hai mươi năm kể từ Đại hội Đảng VI năm 1986, chính những
cải cách kinh tế mạnh mẽ - thông qua ban hành các văn bản luật (Luật Đầu tư
nước ngoài, Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Thuế, Luật Môi
trường …) và việc xây dựng thể chế thị trường, cải cách hành chính đã mang
lại cho Việt Nam một môi trường kinh tế mang tính cạnh tranh và năng động.
Công cuộc đổi mới không chỉ đem lại những thành tựu to lớn cho nền kinh tế
Việt Nam – với mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5% trong nhiều năm,
mà còn tạo nên một luồng sinh khí mới cho hoạt động kinh doanh và ảnh
hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển của cộng đồng doanh nhân
Việt Nam.
Thứ nhất, Đổi mới đã tạo nên cú hích lớn cho sự phát triển “đột biến”
của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân nói riêng trong thập niên vừa qua. Theo Bộ Kế hoạch và đầu tư, với hơn
83.000 doanh nghiệp đăng ký mới trong năm 2009, con số doanh nghiệp đã
đăng ký khi cộng dồn lại đến tháng 12 năm 2009 ước đạt 460.000 doanh
nghiệp. Từ số lượng khoảng 31.000 doanh nghiệp vào năm 2000, con số này
nay đã tăng 15 lần chỉ vỏn vẹn trong 9 năm
1
(Hình 3.1)
1
Theo báo cáo “Đánh giá nhanh chất lượng của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam qua quá trình mười năm
thực hiện luật doanh nghiệp”, 2010.
Nguồn: Cục Phát triển doanh nghiệp – Bộ kế hoạch và Đầu tư, 2010
Hình 3.1: Số lượng doanh nghiệp đăng ký hàng năm (2000 – 2009)
Tốc độ tăng trưởng các doanh nghiệp đã thể hiện sức sống mãnh liệt của
tinh thần kinh doanh Việt Nam cũng như sức tác dộng lớn từ các cải cách về


môi trường kinh doanh đã được thực hiện kể từ khi ban hành Luật doanh
nghiệp năm 1999 và năm 2005. Điều đáng chú ý là số lượng doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh mới có xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Kể cả
trong hai năm khó khăn chịu ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới cũng không suy giảm
(năm 2008 là 65.318 doanh nghiệp, năm 2009 là 83.000 doanh nghiệp). So
với các loại hình doanh nghiệp khác thì khu vực doanh nghiệp tư nhân có số
lượng tăng ấn tượng nhất. Sự lớn mạnh của khu vực tư nhân thể hiện rõ trong
Hình 3.2.
Nguồn: tổng cục thống kê, 2009
Hình 3.2: Tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp theo thành phần
kinh tế
Theo số liệu Tổng cục Thống kê, sau 9 năm thì số lượng doanh nghiệp
dân doanh đã tăng gấp 5,63 lần (tổng số doanh nghiệp cả nước tăng 4,76 lần,
khối các doanh nghiệp FDI tăng 3,69 lần, doanh nghiệp Nhà nước giảm 1,69
lần). Có thể nói chính các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã tạo nên sự tăng
trưởng chính về mặt số lượng doanh nghiệp
Thứ hai, song song với sự gia tăng mạnh các loại hình doanh nghiệp,
một cộng đồng doanh nhân Việt Nam đã được hình thành. Đó là “thế hệ
doanh nhân” mới trẻ, năng động và táo bạo nhưng chưa được đào tạo bài bản
và chưa hiểu biết đầy đủ về văn hóa kinh doanh. Do vậy, mặc dù văn hóa
doanh nhân đã xuất hiện nhưng chưa được hình thành rõ nét. Theo đánh của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI, thế mạnh của doanh
nhân Việt Nam là có năng lực lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp, biết tập hợp và
phát huy các nguồn lực, tổ chức sản xuất, cung cấp dịch vụ để gia tăng giá trị
cho doanh nghiệp và làm giàu cho xã hội. Tuy nhiên, lực lượng doanh nhân
Việt Nam cũng có nhiều hạn chế như còn thiếu tầm nhìn xa, thiếu chiến lược
kinh doanh và tính chuyên nghiệp, chưa xây dựng được văn hóa kinh doanh,
không được đào tạo bài bản, thiếu sự liên kết chặt chẽ trong hoạt động sx kinh
doanh, không ít doanh nhân còn có tâm lý “ăn xổi” chụp giật, nhìn chung còn

thiếu kỹ năng quản trị hiện đại và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế.
2
Thứ ba, vai trò của kinh doanh nói chung và doanh nhân nói riêng đã
được cải thiện đáng kể từ sau Đổi mới. Với bản chất khuyến khích sự năng
động, sáng tạo của doanh nhân, nền kinh tế thị trường đã có những đóng góp
tích cực cho nhân cách doanh nhân và văn hóa kinh doanh Việt Nam. Trong
cuộc điều tra xã hội học tại Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2003, 94%
số người được hỏi cho rằng “kinh doanh là một nghề có ích cho xã hội”, 74%
đồng ý với mệnh đề “Người biết làm giàu là người đáng quý trọng”
3
. Việc
nhiều người có bằng cấp cao, thậm chí từng làm cán bộ quản lý trong cơ quan
nhà nước lựa chọn nghề kinh doanh chứng tỏ xã hội đã thừa nhận tầm quan
trọng của nghề này. Đây là một chuyển biến đáng kể so với quan niệm truyền
thống của Việt Nam, vốn chỉ coi trọng việc đỗ đạt làm quan, còn buôn bán chỉ
dành cho những người ít học, thấp kém hơn trong xã hội. Ngay trong thời bao
cấp, tâm lý chọn ngành nghề thể hiện rõ ràng qua câu truyền miệng: “Nhất Y,
nhì Dược, tạm được Bách Khoa,” hoàn toàn bỏ qua kinh doanh.
Thứ tư, Đổi mới với cơ chế thị trường chưa hoàn thiện đã làm chao đảo
các hệ thống giá trị trong mỗi con người Việt Nam nói chung và cộng đồng
doanh nhân nói riêng. Những yếu tố tiêu cực này vốn tiềm ẩn trong văn hóa
cổ truyền, nay chuyển sang cơ chế thị trường mới có dịp bộc lộ. Sự phát triển
quá nhanh của các doanh nghiệp trong giai đoạn chuyển đổi với điều kiện các
chính sách luật pháp chưa đầy đủ, hoàn thiện đã tạo cơ hội cho một số doanh
nghiệp tận dụng kẽ hở để chạy theo lợi nhuận. Thực tế này dẫn đến hệ quả là
các doanh nghiệp làm ăn chân chính gặp khó khăn trong cơ chế thị trường
2
. Đề án “Phát huy vai trò doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế” VCCI.
3

. Trần Hữu Quang, “Công chúng và kinh doanh” Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 2003.
trong khi các doanh nghiệp biết tận dụng những yếu tố phi kinh tế để lách
luật lại trở nên phát đạt. Đây chính là sự tác động tiêu cực lớn nhất của cơ chế
thị trường chưa hoàn thiện đối với văn hóa kinh doanh và nhân cách
doanh nhân Việt Nam. Khi bước vào cơ chế thị trường, một số
thương nhân giàu lên nhanh chóng, vơi tốc độ hết sức kinh ngạc.
Hơn nữa, những người thành công lại thường trẻ tuổi, dám khám
phá. Thực tế này đã làm đảo lộn hoàn toàn các quan niệm truyền
thông, hệ giá trị đạo đức cũ bị cho là lỗi thời, lạc hậu. Tôn ti trật tự
cũng không được coi trọng nữa vì kinh nghiệm của lớp người đi
trước bị cho là không còn phù hợp với hoàn cảnh mới. Sự khủng
hoảng này là tất yếu khi chúng ta bước từ mô hình kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, điều đáng nói là,
trong khi những giá trị tinh thần cũ bị gạt bỏ thì vẫn chưa có những
giá trị tinh thần mới bù lấp vào chỗ trông đó. Vì thế, trong xã hội, giá
trị tốt - xấu nhiều khi lẫn lộn, con người bị chao đảo, không còn
chuẩn mực để noi theo. Điều này cũng ảnh hưởng nhiều đến văn
hóa kinh doanh và nhân cách doanh nhìn Việt Nam. Chứng kiến
thực tế nhiều doanh nghiệp đạt được thành công không phải bằng
con đường làm ăn chân chính, một số doanh nhân đã bị suy giảm
tinh thần, nảy sinh tư tưởng làm ăn gian dối, đánh quả, chụp giật
Hơn nữa, môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa ổn định, chưa
ủng hộ những doanh nhân làm ăn nghiêm chỉnh nên tư tưởng này
càng có "đất" phát triển. Thậm chí nhiều doanh nhìn còn cho rằng ở
Việt Nam chỉ có làm ăn lắt léo mới có thể trụ được trên thương
trường.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, chính sách đổi mới và cơ chế thị
trường đã có những ảnh hưởng tích cực đến văn hóa kinh doanh và
nhân cách doanh nhân Việt Nam, giải phóng năng lực kinh doanh
trong mỗi doanh nhân, tạo cơ hội cho họ được thể hiện bản thân,

được công hiến cho xã hội theo chí hướng mà mình mong muốn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, chính sách đổi mới và kinh tế thị trường
cũng tổn tại không ít tác động tiêu cực đến văn hóa kinh doanh và
nhân cách doanh nhân Việt Nam. Hơn rữa, cần lưu ý rằng, việc xây
dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang ở giai đoạn khởi đầu,
vì vậy sự ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực đều chưa thể bộc lộ toàn
bộ. Trong nền kinh tế thị trường, nhân cách doanh nhân và văn hóa
kinh doanh chắc chắn sẽ còn nhiều biên động mới, đặc biệt khi
chúng ta bước vào tiến trình toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế
quốc dân, mở cửa giao lưu với các nền văn hóa kinh doanh và nhân
cách doanh nhân nước ngoài.
Tác động của quá trình hội nhập quốc tế đến nhân cách doanh
nhân và văn hóa kinh doanh Việt Nam
Chủ trương hội nhập kmh tế quốc tế của Việt Nam được đặt ra từ
Đại hội VI (năm 1986 trên cơ sở đường lối "đổi mới" và "mở cửa" nền
kinh tế và tên cơ sở chính sách, quan hệ đối ngoại của Việt hàm với
phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Hơn 20
năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong quá
trình hội nhập quốc tế. Cấp độ hội nhập ngày càng sâu hơn, rộng
hơn, phản ánh sự bắt kịp là thích ứng của nền kinh tế Việt Nam đối
với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Cùng với cấp độ hội nhập ngày
càng mang tính hoàn thiện và sâu sắc hơn, tốc độ hội nhập cũng
được đẩy nhanh hơn sau khi đất nước đã chuẩn bị sẵn sàng về nội
lực và nỗ lực cải cách trong nước, đặc biệt tốc độ đấy được đẩy mạnh
và nhanh hơn vào năm 1996, tăng tốc km vào đầu năm 2000 cho đến
nay. Quá trình hội nhập quốc tế đã có những tác động tích cực lẫn
tiêu cực đến nhân cách doanh nhân và văn hóa kinh doanh Việt
Nam.
Trước hết, hội nhập quốc tế đã góp phần thúc đẩy hoạt động
kinh doanh ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình kinh

doanh mới ra đời như liên doanh với nước ngoài, các hình thúc kinh
doanh quốc tế. Lợi nhuận thu được từ kinh doanh cũng gia tăng.
Điều này càng góp phần khẳng định và nâng cao vai trò của kinh
doanh nói chung và doanh nhân nói riêng trong xã hội Việt Nam .
Thứ hai, hội nhập đã mở cửa cho nền kinh tế Việt Nam hòa nhập
cùng nền kinh tế thế giới, môi trường kinh doanh được mở rộng, sôi
động, cơ hội và thách thức cùng gia tăng tạo điều kiện cho các doanh
nhân Việt Nam có cơ hội phát huy tối đa khả năng, nâng cao trình
độ kinh doanh để phù hợp với yêu cầu của thị trường. Các doanh
nhân lần đầu tiên được tiếp xúc với các kỹ năng hoàn toàn mới như
marketing, xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ làm phong phú thêm kho tàng kiến thức về kinh doanh của
Việt Nam.
Thứ ba, quá trình giao lưu với các nền văn hóa kinh doanh và
nhân cách doanh nhân nước ngoài đã bổ sung những giá trị mới cho
văn hóa kinh doanh và nhân cách doanh nhân Việt Nam như tôn
trọng quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường Trong thời đại toàn
cầu hóa, quốc tế hóa nền kinh tế như hiện nay, mọi quốc gia đều
phải chấp nhận luật chơi chung và các giá trị chung để cùng hợp tác
phát triển. Vì vậy, văn hóa kinh doanh Việt Nam cũng được làm
giàu bằng việc tiếp thu thêm những giá trị mới từ bên ngoài, hội
nhập cùng văn hóa kinh doanh các nước.
Thứ tư, quá trình cọ xát với thị trường nước ngoài đã khơi dậy
lòng tự hào dân tộc của người Việt Nam, giúp các doanh nhân gắn kết
với nhau, khiến họ kinh doanh không chỉ vì lợi nhuận mà còn để tôn
vinh tên tuổi Việt Nam trên thị trường quốc tế. Các công ty Việt Nam
xây dựng được thương hiệu nổi tiếng ở nước ngoài như Trung
Nguyên, Legamex, Vinataba đều khẳng định mục đích bảo vệ
thương hiệu của họ không phải chỉ để thu được lợi nhuận, mà còn để
bảo vệ uy tín của dân tộc. Những người Việt Nam từng sinh sống và

làm việc tại nước ngoài đều có thể cảm thấy tự hào khi nhìn thấy
nhãn mác "Made in Vietnam" trên hàng hóa được bán ở đó. Sự hiện
diện của nhãn mác đó trong các cửa hàng nước ngoài không đơn
thuần là thành công về kinh tế mà còn là sự thành công về mặt văn
hóa của Việt Nam, bởi vì thương mại quốc tế chính là sự chuyển giao
sản phẩm và dịch vụ được sản xuất từ một nền văn hóa này cho
những con người ở nền văn hóa khác sử dụng.
Có thể nói, trong suốt tiến trình phát triển, Việt Nam chưa bao giờ
giao lưu văn hóa với bên ngoài phong phú, đa dạng và rộng rãi như
giai đoạn kể từ khi Nhà nước tiến hành chính sách mở cửa và hội
nhập đến nay. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, quá
trình hội nhập cũng có những tác động tiêu cực đến nhân cách
doanh nhân và văn hóa kinh đoanh Việt Nam.
Thứ nhất, một số người Việt Nam không có bản lĩnh văn hóa
vững vàng, sa vào trạng thái choáng ngợp trước những thành tựu
kinh tế của phương Tây, trở nên sùng ngoại thái quá, phủ nhận tất
cả các giá trị truyền thống của dân tộc. Việc đánh mất bản sắc văn
hóa dân tộc đã khiến họ rập khuôn theo mô hình phương Tây, từ
tình trạng sùng bái ngoại ngữ, chuộng tiếng Anh mà bỏ qua tiếng
Việt, sinh hoạt xa hoa, lãng phí, kinh doanh chỉ vì lợi nhuận Văn
hóa không phải là thứ "đồ ăn nhanh" (fast-food), có thể học theo
trong "một sớm một chiều mà cần trải qua "màng lọc" của nhiều thế
hệ. Thực tế cho thấy những người nhập cư, trong đó có Việt kiều,
gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập với xã hội nước
ngoài. Chính vì vậy, việc một nhóm doanh nhân Việt Nam bắt chước
một cách thiếu chọn lọc sẽ làm đời sống tinh thần của họ càng trở
nên nghèo nàn, đồng thời khiến bản sắc dân tộc trong văn hóa kinh
doanh và nhân cách doanh nhân Việt Nam suy yếu.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế khiến nước ta phải đối mặt với nguy
cơ khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, bán rẻ môi trường tự nhiên,

biến đất nước trở thành nơi chứa công nghệ lỗi thời, rác thải, ô nhiễm
môi trường trầm trọng.
Thứ ba, một số doanh nhân vẫn giữ tư tưởng bảo thủ, hoặc do thiếu điều kiện, hoặc không
muôn thay đổi, đã trở nên lạc hậu với bên ngoài. Thiếu hụt những kiến thức và kỹ năng cần thiết trong
thời kỳ đổi mới, họ dễ bị thua lỗ, bộc lộ nhiều sai sót trong kinh doanh trước các đối tác nước ngoài. Chính
những người này đã góp phần khiến nhân cách doanh nhân và văn hóa kinh doanh Việt Nam kém năng
động, chậm hòa đồng trong tiến trình hội nhập, ảnh hưởng đến hình ảnh Việt Nam trên thương trường quốc
tế.
NHÂN CÁCH DO
ANH NHÂN VÀ VĂN HÓA KINH DQANH VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Cách tiếp cận theo bảng thang giá trị nhân cách doanh nhân, văn hóa
kinh doanh Việt Nam mà chúng tôi đã đưa ra trong Chương 1 cần có sự đánh giá,
nhận xét và bình luận của xã hội cũng như những người hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh. Nếu được
đánh giá hợp lý, cấu trúc này sẽ là một trong những thước đo xác định nhân cách doanh nhân và văn hóa
kinh doanh Việt Nam đang tiến tới đâu so với các chuẩn mực trong các bảng thang giá trị được xây dựng.
Do vậy, chúng tôi đã tiến hành điều tra khảo sát nhằm kiểm định tính hợp lý của cấu trúc nhân cách doanh
nhân và văn hóa kinh doanh Việt Nam; trên cơ sở đó xem xét mức độ đánh giá của người dân, nhà quản lý
và doanh nhân về nhân cách doanh nhân, văn hóa kinh doanh Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập
quôc tế cũng như xu hướng biến đổi của chúng trong thời gian tới.
Phương pháp, đối tượng và cách thức điều tra
Bằng phương pháp sử dụng bảng hỏi theo hai cách, gồm câu hỏi đóng (lựa chọn
đúng/sai, đánh giá mức độ quan trọng của từng nội dung theo điểm sổ) và câu hỏi mở (tùy theo ý kiến của
người được hỏi), kết hợp với phỏng vân sâu trực tiếp các đối tượng chủ yếu là nhà quản lý doanh nghiệp,
chúng tôi đã thực hiện khảo sát với quy mô 1.000 phiếu, đại diện cho các đối tượng khảo sát (người dân,
doanh nhân và nhà quản lý trong hoạt động sản xuất; kinh doanh) và các vùng miền trong cả nước. Phiếu
khảo sát được thiết kế theo thang bảng giá trị phù hợp với cấu trúc mô hình nhân cách doanh nhân và văn
hóa kinh doanh Việt Nam. Cụ thể, mẫu phiếu khảo sát được phân bổ như sau:
Xét theo đối tượng khảo sát, gồm có: thứ nhất, người dân chiếm khoảng
30% tổng số mẫu, gồm nhóm người đang công tác tại các cơ quan doanh

nghiệp trả lời phiếu với tư cách người dân và nhóm người dân ngẫu nhiên.
Thứ hai, cán bộ doanh nghiệp chiếm khoảng 70% tổng số mẫu, gồm cán bộ
quản lý doanh nghiệp trên các lĩnh vực (thương mại, dịch vụ, sản xuất, công
nghiệp, nông nghiệp, chế biến, khai thác, nông lâm thủy sản ) và cán bộ
đang công tác tại các doanh nghiệp nói chung.
Xét theo địa lý, gồm có các khu vực: miền Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh), miền
Trung (Hà Tỉnh, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng), khu vực phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Nha
Trang).
Bảng hỏi gồm 19 câu hỏi được thiết kế kỹ lưỡng, có sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia, nhà
nghiên cứu thuộc lĩnh vực văn hóa kinh doanh cũng như thống kê xử lý và đại diện hai nhóm đối tượng
tham gia điều tra nhằm đảm bảo tính phù hợp và chất lượng của các câu hỏi
(Phụ lục 1). Quá trình biên soạn bảng hỏi được chia thành bốn giai
đoạn: thiết kế bảng hỏi; chuẩn chinh bảng hỏi trên cơ sở góp ý của
các chuyên gia thuộc lĩnh vực văn hóa kinh doanh và lĩnh vực
nghiên cứu thống kê, ý kiến phản hồi thông qua tiến hành điều tra
mẫu, trao đổi từ các hội thảo; điều tra thử 30 mẫu phiếu, xem xét sự
phù hợp của các biến, mã hóa; và chuẩn chỉnh, hoàn thiện bảng hỏi
cuối cùng. Sau khi thu thập đây đủ số liệu, chúng tôi sử dụng phần
mềm SPSS 15.0 (phần mềm chuyên dụng phân tích số liệu) để phân
tích kết quả.
Mặc dù còn một số hạn chế như độ lớn của mẫu là 1.000 người
nhưng chỉ giới hạn ở các vùng, địa phương có trình độ dân trí và
mức thu nhập cao hơn so với các vùng khác trong cả nước, việc dùng
các điểm số đánh giá trong bảng hỏi có thể chưa phản ánh chính xác
thực tế; một số người được hỏi chưa trả lời toàn bộ câu hỏi, song kết
quả phân tích bảng khảo sát đã đem lại nhiều phát hiện khá lý thú,
có giá trị tham khảo tốt.
Phân tích kết quả điều tra về nhân cách doanh nhân và văn hóa
kinh doanh Việt Nam
Nhận định tính hợp lý của cấu trúc nhân cách doanh nhân Việt Nam

Như đã phân tích trong Chương 1, cấu trúc nhân cách doanh
nhân Việt Nam gồm bốn thành tố: Đức, Trí, Thể, Lợi, trong đó Lợi là
mục tiêu, động cơ hoạt động nghề nghiệp của doanh nhân; Đức, Trí
và Thể đóng vai trò là yếu tố điều kiện - cơ sở tồn tại và phát triển
bền vững cho hoạt động của cá nhân doanh nhân. Kết quả điều tra
khảo sát đã minh chứng điều đó khi phần lớn đổỉ tượng được hỏi
(697/1.000 = 69,7%, trong đó 23,6% thuộc miền Bắc, 26,5% miền Trung
và 19,6% miền Nam) nhất trí rằng cấu trúc của nhân cách doanh
nhân Việt Nam gồm bốn thành tố nêu trên (Hình 3.3).
Nguồn: Nhóm tác giả, 2010
Hình 3.3: Đánh giá các yếu tố cấu thành nhân cách doanh nhân Việt Nam
Mặc dù còn ý kiến cho rằng cần phải bổ sung một số phẩm chất như
Tín, Dũng khi nói đến nhân cách doanh nhân Việt Nam nhưng phần
lớn những người được hỏi đều thông nhất nhân cách doanh nhân
Việt Nam được câu thành bởi bốn nhóm yếu tố Đức, Trí, Thể và Lợi.
Trong đó, yếu tố Đức và Trí được chú ý nhiều nhất, còn yếu tố Lợi và
Thể có số người nhất trí thấp hơn. Hiện tượng này cho thấy, trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, xã hội coi trọng Đức, Trí của
doanh nhân hơn là Thể và Lợi. Thực tế cho thấy trong thời gian qua,
dư luận xã hội hết sức bức xúc trước tình trạng kinh doanh bất chính
khá phổ biến. Mặt khác, đứng trước nhiều thời cơ, thách thức của
hội nhập quốc tế doanh nhân đòi hỏi phải có Trí thì mới giành chiến
thắng trong cạnh tranh, thậm chí ngay trên "sân nhà."
Thực trạng từng yếu tố trong cấu trúc nhân cách doanh nhân Việt
Nam
Đức
Phân tích số liệu điều tra cho thấy 22,9% số người được hỏi cho rằng
Đức chính là nhân cách doanh nhân Việt Nam và 69,5% cho rằng Đức là một
trong bốn yếu tố cấu thành nên nhân cách doanh nhân. Kết quả này phần nào
thể hiện hệ giá trị quan niệm của xã hội Việt Nam khi đánh giá cao yếu tố

Đức.
Về nhóm yếu tố Đức, kết quả phân tích tổng hợp 14 khía cạnh của phẩm
chất Đức trong nhân cách doanh nhân Việt Nam cho thấy tính cần cù, chịu
khó và lòng yêu nước, tự tôn dân tộc là hai khía cạnh được đánh giá cao nhất
(Bảng 3.1). Điều này có thể hiểu như sau: Việt Nam là quốc gia nằm trong
khu vực văn hóa Đông Á có truyền thống lịch sử hàng nghìn năm với những
đặc điểm nổi bật là tinh thần yêu nước, trí thông minh, ham học hỏi, cần cù,
chịu khó. Thừa hưởng truyền thông văn hóa dân tộc đó, doanh nhân Việt Nam
ngày nay càng phát huy cao độ tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, thâm nhập và mở rộng thị trường, từng bước
khẳng định mình trên thương trường.
Tuy vậy, khi đánh giá các khía cạnh thuộc yêu tố Đức theo vùng
miền, kết quả điều tra cung cấp một số phát hiện thú vị: những
người được hỏi ở miền Trung đánh giá tiêu chí yêu nước, tự tôn dân
tộc và cần cù, chịu khó cao hơn so với miền Bắc và miền Nam (23,5%
lựa chọn ở mức khá và tốt so với tỷ lệ 20,1% và 19,5% của hai miền
còn lại) Những người được hỏi ở miền Nam đánh giá tác phong làm
việc chuyên nghiệp cao hơn so với các miền khác (17,1% lựa chọn ở
mức khá và tốt so với tỷ lệ 12,7% ở miền Trung và 13,6% ở miền Bắc).
Điều này là hoàn toàn dễ hiểu vì miền Nam là khu vực kinh tế năng
động hơn so với hai khu vực còn lại.
Số liệu Bảng 3.1 cho thấy một thực tế là doanh nhân Việt Nam
mới chi coi trọng chữ tín và tính tuân thủ pháp luật ở mức trung
bình; đặc biệt là tinh thần đấu tranh chống tham nhũng, hối lộ (2,11)
và ý thức bảo vệ môi trường (2,92) còn thấp. Điều này có thể lý giải
là do môi trường thể chế, đặc biệt là thể chế chính trị và kinh tế có
ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách và văn hóa kinh doanh. Việt Nam
đang trên con đường hội nhập, chuyển đổi kinh tế, còn thiếu đồng
bộ về hệ thống pháp luật. Do vậy, việc đấu tranh chống tham nhũng,
hối lộ đạt hiệu quả chưa cao, dẫn đến tâm lý e ngại, thậm chí né

tránh ở cả doanh nhân và người dân. Thực tiễn Việt Nam hiện nay là
"một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt
các cấp kém cả về phẩm chất và năng lực; còn tình trạng chạy chức/
chạy quyền/ chạy tội/ chạy bằng cấp/ Thoái hóa, biến chất về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
sách nhiễu dân diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa ngăn chặn và đây
lùi”.
4
Thực tế đã có không ít doanh nhân câu kết, chạy cửa sau để làm
giàu bất chính. Có thể nói rằng trong vân đề tham nhũng hiện nay ở
Việt Nam, doanh nhân vừa là nạn nhân vừa là tác nhân hay kẻ đồng
lõa. Kết quả đánh giá của các tổ chức quốc tế về tình trạng tham
nhũng ở Việt Nam cho thấy đây là một vấn đề hết sức bức xúc.
5
Bảng 3.1: Đánh giá yếu tố Đức của doanh nhân Việt Nam
Tiêu chí Trung bình
6
Độ lệch chuẩn
7
Cần cù, chịu khó 3,84 0,78
Yêu nước, tự tôn dân tộc 3,81 0,91
Tình nhân ái, thiện tâm 3,57 0,87
Tín (giữ lời hứa, thực hiện cam kết) 3,56 0,88
Tuân thủ pháp luật, chính sách 3,51 0,90
Tiết kiệm 3,51 0,84
Tinh thần liên kết, hợp tác 3,44 0,85
Trung thực 3,40 0,90
Không ích kỷ, hại người 3,34 0,92
Tác phong làm việc chuyên nghiệp 3,31 0,83
Giản dị, gương mẫu, sống lành mạnh 3,28 0,88

Làm việc thiện (vô vị lợi) 3,24 0,90
Ý thức bảo vệ môi trường 2,92 0,90
Chống tham những, hối lội 2,11 0,93
Nguồn: Nhóm tác giả, 2010
Một điểm mâu thuẫn đáng chú ý mà kết quả điều tra mang lại đó là
doanh nhân Việt Nam có tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc rất cao
nhưng tinh thần liên kết, hợp tác lại thấp (6,68). Đây là một vấn đề
cần nghiên cứu và có giải pháp tháo gỡ, bởi trong môi trường cạnh
tranh quôc tế đa văn hóa ngày nay, liên minh, liên kết, hợp tác là
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội X, NXB. Chính trị Quốc gia, 2006
5
Trong bảng xếp hạng tham nhũng thế giới năm 2008, Việt Nam đứng thứ 121 trên tổng số 180 quốc gia.
6
Thang đánh giá: 1. Không biết; 2. Yếu; 3. Trung bình; 4. Khá; 5. Tốt
7
Đại lượng thông kê mô tả dừng để đo mức độ phân tán của một tập dữ liệu đã được lập thành bảng tần số.
một trong những phương thức - phương châm quan trọng để tổn tại
và phát triển bền vững.
Trí
Khi đánh giá thực trạng của nhóm yếu tố Trí, kết quả khảo sát cho thấy
nhiều đặc điểm khá thú vị. Chẳng hạn, phần lớn đối tượng được hỏi
đánh giá khá cao ý chí, niềm đam mê làm giàu của các doanh nhân
Việt Nam (3,98), trong khi lại đánh giá không cao các yếu tố dám
đương đầu với rủi ro (2,93), kiến thức, trình độ kinh doanh (3,14) và
kỹ năng lãnh đạo, quản lý (2,78). Các yếu tố thu hút, trọng dụng
nhân tài, phát triển văn hóa tổ chức (3,20) và khả năng thích ứng với
sự thay đổi (3,38) của doanh nhân Việt Nam cũng được đánh giá ở
mức vừa phải (Bảng 3.2).
Bảng 3.2: Đánh giá yếu tố Trí của doanh nhân Việt Nam

Tiêu chí Trung bình Độ lệch chuẩn
Ý chí và niềm đan mê làm giàu 3,98 0,85
Có năng lực sáng tạo 3,58 0,81
Hiểu biết rộng, tầm nhìn xa 3,43 0,81
Khả năng thích ứng với sự thay đổi 3,38 0,83
Khẳ năng hội nhập quốc tế 3,29 0,85
Thu hút, trọng dụng nhân tài 3,20 0,94
Phát triển văn hóa tổ chức 3,20 0,90
Kiến thức, trình độ kinh doanh 3,14 0,98
Dám đương đầu với rủi ro 2,93 0,99
Kỹ năng quản lý, lãnh đạo 2,78 0,97
Nguồn: Nhóm tác giả, 2010
Kết quả điều tra đã đưa ra một số nhận định như sau về Trí của
doanh nhân Việt Nam thời đại ngày nay:
Thứ nhất, trong bốn yếu tố cấu thành nhân cách doanh nhân,
phẩm chất Trí của doanh nhân Việt Nam được đánh giá là rất quan
trọng. Trên thực tế Trí chiếm vị trí cao hơn rất nhiều. Điều này hoàn
toàn hợp lý bởi cộng đồng doanh nhân ngày nay phần đông là trẻ
tuổi (khoảng 58% thuộc độ tuổi từ 30 đến 50, trong đó khoảng 25% là
doanh nhân nữ
8
) được đào tạo bài bản hơn, một số được đào tạo ở
nước ngoài. Xét trong tổng thể cộng đồng dân cư Việt Nam thì doanh
nhân thuộc cộng đồng có trí tuệ cao. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên
cứu, phẩm chất Trí của doanh nhân Việt Nam được đánh giá đạt 3/5
điểm, chỉ trên mức trung bình. Đây là kết quả hợp lý bởi cộng đồng
doanh nhân Việt Nam ngày nay có sự phân hóa rất rõ rệt, có tầng lóp
doanh nhân trẻ được đào tạo bài bản, lại có tầng lớp doanh nhân lập
8
Tạ Thị Ngọc Thảo, "Doanh nhân Việt Nam thởi đại toàn cầu hóa",

( 360/Kien_thuc/Doanlì_nhan_VN_ thoi_toan_cau__hoa/).
nghiệp dựa trên kinh nghiệm, trưởng thành và trải qua các cuộc
chiến tranh cùng nền kinh tế tập trung trước. Đổi mới - thời kỳ mà
cơ hội hội nhập, học hỏi, tiếp thu công nghệ quản lý còn hạn chế.
Thứ hai, Trí của doanh nhân Việt Nam được thể hiện nổi bật ở ý
chí và niềm đam mê làm giàu. Đây là yếu tố hết sức quan trọng và là
khởi nguồn động lực để doanh nhân hành động và đi đến thành công.
Khảo sát thực tế cho thấy yêu tố này đạt mức điểm khá cao (3,98/5),
chứng tỏ ý chí và khát vọng chiếm vị trí quan trọng trong mỗi doanh
nhân Việt Nam.
Thứ ba, dám đương đầu với rủi ro là phẩm chất trí tuệ của doanh
nhân Việt Nam được đánh giá ở mức độ thấp. Điều này có thể lý giải
là do sự ảnh hưởng từ tích cách và điều kiện phát triển. Con người
Việt Nam có đặc tính là thích ổn định, ưa hài hòa; tính chinh phục,
giành giật kém, thay vào đó là yên phận thủ thường. Do đó, hệ quả là
doanh nhân Việt thiếu khả năng cạnh tranh đối kháng và tư duy thị
trường tổng thể, kinh doanh nhỏ lẻ, thiếu hợp tác và không dám
đương đầu với rủi ro.
Thứ tư, một điểm khá nổi bật của doanh nhân Việt Nam đó là sự
năng động, linh hoạt, thích ứng nhanh song lại yếu về năng lực dự báo
và năng lực hoạch định chiến lược. Qua điều tra, nổi lên một thực
trạng là nhiều doanh nhân trẻ chưa xác định được tầm nhìn cho
doanh nghiệp, do vậy doanh nghiệp thiếu chiến lược hoạt động.
Thậm chí khi doanh nghiệp đã hoạt động được vài năm, bản thân
doanh nhân vẫn chưa nắm rõ tầm nhìn. Khi doanh nghiệp mới
thành lập, đa phần doanh nhân đều trăn trở một điều là làm thế nào
doanh nghiệp tồn tại và tìm bước phát triển. Mỗi doanh nhân
thường tập trung xây dựng doanh nghiệp trong vài ba năm, sau thời
gian đó họ nhìn lại song không biết bước tiếp theo phải làm gì, bời
thực tế họ chưa có định hướng hoạt động rõ ràng để công ty phát

triển mang tính bền vững hơn. Một thực trạng nữa là mỗi doanh
nhân đều sẵn sàng trả lời "công ty chúng tôi có chiến lược hoạt động
rõ ràng," song khi tìm hiểu đối chứng với đội ngũ nhân viên mới bộc
lộ ra rằng, công ty thật sự có chiến lược, nhưng ngoài vị giám đốc -
doanh nhân trẻ, không ai biết gì vì chiến lược không được chia sẻ.
Nhân viên trong công ty không trả lời được câu hỏi ngày mai công
việc họ sẽ như thế nào. Rất nhiều hoạt động của cồng ty cũng không
được định hướng tầm nhìn để cùng phát triển. Kết quả điều tra cho
thấy, rõ ràng thế hệ doanh nhân trẻ Việt Nam cần có tầm nhìn dài
hạn hơn. Hạn chế trong tầm nhìn sẽ khiến bất lợi trong chiến lược
phát triển lâu dài của doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp,
thương hiệu doanh nghiệp và cả thương hiệu quốc gia.
Thứ năm, khía cạnh được cho là yếu ở các doanh nhân Việt Nam là
kỹ năng lãnh đạo, quản lý, nguyên do xuất phát từ việc một số lượng
khá lớn các doanh nhân ngày nay còn làm theo kinh nghiệm. Họ chưa
có thời gian và nguồn lực đầu tư, trang bị cho bản thân những kiến
thức và kỹ năng về lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là những kỹ năng
nhằm thích ứng tốt hơn với môi trường kinh doanh mới và luôn
biến đổi.
Mặt khác, khi phỏng vấn sâu một số cán bộ quản lý ở ba miền Bắc,
Trung, Nam về yếu tố Trí, chúng tôi nhận thấy có sự tương đồng về
mức độ đánh giá và xu hướng biến đổi. Các đối tượng được hỏi đều
nhấn mạnh doanh nhân thời đại ngày nay là lớp doanh nhân có trí
tuệ, được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp hơn. Trí tuệ doanh nhân
không chi hoặc không hẳn có được từ trường đại học, hay yêu cầu họ
phải đạt bằng cử nhân, thạc sĩ Một phần trí tuệ được hình thành
từ chính quá trình các doanh nhân cập nhật kỹ năng lãnh đạo, tham
gia các khóa huấn luyện bài bản, tự rèn luyện bản thân và trải
nghiệm thực tế. "Doanh nhân trí tuệ là lớp doanh nhân dám nghĩ,
dám làm, dám chấp nhận thách thức, dám đón nhận rủi ro. Họ biết

dự báo tình hình, thời cuộc, quyết đâu tranh với chính bản thân
mình và vượt qua đối thủ cạnh tranh bằng những giải pháp thị
trường sáng tạo. Một thế hệ doanh nhân trẻ Việt Nam giải quyết sự
việc bằng khoa học và giảm dần sự phụ thuộc vào cảm tính cá nhân.
Một lớp doanh nhân nhạy cảm với nhu cầu của cuộc sống, thấu hiểu
nhu cầu và đáp ứng những nhu cầu đó. Trí tuệ giúp doanh nhân
nhạy bén hơn, năng động hơn, hiện đại hơn. Những kỹ năng kinh
doanh được hình thành dễ dàng hơn, giúp cho công việc thuận lợi
hơn. Cộng thêm vào đó là tính quyết liệt vì sự tồn tại của doanh
nghiệp trên thị trường thế giới, lúc đó Việt Nam sẽ có những thương
hiệu toàn cầu, công ty toàn cầu" (Nguyễn Văn Hoàng, Giám đốc kinh
doanh VTCI). Rõ ràng đây là một yêu tố cần phải được xem xét khi
đề cập đến Trí của doanh nhân, đặc biệt cần phải được làm rõ và bổ
sung khi đưa ra các giải pháp khuyến nghị nhằm tăng cường nhận
thức của cộng đồng doanh nhân Việt Nam.
Thể
Yếu tố Thể trong nhân cách doanh nhân Việt Nam cũng được
đánh giá ở mức độ trung bình khá (3,4), trong đó khả năng làm việc
bền bỉ, chịu được áp lực công việc được đánh giá khá tích cực (3,66).
Các yếu tố khác như hình thể, cân nặng; rèn luyện sức khỏe, biết
cách giải tỏa stress, tinh thần minh mẫn, khả năng kiềm chế bản
thân cũng như những cách giải trí lành mạnh được đánh giá dao
động trong mức điểm thấp hơn (3,16-3,38) (Hình 3.4).
Nguồn: Nhóm tác giả, 2010
Hình 3.4: Đánh giá về yếu tố Thể của doanh nhân Việt Nam
Kết quả điều tra ở Hình 3.4 đã cung cấp một số nhận định về yếu
tố Thể của doanh nhân Việt Nam thời đại ngày nay như sau:
Thứ nhất, đúng như đã phân tích, trong bốn yếu tố Đức, Trí, Thể,
Lợi thì Thể là yếu tố điều kiện. Kết quả nghiên cứu cho thấy Thể của
doanh nhân Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình (3,l-3,6

điểm).
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã "liệt" doanh nhân thuộc một trong những "nghề nguy
hiểm/ chỉ sau lính cứu hỏa và nhà báo. Trong bối cảnh kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay,
doanh nhân càng phải chú trọng đến sức khỏe bởi họ chính là vị thuyền trưởng phải chịu trách nhiệm chỉ
huy "con thuyền" doanh nghiệp của mình. Ở nước ngoài, doanh nhân rất chú trọng đến sức khỏe, họ
thường có sân tennis, hồ bơi, phòng tập ngay trong nhà và thuê cả huấn luyện viên thể dục hay các võ sư
cùng tập luyện khi có chút thời gian rảnh rỗi, chẳng hạn như giữa hai cuộc họp. Họ có bác sĩ riêng, thuê
chuyên gia ẩm thực lập thực đơn hàng tuần để đảm bảo bữa ăn cung cấp đầy đủ năng lượng cho cơ thể. Khi
so sánh đối chiếu yêu tố này giữa doanh nhân nước ngoài và doanh nhân Việt Nam, rõ ràng doanh nhân
Việt Nam chưa thật sự chú trọng đến việc rèn luyện sức khỏe, chưa biết cách giải tỏa stress, kiềm chế bản
thân, giữ tinh thần minh mẫn cũng như có những cách giải trí lành mạnh để phục hồi thể lực cũng như trí
lực.
Thứ hai, thể trạng, vóc dáng, sức khỏe của doanh nhân Việt Nam kém so với các nước
trong khu vực và thế giới. Vóc dáng, thể trạng, đặc biệt là chiều cao của người Việt Nam thua kém
so với các nước khác, nhất là các nước phương Tây. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế, điều kiện môi trường,
phong cách, ý thức trong sinh hoạt của doanh nhân Việt Nam cũng chưa được đầu tư chú ý đúng mực, dẫn
đến việc chăm sóc, rèn luyện sức khỏe không được thực hiện thường xuyên và bài bản. Điều này hoàn toàn
phù hợp với thực tế cũng như những nhận định thu được từ kết quả điều tra khảo sát.
Thứ ba, doanh nhân Việt Nam có khả năng làm việc bền bi, chịu áp lực cao trong công
việc. Tuy thể lực không được đánh giá là tốt song sức chịu đựng, đặc biệt là tinh thần làm việc với
cường độ cao, áp lực công việc cao của doanh nhân Việt Nam rất tốt. Chính quá trình khó khăn, gian khổ,
rèn luyện bản thân, vươn lên vượt khó đã tạo nên bản chất con người Việt Nam là cần cù, chịu khó, gan dạ,
bền chí. Kết quả khảo sát thực tế cũng có nhận định tương tự khi những đối tượng được hỏi đánh giá về khía
cạnh này, doanh nhân Việt Nam đạt mức điểm là 3,66/5.
Lợi
Kết quả khảo sát cho thấy một điếm đáng lưu ý là yếu tố Lợi lại được nhiều người tham gia
trả lời đánh giá không cao trong nhân cách doanh nhân Việt Nam ngày nay, cụ thể là đóng các loại thuế theo
quy định (3,27), công bằng trong phân phối lợi ích với nhân viên (3,10), chi phí phúc lợi xã hội, an sinh xã
hội cho nhân viên (3,07), chú trọng tạo thêm việc làm (3,25), mức độ đóng góp từ thiện (3,16) (Hình 3.5).
Nguồn: Nhóm tác giả, 2010

Hình 3.5: Đánh giá về yếu tố Lợi của doanh nhân Việt Nam
Kết quả khảo sát cho thấy các đối tượng được hỏi đánh giá khá
tích cực về Lãi thật và Mức độ tăng trưởng lợi nhuận (2,98) của
doanh nhân Việt Nam. Trong khi đó, hai yếu tố là tính bền vững của
lợi nhuận và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư chi được đánh giá ở
mức trung bình, hay khía cạnh đóng góp tài sản riêng, hiến tặng cho
đất nước cũng chỉ được đánh giá ở mức thấp (2,55).
Thực tế, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam mới dừng lại ở việc tài trợ
cho các cuộc thi ủng hộ người nghèo, thiên tai , còn đóng góp tài sản
riêng cho đất nước là chưa có. Bởi lẽ/ những doanh nghiệp hàng đầu
Việt Nam cũng chỉ mới tương đương với những doanh nghiệp vừa và
nhỏ của các nước phát triển
9
, quy mô tài sản và doanh thu chưa lớn,
sức cạnh tranh còn thấp, vì vậy họ chưa thể có đủ khả năng để hiến
tặng tài sản riêng cho đất nước, dù xét về khía cạnh nghĩa vụ tài chính
đối với nhà nước, phần lớn doanh nhân đã thực hiện nghiêm túc và
tốt, đóng góp phần quan trọng vào nguồn thu ngân sách hàng năm.
Mặt khác, thông qua phỏng vấn sâu, nhiều ý kiến đã dẫn ra các
9
Báo cáo của UNDP, 2009.
trường hợp doanh nghiệp đặt lợi ích của mình cao hơn lợi ích cộng
đồng, xem thường quyền lợi người tiêu dùng và bỏ qua đạo đức kinh
doanh. Các vụ việc bị cơ quan chức năng phát hiện và đưa ra công
luận trong năm 2008-2009, như vụ "đầu độc" sống Thị Vải của công ty
Vedan, sau đó là hàng loạt phát hiện về việc Công ty Miwon (Phú
Thọ) xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường nhiều năm liền, vụ rò
rỉ chất độc xianua ở huyện Tân Uyên (Bình Dương) của Công ty
TNHH Đại Phong, vụ sữa nhiễm melamine là những minh chứng
về ý thức bảo vệ môi trường kém của các doanh nghiệp Việt Nam.

Nhận định về tính hợp lý của cấu trúc văn hóa kinh doanh Việt Nam
Kết quả khảo sát ủng hộ quan điểm cho rằng Gấu trúc văn hóa kinh
doanh Việt Nam gồm bốn thành tố là triết lý kinh doanh, đạo đức
kinh doanh, văn hóa doanh nhân và văn hóa doanh nghiệp, khi
phần lán những người được hỏi (721 lượt người, chiếm 72,7%) đồng
ý với lựa chọn bốn yếu tố (Hình 3.6). Mặt khác, kết quả này chứng tỏ
một thực tế là đối tượng cán bộ tại doanh nghiệp và các cán bộ quản
lý hiểu biết về văn hóa kinh doanh sâu hơn so với người dân, khi
trong số 72,7% người được hỏi trả lời thông nhất quan điểm văn hóa
kinh doanh bao gồm bốn yếu tố thì có đến 76,6% đối tượng là cán bộ
doanh nghiêp, nhà quản lý doanh nghiệp.
Nguồn: Nhóm tác giả, 2010
Hình 3.6: Đánh giá về yếu tố cấu thành văn hóa kinh doanh Việt Nam
Thực trạng từng yếu tố trong cấu trúc văn hóa kinh doanh Việt Nam
Triết lý kinh doanh
Kết quả khảo sát cho thấy sự đồng ý với những phân tích về triết
lý kinh doanh trong Chương 1, khi phần lơn số người được hỏi (666
lượt lựa chọn, tức là 66,6%) đều thông nhất triết lý kinh doanh Việt
Nam được biểu hiện qua bốn yếu tố là triết lý kinh doanh dân tộc,
triết lý kinh doanh cá nhân, triết lý kinh doanh ngành và triết lý
kinh doanh doanh nghiệp (trong đó miền Bắc là 23,8%, miền Trung
là 25,1% và miền Nam là 17,7%) (Hình 3.7).
Nguồn: Nhóm tác giả, 2010

×