Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.54 KB, 30 trang )

Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Giai đoạn khởi đầu của chu kỳ kinh doanh tiêu biểu rõ ràng mức độ cao nhất của rủi ro
kinh doanh. Mức độ rủi ro kinh doanh cao có nghĩa là rủi ro tài chính đi kèm nên được giữ
càng thấp càng tốt trong suốt giai đoạn này. Do đó, khi xét ở góc độ tài chính, cấu trúc vốn
của công ty loại này thường có xu hướng không tài trợ bằng nợ bởi lẽ rủi ro kinh doanh được
xác định là khá cao nên đã không cho phép công ty gia tăng thêm rủi ro tài chính nếu muốn
giữ mức độ rủi ro của công ty ở một mức độ hợp lý. Vì vậy, tài trợ bằng vốn cổ phần là thích
hợp nhất nhưng phát hành chứng khoán thì không thể thực hiện được do các nhà đầu tư thông
thường sẽ không chấp nhận đầu tư vào cổ phần của các công ty này. Như vậy, công ty sẽ nhận
được nguồn vốn từ đâu cho hoạt động kinh doanh của mình? Và vốn đầu tư mạo hiểm chính
là lời giải cho bài toán nhu cầu tài chính của cácdoanh nghiệp, chỉ có các nhà đầu tư vốn mạo
hiểm mới dám chấp nhận đầu tư vào mà thôi.

Trang 1
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM
Từ trước đến nay các doanh nghiệp vẫn huy động các nguồn tài chính cần thiết cho hoạt
động kinh doanh thông qua việc phát hành cổ phiếu, vay vốn ngân hàng… Những hình thức
huy động vốn truyền thống đó cũng đã phát huy vai trò nhất định.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp cũng năng động và đa dạng hơn. Do vậy, các doanh nghiệp cần những
phương thức huy động vốn mới nhanh chóng và hiệu quả hơn. Và vốn mạo hiểm ra đời từ đó.
Mô hình đầu tư mạo hiểm bắt đầu từ giữa thập kỷ 80 tại Mỹ dành cho các doanh nghiệp
công nghệ cao của tư nhân. Người Mỹ đã phát triển mạnh mẽ hình thức vốn mạo hiểm, đáp
ứng một cách nhanh chóng và hiệu quả cho các dự án công nghệ cao của mình. Hiện nay, tại
Mỹ đã hình thành một thị trường vốn mạo hiểm khổng lồ, với hàng chục nghìn nhà đầu tư
mạo hiểm thường góp vốn vào các công ty hay quỹ đầu tư mạo hiểm, có khả năng tài trợ cho
nhiều dự án, đặc biệt là những dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ cao. Quỹ đầu tư mạo
hiểm đã tạo được dấu ấn của mình trên nền kinh tế Mỹ và thế giới.
Sau đó, mô hình đầu tư mạo hiểm đã lan dần ra châu Á và Việt Nam. Từ năm 1991, có


một số quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động ở nước ta nhưng chỉ đến khi tập đoàn IDG chính thức
vào cuộc 2004, thị trường này mới trở nên sôi động.
1. Khái niệm:
Vốn mạo hiểm: là khoản đầu tư do những tổ chức chuyên môn hoá rót vốn vào những
doanh nghiệp mới thành lập, chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, có tốc độ tăng trưởng
cao, rủi ro cao và thường sử dụng các công nghệ mới, hiện đại… đang cần vốn cổ phần để tài
trợ cho phát triển sản phẩm hoặc tăng trưởng.
Vốn mạo hiểm được cung cấp dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó điển hình nổi bật
là việc tài trợ vốn thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm. Về bản chất, đó là một quỹ đầu tư
nhưng mục tiêu hoạt động của họ là nhắm vào những dự án có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm
những khoản lợi nhuận cao hơn mức thông thường.
Tham gia vào quá trình này có 3 đối tượng chủ yếu:
- Nhà đầu tư: người bỏ vốn nhưng không trực tiếp quyết định đầu tư.
Trang 2
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
- Nhà tư bản mạo hiểm- người đứng ra huy động vốn, quản lý nó và trực tiếp quyết định
nên đầu tư vào đâu nhằm mục đích sinh lợi tối đa.
- Các đối tượng nhận đầu tư: những công ty trẻ, những dự án về sản phẩm dịch vụ công
nghệ mới đầy tiềm năng …
2. Đặc điểm:
- Vốn đầu tư mạo hiểm là một trong 4 loại vốn đầu tư trực tiếp được dùng để đầu tư vào
các công ty có sản phẩm hoặc nguồn thu nhập tiềm năng, nhưng chưa hoặc đang triển khai và
thường các công ty này là những DN vừa và nhỏ.
- Thông thường, một nhà tư bản mạo hiểm không gắn bó với các đối tượng nhận đầu tư
lâu dài, thường từ 3 đến 5 năm. Việc thu hồi vốn đầu tư của hoạt động này cũng có những đặc
trưng như là thoát vốn bằng phương thức phát hành cổ phiếu ra công chúng (IPO), bán thương
mại hoặc trong trường hợp không khả quan thì phương án mua lại được áp dụng.
Qua đó, có thể thấy rằng môi trường hoạt động của vốn mạo hiểm không thể không có mặt
của thị trường chứng khoán. Do đó, thị trường chứng khoán luôn có ảnh hưởng đến sự tăng
trưởng của vốn đầu tư mạo hiểm

- Các quỹ đầu tư tham gia vào việc kiểm soát và điều hành công ty. Họ tư vấn ở cấp chiến
lược, hướng dẫn, hỗ trợ các công ty trong quản lý, xây dựng thương hiệu, phát triển thị
trường... Vì vậy họ có thể gặp rủi ro, bị mất khoản đầu tư nếu công ty bị phá sản. Tuy nhiên,
điều này ít xảy ra và họ thường đạt tỷ suất lợi nhuận từ 35- 50%.
- Do tính chất "mạo hiểm" trong hoạt động đầu tư, các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư mạo
hiểm thường tiến hành rất kỹ các việc sàng lọc hay thẩm định đầu tư nhằm tìm ra các công ty
tiềm năng để đầu tư. Việc thẩm định đầu tư này được tiến hành trên tất cả các mảng của hoạt
động kinh doanh, từ việc xem xét đội ngũ lãnh đạo, công nghệ cho đến mô hình kinh doanh.
3. Các giai đoạn thực hiện đầu tư mạo hiểm:
Bước 1: Xem xét và thẩm định các dự án đầu tư. Các quỹ đầu tư sẽ tiến hành nhiệm vụ
xem xét và thẩm định dự án đầu tư rất kỹ trước khi quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Đó là
thẩm định tỉ lệ rủi ro, vốn rút để tái đầu tư, mức độ lợi nhuận… Trên thực tế ở Việt Nam, các
quỹ đầu tư mạo hiểm chấp nhận tỉ lệ rủi ro thấp nên thường tìm đến với các doanh nghiệp đã
có tên tuổi và uy tín trên thị trường.
Bước 2: Thực hiện đầu tư, rót vốn. Sau khi ký hợp đồng hợp tác, các quỹ đầu tư mạo hiểm
tiến hành đầu tư, rót vốn vào doanh nghiệp. Quá trình rót vốn chia làm 5 giai đoạn, 3 giai đoạn
đầu có mức độ rủi ro cao hơn 2 giai đoạn sau. Không chỉ rót vốn, quỹ còn hỗ trợ, tư vấn cho
Trang 3
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh như xây dựng năng lực, mở thị trường, tạo thương
hiệu…
 5 giai đoạn rót vốn:
- Tài trợ vốn mồi/ươm tạo: giúp doanh nghiệp để phát triển ý tưởng sáng tạo.
- Tài trợ khởi động: giúp phát triển sản phẩm và hoạt động tiếp thị khởi đầu.
- Tài trợ giai đoạn đầu: giúp doanh nghiệp sản xuất hàng hoá và tung ra thị trường.
- Tài trợ mở rộng sản xuất: giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, thị trường, nâng cấp
sản phẩm, xây dựng cơ cấu sở hữu hợp lý…
- Tài trợ tăng tốc: giúp doanh nghiệp thâm nhập sâu vào thị trường, tăng tốc hoạt động
kinh doanh, tạo sản phẩm mới…
Bước 3: Kết thúc đầu tư, hay thu hồi vốn. Các khoản đầu tư được thu hồi qua 4 kênh chính

là: Chứng khoán bán cho công chúng lần đầu, bán cổ phần cho nhà đầu tư khác, bán lại cổ
phần cho doanh nghiệp và bán doanh nghiệp cho doanh nghiệp khác.
 Quy trình hoạt động :
Entrepreneur thường được hiểu là doanh nhân, là ông chủ của một công ty hoặc cũng có
thể được hiểu là một người đứng đầu một dự án nào đó trong một tập đoàn.
Venture Capitalists có nhiều quyền lực, quan hệ và có nhiều kiến thức chuyên môn, có vai
trò là cầu nối giữa các nhân vật Entrepreneur, Investor và Bank lại với nhau. Venture
Capitalists lấy ý tưởng từ Entrepreneur, mượn tiền từ nhà băng và thu hút thêm vốn đầu tư
của các investor khác sau đó cung cấp tiền đố lại cho Entrepreneur.
4. Các điều kiện để nhận được tài trợ từ vốn đầu tư mạo hiểm:
Trang 4
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
Thông thường các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm thường xét những quy tắc cơ
bản để đánh giá mức độ hấp dẫn của một dự án đầu tư. Khi đánh giá công ty và xét duyệt bản
kế hoạch kinh doanh, những khía cạnh cơ bản sau đây sẽ được các chuyên gia quản lý quỹ đầu
tư mạo hiểm tập trung xem xét:
Stt Tiêu chí Yêu cầu
1
Đội ngũ
lãnh đạo
Là những người nắm tỷ lệ sở hữu lớn, có tâm huyết với sự phát triển của công
ty. Họ phải là những người có năng lực , kinh nghiệm, được chứng minh thông
qua những thành tích trong việc điều hành công việc kinh doanh của công ty.
2
Sản phẩm
dịch vụ
Độc đáo, mang lại lợi ích cho khách hàng, có sự khác biệt so với sản phẩm cùng
loại, có triển vọng phát triển lâu dài trong tương lai… Đặc biệt, sản phẩm dịch
vụ phải được công nhận bản quyền, bằng phát minh sáng chế…
3

Mô hình
kinh doanh
Mô hình hiệu quả, tính toán rõ ràng được mức lợi nhuận và hoạch định các chiến
lược cho dịch vụ, sản phẩm của mình trong các giai đoạn…
4 Thị trường
Có kế hoạch thăm dò thị trường, xác định nhu cầu, mức tiêu thụ, khách hàng
tiềm năng và đối thủ cạnh tranh … Từ đó xác định thị trường mục tiêu, đề ra
chiến lược vượt trội đối thủ, có phương hướng mở rộng thị trường trong tương
lai.
5
Quản lý tài
chính
Báo cáo tài chính minh bạch, các tính toán về lợi nhuận, kế hoạch quản lý, sử
dụng nguồn tài chính hiệu quả…
6 Pháp lý
Chuẩn bị chu đáo về các điều khoản đầu tư giữa hai bên, tránh những tranh chấp
xảy ra như sự tham gia của chuyên gia quản lý quỹ đầu tư trong hội đồng quản
trị, tỷ lệ lợi nhuận…
Tất cả các yếu tố trên đều quan trọng, nhưng đối với các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư
mạo hiểm thì yếu tố đội ngũ lãnh đạo và nguồn nhân lực trong công ty vẫn là yếu tố quan
trọng nhất.
5. Những ưu thế của vốn mạo hiểm so với các nguồn vốn khác:
Trang 5
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
- Các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi sự chỉ mới có ý tưởng là “tài sản” chính yếu
cũng có thể nhận được tài trợ vốn mạo hiểm mà không phải đáp ứng các yêu cầu về tài sản
đảm bảo cũng như các quy định trong thẩm định khác.
- Các công ty được đầu tư không cần một khoản đặt cọc hay ký quỹ nào. Việc rót vốn
của các quỹ đầu tư mạo hiểm dựa vào sự tin tưởng vào việc tạo dựng thành công doanh
nghiệp của người sáng lập và đội ngũ giám đốc công ty.

- Công ty còn nhận được sự tư vấn ở cấp chiến lược hướng dẫn họ bước sang giai đoạn
tăng trưởng kế tiếp. Đây là một lợi thế rất lớn bởi lẽ những công ty này vốn còn rất “trẻ” trong
công tác quản lý điều hành.
- Các nhà đầu tư và các doanh nhân khởi nghiệp thống nhất với nhau về mục tiêu vì hình
thức đầu tư mạo hiểm là nắm giữ cổ phần, tham gia chia sẻ thành công nếu công ty phát đạt,
song cũng gánh chịu rủi ro nếu thất bại.
Trang 6
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
CHƯƠNG II : VỐN ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM
1. Vài nét về các Công ty quản lý quỹ và các Quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài chủ
yếu tại Việt Nam :
Theo thống kê của Công ty quản lý quỹ chứng khoán VN (VFM), hiện có gần 30 quỹ đầu
tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn rót vào nội địa khoảng 2 tỷ USD.
Hiện nay, hàng loạt quỹ đầu tư nước ngoài đang đổ vốn vào thị trường chứng khoán Việt
Nam. Nhiều công ty quản lý quỹ đầu tư tập chung chính vào thị trường Việt Nam như Vina
Capital, Mekong Capital, Dragon Capital, IDG…
 Một số công ty Quản lý quỹ chủ yếu :
 Dragon Capital :
Dragon Capital là điển hình về sự kiên trì “bám trụ” ở VN. Đây là công ty quản lý quỹ
thành lập ở Anh năm 1994. Năm 1997-1998, khi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực xảy ra,
nhiều quỹ đầu tư đã ra đi. Nhưng Dragon Capital thì ở lại, và đã thành công. Dragon Capital
lập Quỹ Vietnam Enterprise Investment Limited (VEIL) năm 1995. Đây là quỹ đầu tư nước
ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng tài sản hiện nay ước tính khoảng 1 tỷ USD. Năm 2003,
Dragon Capital liên doanh với Sacombank để thành lập VietFund Mangagement (VFM), công
ty quản lý quỹ đầu tiên tại Việt Nam. Hiện VFM đang quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt
Nam (VF1).
Cuối năm 2004, Dragon Capital lại thành lập quỹ thứ hai tại Việt Nam là Vietnam Growth
Fund Limited (VGF) hiện có tổng vốn 500 triệu USD. Sang năm 2005, Dragon lập thêm quỹ
Vietnam Dragon Fund Limited (VDF) có tài sản hiện tại là 340 triệu USD. Quỹ đầu tư mới
nhất của hãng này là Vietnam Resource Investment (Holdings) Limited (VRI), từ 2007. Đây là

quỹ đầu tiên đầu tư vào các công ty kinh doanh về tài nguyên thiên nhiên.
 VinaCapital :
Công ty Quản lý Quỹ VinaCapital bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ tháng 11/2003 với
việc ra đời quỹ đầu tư tư nhân Vietnam Opportunity Fund (VOF). VOF là quỹ do một số tổ
chức tài chính lớn thành lập để đầu tư vào Việt Nam.
Từ giữa năm 2006, Công ty Quản lý quỹ VinaCapital khai trương Quỹ bất động sản
VinaLand, nhưng số tiền mà các nhà đầu tư nước ngoài góp vào quỹ đã lên tới 65 triệu đô la
Mỹ, vượt mức dự kiến 15 triệu đô la Mỹ. Ngoài VinaLand, VinaCapital đang nỗ lực giải ngân
nốt số tiền còn lại chừng 50 triệu đô la Mỹ trong tổng số 171 triệu đô la Mỹ của Quỹ Vietnam
Opportunities Fund (VOF) với hướng đầu tư chính của VOF tiếp tục là cổ phiếu trên thị
trường OTC và địa ốc.
Trang 7
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
Ngay từ đầu năm 2007, VinaCapital đã lên kế hoạch thành lập mới một quỹ đầu tư bất
động sản với tổng vốn đầu tư lên tới 200 triệu USD.
Ngày 5/7/2007, Vina Captial đã chính thức đưa Quỹ Cơ sở hạ tầng Việt Nam (Vietnam
Infrastructure Limited–VIL) lên niêm yết trên sàn chứng khoán thứ cấp London (Alternative
Investment Market – AIM). Đây là quỹ đầu tiên giao dịch trên thị trường AIM tập trung vào
các lĩnh vực hạ tầng cơ sở then chốt của Việt Nam, bao gồm: năng lượng, vận tải, nước và
viễn thông. Sự kiện này đã nâng số quỹ đầu tư mà Vina Capital mở tại Việt Nam lên thành
bốn quỹ với tổng số vốn đầu tư gián tiếp đã thu hút vào Việt Nam lên tới 1,8 tỷ USD.
VinaCapital cũng đang đẩy mạnh đầu tư vào các công ty công nghệ. Công ty quản lý quỹ
này đã liên doanh với Tập đoàn Draper Fisher Jurveton (DFJ) - tập đoàn đầu tư mạo hiểm với
tổng vốn đầu tư trên 3,5 tỷ USD để lập quỹ đầu tư DFJ VinaCapital với tổng số vốn đầu tư
ban đầu là 50 triệu USD.
 Mekong Capital :
Mekong Capital là công ty quản lý quỹ đầu tư tập trung vào Việt Nam do các cá nhân có
kinh nghiệm về mảng quản lý đầu tư cả ở Việt Nam và quốc tế thành lập năm 2001.
Phần lớn các vị trí cao cấp trong công ty là do người Việt Nam nắm giữ và cũng là cổ đông
của công ty.

Công ty bắt đầu hoạt động từ năm 2002 tại Việt Nam với việc thành lập Quỹ đầu tư
Mekong Enterprise Fund I (MEF) với tổng số vốn đầu tư 18,5 triệu USD. Mekong Capital
chọn những công ty thuộc khu vực tư nhân ở các địa phương với quy mô nhỏ làm đối tác.
Đến nay, quỹ đã đầu tư hết vào 10 công ty Việt Nam như: Công ty Xây dựng và Kiến trúc
AA, Công ty tin học Lạc Việt, Công ty nhựa Tân Đại Hưng, Công ty gỗ Đức Thành.
Ngày 5/6/2006, công ty đã chính thức khai trương quỹ đầu tư cổ phần thứ 2 (Mekong
Enterprise Fund II) tại TP.HCM. Quỹ có tổng vốn 50 triệu USD, tập trung đầu tư vào các công
ty tư nhân Việt Nam phục vụ cho thị trường trong nước, hoạt động trong các lĩnh vực sản
xuất, phân phối và quảng bá thương hiệu (vốn đầu tư trung bình cho mỗi dự án là 3 triệu
USD).
Cũng từ giữa năm 2006, Công ty đã đẩy mạnh đầu tư gần hết số vốn 18,5 triệu đô la Mỹ
của Mekong Enterprise Fund vào các doanh nghiệp cổ phần.
Tháng 06/2007 thành lập Vietnam Azalea Fund Limited (VAF) là quỹ đầu tư với trị giá
100 triệu đô-la Mỹ tập trung thực hiện các khoản đầu tư thiểu số vào các phân khúc trước
niêm yết và đã niêm yết của thị trường đầu tư cổ phần tư nhân. Quỹ nhắm đến các công ty sẽ
Trang 8
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
dẫn đầu Việt Nam trong tương lai, bao gồm các công ty tư nhân và công ty nhà nước cổ phần
hóa.
Quỹ VAF khác với những quỹ đầu tư khác tại Việt Nam trên những phương diện sau:
+ Quỹ đầu tư vào các công ty hàng đầu tại Việt Nam với tiềm năng sẽ trở thành blue-chip
trong những lĩnh vực tạo giá trị được kiểm chứng vào thời điểm Quỹ bán ra khoản đầu tư.
+ Quỹ cam kết đóng góp giá trị gia tăng cho những công ty mà Quỹ đầu tư, bao gồm tư
vấn Quản trị Doanh nghiệp, tư vấn truyền thông quan hệ với các nhà đầu tư, hỗ trợ giai đoạn
chuẩn bị IPO, giới thiệu cơ hội kinh doanh, mua bán sáp nhập, và hỗ trợ tư vấn chiến lược cần
thiết khác;
+ Quỹ chỉ tập trung đầu tư vào những công ty có đội ngũ quản lý mạnh và cam kết liên tục
củng cố đội ngũ quản lý của họ;
+ Quỹ có hệ thống tiêu chí nghiêm ngặt cho việc lựa chọn các khoản đầu tư. Quỹ chỉ đầu
tư vào những công ty xuất sắc mà ở đó sự kết hợp của các bên có khả năng trở thành những

khoản đầu tư thành công;
+ Quỹ đầu tư với giá giảm mạnh so với bội số dự kiến vào thời điểm Quỹ bán ra khoản
đầu tư.
 Indochina Capital:
Indochina Capital đã hoạt động ở Việt Nam 15 năm
Trong 15 năm qua, công ty đã tiến hành đầu tư 1 tỷ USD vào các dự án địa ốc, trong đó
tiêu biểu là các dự án như Khách sạn Furama (Đà Nẵng), Saigon Center (Tp.HCM), 63 Lý
Thái Tổ (Hà Nội)... và nhiều dự án địa ốc khác do công ty đầu tư chính; và góp vốn chung với
một công ty khác đầu tư dự án khu du lịch Nam Hải (Đà Nẵng).
Ngoài lĩnh vực bất động sản, công ty còn đầu tư vào thị trường chứng khoán kể từ khi thị
trường chứng khoán bắt đầu mở cửa cho đến nay và tổng cộng công ty đã đầu tư khoảng 50
Trang 9
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
triệu USD vào thị trường chứng khoán. Hiện công ty đang quản lý số vốn khá lớn của các tổ
chức tài chính và các cá nhân nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2006, Indochina Capital cũng đã thành lập hai quỹ, một địa ốc với 42 triệu đô la Mỹ
và một quỹ chứng khoán với 50 triệu đô la Mỹ.
Để phục vụ cho mục tiêu lâu dài trên thị trường Việt Nam, Indochina Capital đã thành lập
Quỹ Indochina Capital Holding Limited và thực hiện đợt phát hành và niêm yết trên thị trường
chứng khoán London với quy mô ban đầu là 500 triệu USD (3/2007). Sự kiện này ngay lập
tức đã thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài và trong đợt phát hành lần đầu
Indochina Capital Vietnam Holding Limited dự định thu hút khoảng 300-350 triệu USD
nhưng đã nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư và đạt được con số 500 triệu
USD.
 Một số quỹ đầu tư mạo hiểm chủ yếu:
 Prudential:
Quỹ đầu tư Prudential (PRUBF1) do Công ty Quản lý Quỹ đầu tư Prudential Việt Nam
thành lập năm 2006.
Trong các quỹ đầu tư của nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam hiện nay, Prudential
được xem là quỹ đầu tư lớn nhất với quy mô quỹ vào khoảng 500 triệu USD.

Tuy nhiên, 65% vốn của quỹ này dành để đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, chỉ có khoảng
35% còn lại tương đương với khoảng 175 triệu USD là dành đầu tư vào tài sản vốn và thị
trường chứng khoán.
 Vietnam Enterprise Investment Fund (VEIL) :
VEIL là quỹ đầu tư nước ngoài duy nhất có thời gian hoạt động lâu nhất tại Việt Nam.
Quỹ được thành lập vào tháng 7-1995 với tổng số vốn huy động ban đầu là 35 triệu USD, và
trong hơn 10 năm hoạt động đó VEIL đã vượt qua khủng hoảng kinh tế khu vực và nâng số
vốn huy động lên đến hơn 109 triệu USD. Hiện nay, VEIL là quỹ đứng thứ hai tại Việt Nam
về mặt quy mô vốn huy động nhưng lại đứng đầu về lượng vốn hóa thị trường.
Nguồn vốn đầu tư của VEIL được huy động từ các nhà đầu tư có tổ chức nước ngoài chủ
yếu từ Anh, Mỹ và Canada. Bên cạnh đó, VEIL có một phần vay từ tổ chức tài chính quốc tế
IFC trực thuộc Ngân hàng Thế giới WorldBank. VEIL là quỹ đóng và được niêm yết trên thị
trường chứng khoán (TTCK) NCB ở Ailen.
Quỹ VEIL được thành lập bởi Công ty quản lý quỹ Dragon Capital với mục tiêu đầu tư
vào các công ty tư nhân, doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần hóa, công ty cổ phần niêm yết
Trang 10
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
hoặc chưa niêm yết và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài mà nguồn doanh thu chủ yếu từ
Việt Nam.
VEIL ưu tiên đầu tư vào 5 ngành chính là tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng, bưu chính -
viễn thông, du lịch, khai thác khoáng sản và hàng tiêu dùng. VEIL tập trung đầu tư vào doanh
nghiệp có quy mô vốn từ 2 - 3 triệu USD trở lên và đặc biệt không đầu tư vào các công ty
được quản lý bởi gia đình.
Trong năm 2005, VEIL được xem là quỹ có kết quả hoạt động tốt nhất tại Việt Nam khi
giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ tăng 37,1% so với các năm trước và giá của một đơn
vị quỹ VEIL được giao dịch cao hơn gần 11% giá trị tài sản ròng.
 Vietnam Growth Fund (VGF) :
Quỹ VGF cũng được quản lý bởi Dragon Capital và thành lập vào tháng 10-2004 với số
vốn huy động ban đầu là 60 triệu USD. Cũng như VEIL, VGF là quỹ đóng và được niêm yết ở
TTCK NCB ở Ailen. VGF có tốc độ tăng vốn khá nhanh so với VEIL, chỉ sau hơn một năm

hoạt động quy mô vốn của quỹ đã tăng 66,7% đạt 100 triệu USD.
Mục tiêu đầu tư của VGF là nhằm vào những công ty có tốc độ tăng trưởng nhanh và
thuộc những ngành đầu tư như VEIL. VGF đặc biệt không đầu tư vào thị trường bất động sản.
Giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ và giá giao dịch của VGF vào cuối năm 2006 tăng
15% và 17,6% so với năm trước.
 Vietnam Dragon Fund (VDF) :
Dragon Capital cho biết mới vừa thành lập Quỹ VDF vào đầu năm 2006 với số vốn đầu tư
ban đầu là 35 triệu USD. Quỹ VDF được huy động vốn bởi các nhà đầu tư Nhật Bản. Đây
cũng là một quỹ đóng và được niêm yết ở TTCK NCB. Mục tiêu đầu tư của VDF tương tự
như VEIL là ưu tiên đầu tư vào 5 ngành chính là tài chính - ngân hàng, cơ sở hạ tầng, bưu
chính - viễn thông, du lịch, khai thác khoáng sản và hàng tiêu dùng.
Trong 9 tháng đầu năm 2006, VDF đã thực hiện 30 khoảng đầu tư vào các công ty niêm
yết và không niêm yết hoạt động chủ yếu ở Việt Nam. Tổng giá trị tài sản ròng tính đến cuối
tháng 9-2006 đạt hơn 169 triệu USD tăng gần 22,5% so với tháng 12-2005.
 Vietnam Opportunity Fund (VOF):
VOF của Vinacapital bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ tháng 9-2003, đến tháng 9-2006
có quy mô tổng vốn huy động 171 triệu USD được tập trung đầu tư vào những ngành có tốc
độ tăng trưởng nhanh như dịch vụ tài chính, hàng tiêu dùng, bán lẻ, bất động sản, du lịch, cơ
sở hạ tầng và ngành công nghệ.
Trang 11
Đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam
Mới hoạt động hơn 3 năm, VOF đã đạt kết quả đầu tư tốt và tốc độ tăng vốn nhanh. Giá trị
chứng chỉ quỹ luôn được giao dịch cao hơn giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ khoảng
20 – 25% và thậm chí đạt đến đỉnh điểm 44,6%.
Giá trị tài sản ròng trên một cổ phiếu quỹ vào đầu năm 2006 đạt 1,6 USD, tăng 39,1% so
với cùng kỳ năm trước. Quy mô vốn của VOF vào cuối năm 2005 nhỏ hơn VEIL, nhưng gần
đây VOF đã huy động thêm được hơn 76 triệu USD từ nhà đầu tư Millenium Parnerts của Mỹ
và vươn lên đứng đầu về vốn đầu tư tại Việt Nam.
 PXP Vietnam Fund :
Thành lập sau VOF chừng 3 tháng, PXP Việt Nam chỉ tập trung đầu tư vào những công ty

đã niêm yết hoặc chuẩn bị niêm yết tại TTCK Việt Nam. Quỹ PXP đầu tư dài hạn vào những
công ty Việt Nam hoặc có vốn đầu tư nước ngoài nhưng lượng vốn hóa ở mỗi công ty phải đạt
tối thiểu 5 triệu USD hay có chỉ số giá trên thu nhập (P/E) của công ty đó phải tương đương
với P/E thị trường.
Nhờ vào sự tăng trưởng mạnh của TTCK Việt Nam nên PXP đã cải thiện nhanh kết quả
đầu tư, sau 2 năm hoạt động giá trị tài sản ròng trên một đơn vị quỹ đạt 3,2 USD, tăng 33,3%
so với năm trước. Với việc đầu tư vào Công ty Dược phẩm Imexpharm, trong cùng thời gian
này PXP đã nâng tổng số công ty đã đầu tư lên 23 đơn vị và đạt 93% tổng lượng vốn huy
động.
Tất cả 10 công ty chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng tài sản ròng của PXP là những doanh
nghiệp đã niêm yết trên TTCK và có kết quả kinh doanh tốt trong năm vừa qua. Ngoài việc
thành lập quỹ mới VEEF vào cuối tháng 11-2005, PXP tăng quy mô quỹ từ 25,8 triệu USD lên
khoảng 40 triệu vào quý 2-2006 bằng cách phát hành thêm hơn 2 triệu cổ phiếu.
 Vietnam Emerging Equity Fund (VEEF) :
Bên cạnh PXP Việt Nam, PXP Asset Management đã mở thêm quỹ đầu tư mới Vietnam
Emerging Equity Fund (VEEF) vào thị trường Việt Nam với quỹ mô vốn khoảng 15,9 triệu
USD từ tháng 11-2005 và được niêm yết tại TTCK Ai-len (NCB). VEEF cũng tập trung đầu
tư vào những công ty niêm yết hoặc chuẩn bị niêm yết trên TTCK Việt Nam. Đến giữa quý 3-
2006, VEEF đầu tư vào 28 công ty Việt Nam, giá trị tài sản ròng đạt 52,5 USD, tăng 36% so
với lúc mới thành lập.
 Mekong Enterprise Fund (MEF) :
Trong số 7 quỹ tư nhân và quỹ không niêm yết của nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, MEF
ra đời từ tháng 4-2002 với quy mô vốn 18,5 triệu USD và do Công ty Mekong Capital quản lý.
Đối tượng đầu tư của MEF là những công ty gia đình vừa và nhỏ, có kết quả kinh doanh tốt,
Trang 12

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×