1
LỜI NÓI ĐẦU
Sắp bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của nền khoa học kĩ thuật đang phát
triển với tốc độ nhanh chóng. Đất nước ta ngày càng hoà nhập hơn vào xu
thế tiến bộ đó của thế giới, với những bước đi công nghiệp hoá, hiện đại
hoá để trang bị cho cơ sở vật chất của chúng ta ngày càng tiên tiến hơn
hiện đại hơn. Nhờ có chính sách đổi mới đúng đắn ấy của nhà nước về
công nghệ thông tin và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam
mà hiện nay chúng ta đã có một số thiết bị điện tử được sử dụng ngày
càng nhiều vào các ngành như: Phát thanh truyền hình, Bưu chính viễn
thông, các viện nghiên cứu, các bệnh viện lớn, các nhà máy xí nghiệp
Chúng ta đang thừa hưởng những công nghệ hiện đại vào cuộc sống và
công việc hàng ngày thì cũng tồn tại song song với chính nó là các rủi ro
có thể xảy ra đối với các công nghệ đó. Chẳng hạn nếu giả sử hệ thống
bưu chính viễn thông sử dụng các thiết bị điện tử mà gặp sự cố như sét
đánh hoặc điều khiển sai kĩ thuật thì thiệt hại rất là to lớn vì các thiết bị
này có đặc điểm là phải nhập ngoại với giá trị rất cao so với thu nhập của
chúng ta. Để khắc phục những rủi ro có thể xảy ra thì bảo hiểm thiết bị
điện tử ra đời như một nhu cầu tất yêú giúp các tổ chức, cơ quan, xí
nghiệp yên tâm, tin tưởng để sử dụng các thiết bị điện tử cho công việc
của mình.
Ở Việt nam, có thể coi bảo hiểm thiết bị điện tử là một trong những
1
2
nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ mới nhất và đây là một nghiệp vụ khá
phức tạp đòi hỏi kĩ thuật cao trong các công đoạn và trong cách tính phí
Do vậy nghiên cứu nghiệp vụ này là rất cần thiết đối với những người
làm công tác bảo hiểm. Xuất phát từ cơ sở thực tiễn đó, nên trong quá
trình thực tập tại công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện em đã chọn đề tài:
“Phân tích đánh giá thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị
điện tử tại công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện và một số kiến nghị
nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện
tử”
Nội dung đề tài gồm một số phần chính như sau:
Phần I: Những vấn đề lí luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị
điện tử
Phần II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử tại
công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện
Phần III: Một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng nghiệp
vụ bảo hiểm thiết bị điện tử.
2
3
Phần I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
A> KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
1-Sự cần thiết phải bảo hiểm thiết bị điện tử
a-Khái niệm về thiết bị điện tử
Thiết bị điện tử là các loại thiết bị có chứa linh kiện bán dẫn và các mạch
điện tử, thông thường các thiết bị này không phải thực hiện phải thực
hiện bất kỳ hoạt động cơ khí nào. Các hoạt động như truyền và lưu trữ
thông tin đo lường và điều khiển, thử nghiệm, thẩm định và báo động đều
do thiết bị điện tử thực hiện.Với ưu điểm là có tốc độ truyền cực nhanh
và chính xác tuyệt đối, kích cỡ các linh kiện rất nhỏ, do đó chúng trở nên
rất quan trọng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Đơn giản lấy ví dụ như
kĩ thuật điện tử được ứng dụng vào giải quyết vấn đề nghiêm trọng là nạn
giao thông mật độ cao. Thông qua kĩ thuật máy tính, kĩ thuật điện tín và
các kĩ thuật khác lắp trên ô tô và dọc đường để đạt được mục đích cải
thiện tình hình an toàn giao thông và nâng cao khả năng giao thông trên
đường. Hiện nay do mật độ xe cộ dày đặc mà mỗi năm Mỹ thiệt hại về
kinh tế lên tới 100 tỷ đô la, số người chết do tai nạn giao thông mỗi năm
3
4
tới 41.000 người và 5 triệu người bị thương.
Các thiết bị điện tử cho phép tự động hoá trong các quả trình công nghệ
và kiểm tra sản phẩm ở các xí nghiệp dệt, nhà máy chế tạo mô tơ, hoá
chất trong hầm mỏ, nhà máy đóng tàu. Các thiết bị điện tử trực tiếp làm
tăng năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện điều
kiện làm việc. Chẳng hạn, trong việc học ngoại ngữ chỉ cần dùng máy vi
tính và hệ thống loa âm thanh ta có thể nghe chính xác như người nước
ngoài nói mà không phải có giáo viên trực tiếp dạy.
Ta có thể áp dụng những thành tựu của điện tử trong những thiết bị sử
dụng hàng ngày như vô tuyến truyền hình, máy ghi âm máy thu thanh.
Ngoài ra do sử dụng cáp quang và hệ thống vệ tinh mà khả năng liên lạc
toàn cầu sẽ được thực hiện một cách dễ dàng khả năng lựa chọn bất cứ
chương trình vô tuyến và radio hoậc thậm chí thực hiện chương trình
riêng từ băng ghi hoặc phím, khả năng thu tại nhà những bản in như; tin
tức báo chí, những tư liệu khác nhau từ trung tâm tính toán.
Để tìm hiểu một cách chi tiết về thiết bị điện tử phục vụ cho đề tài này, có
thể phân loại thiết bị điện tử ra làm các loại như sau:
- Các thiết bị EDP (Electronic Data processing) và các thiết bị điện tử
dùng trong văn phòng (máy vi tính, máy tính trung tâm), các thiết bị
ngoại vi như máy in, máy đếm, máy photocopy, máy chiếu
4
5
-Thiết bị viễn thông: thiết bị điện thoạI (ở các tổng đài điện tử), thiết bị
truyền xa (hệ thống telex,selex. )
- Thiết bị thu thanh truyền hình: các thiết bị rada, trạm vệ tinh mặt đất,
các bộ kính thiên văn , camêra truyền hình, thiết bị ghi hình, thiết bị tạo
hình, phòng ghi và sao video.
- Thiết bị chiếu sáng và thiết bị hàng hải: thiết bị đèn chiếu, đèn pha, đèn
huỳnh quang, các hệ thống tín hiệu, các hệ thống vô tuyến điện thoại và
thiết bị hàng hải bằng điện tử.
- Thiết bị y tế: thiết bị tia X quang dùng cho chẩn đoán, thiết bị bức xạ
đẳng hướng dùng để trị liệu, thiết bị phân tích dùng trong y học.
- Các bộ truyền dẫn và phát tín hiệu: các hệ thống báo động, hệ thống
đồng hồ đo, máy dò tìm và các hệ thống liên lạc bên trong.
Vì phạm vi bài viết có hạn, nên em chỉ đi sâu vào các thiết bị mà thực tế
công ty Bảo hiểm Bưu điện (gọi tắt là PTI) đã triển khai về nghiệp vụ. Đó
là thiết bị EDP, thiết bị viễn thông, thiết bị thu phát thanh, truyền hình.
b, Sự cần thiết phải bảo hiểm thiết bị điện tử:
Bước vào thế kỉ 21, sự phát triển của khoa học kĩ thuật sẽ là vấn đề
then chốt cho sự đi lên của thế giới văn minh. Các máy móc thiết bị đa số
liên quan đến điện tử, từ các máy tính cá nhân cho đến những vệ tinh
đang bay quanh trái đất của chúng ta. Do đó đòi hỏi phải có sự đảm bảo
5
6
về mặt tài chính nhằm tiến triển liên tục nhanh chóng và có hiệu quả.
Các rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm thiết bị điện tử cũng rất đa
dạng, từ các rủi ro thiên tai: mưa, bão, lụt cho tới các rủi ro do con
người gây ra như: sai lầm trong thiết kế, sai lầm của người điều khiển,
hành động phá hoại chỉ cần một sai sót nhỏ, có thể rất nhỏ xảy ra cũng
có thể dẫn đến nhứng hậu quả to lớn không thể lường trước được. Nó
gây tác hại không chỉ cho một ngành hay một khu vực kinh tế quốc đân
mà còn cho nhiều ngành nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau. Nó cũng có
thể làm chậm hẳn lại sự tiến triển của một ngành khoa học. Đặc biệt ngày
nay nhiều công trình, máy móc, thiết bị với các chức năng tự động hoá,
chuyên môn hoá cao, có giá trị rất lớn. Nếu tai nạn xảy ra có thể dẫn tới thiệt
hại to lớn, thậm chí có thể dẫn đến phá sản.
Cũng giống như loại hình bảo hiểm khác, bảo hiểm thiết bị điện tử
nhằm ổn định hoạt động của các tổ chức kinh tế trong trường hợp chẳng
may gặp các rủi ro nói trên. Với việc thu phí bảo hiểm của nhiều tổ chức
kinh tế và cá nhân có liên quan trong xã hội để lập qũi bảo hiểm và quan
hệ tái bảo hiểm có đủ khả năng bồi thường ngay tổn thất cho người được
bảo hiểm, cho dù tổn thất có lớn tới mức nào đi chăng nữa, giúp họ nhanh
chóng khắc phục hậu quả tổn thất, khôi phục sản xuất kinh doanh và đời
sống.
Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, mỗi tổ chức, đơn vị, xí nghiệp
6
7
đều phảI tự chủ về mặt tài chính và chủ động trong kinh doanh. Với cơ sở
vật chất sẵn có của mình, họ phải lo liệu làm sao sản xuất kinh doanh đạt
được hiệu quả cao nhất. Cơ chế mới đó vừa thúc đẩy sự phát triển sản
xuất của các xí nghiệp, mặt khác đòi hỏi các xí nghiệp phải tự chủ hơn
trong sản xuất kinh doanh vì với việc xoá bỏ cơ chế bao cấp, các xí
nghiệp sẽ không được Nhà nước trợ cấp trong các trường hợp làm ăn
không có hiệu quả hoặc không may gặp phải rủi ro làm ảnh hưởng đến
sản xuất, kinh doanh. Điều đó, buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến
vấn đề bảo hiểm. Nếu tham gia bảo hiểm, trong trường hợp gặp phải các rủi
ro gây ra thiệt hại tới tài sản, tiền vốn của họ thì bảo hiểm sẽ bồi thường kịp
thời các tổn thất đó, giúp người được bảo hiểm giải quyết ngay khó khăn về
mặt tài chính, không cần xin ngân sách nhà nước trợ cấp. Căn cứ vào điều
kiện tài chính của mình, chỉ với một khoản phí bảo hiểm rất nhỏ trả cho
người bảo hiểm, khi gặp tổn thất người được bảo hiểm sẽ nhận được
khoản tiền bồi thường của người bảo hiểm và sẽ chủ động nhanh chóng
khôI phục, đưa sản xuất kinh doanh trở lại bình thường.
Ngoài ra, khi tiến hành bảo hiểm thiết bị điện tử Người bảo hiểm cùng
với các ngành, các cơ quan hữu quan khác phối hợp tiến hành công tác đè
phòng, hạn chế tổn thất nhằm ngăn chặn có hiệu quả các rủi ro có thể gây
ra thiệt hại đối với tài sản, con người. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm
thiết bị điện tử, các biện pháp đề phòng, chữa cháy, kiểm tra, giám định
7
8
các thiết bị máy móc, đóng vai trò quan trọng. Theo thông lệ, trước khi
tiến hành bảo hiểm, người bảo hiểm phải theo rõi, kiểm tra và đánh giá
mức độ rủi ro của đối tượng được yêu cầu bảo hiểm, trên cơ sở đó sẽ
đóng góp kịp thời cho người được bảo hiểm các biện pháp cần thiết để
hạn chế kha năng xảy ra các rủi ro gây nguy hại cho tài sản được bảo
hiểm.
c,Vai trò và tác dụng của bảo hiểm thiết bị điện tử
Bảo hiểm thiết bị điện tử (Electronic Equipment Insurance-EEI) có một
số ưu điểm so với các loại hình bảo hiểm khác như:
Một là, EEI đưa ra khái niệm bảo hiểm rộng rãi nhất trong ngành
bảo hiểm. Dựa trên đơn bảo hiểm mọi rủi ro với rất ít các điều kiện loại
trừ, nó bảo đảm việc bồi thường sau khi tổn thất hay hư hỏng, thậm chí cả
trong các trường hợp không đáng quan tâm hay không quan trọng đối với
tài sản khác ví dụ như việc vận hành không có chuyên môn, dao động
điện áp, ám khói, ẩm ướt và nổ đèn chân không. Tuy nhiên, các hiểm hoạ
ấy đã gây ra một rủi ro rất nghiêm trọng cho thiết bị điện tử có độ nhạy
cảm về tần số và tính khốc liệt. Cũng như vậy, một nguyên nhân tương
đối nhỏ nhưng cũng có thể ảnh hưởng lớn về tài chính đối với tính liên
tục của hoạt động kinh doanh bởi vì các hoạt động này có thể hoàn toàn
phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của “trái tim" thiết bị điện tử.
Hai là, điều khoản tiêu chuẩn trong bảo hiểm thiết bị điện tử có đưa
8
9
ra điều kiện hoàn trả tiền trên cơ sở giá trị thay thế mới. Điều này đã đặt
người được bảo hiểm vào một vị trí sẵn có nguồn tiền đầy đủ để thay thế
ngay lập tức và không có sự khấu trừ thông thường theo điều kiện “mới
thay cũ".
Ba là, Bảo hiểm thiết bị điện tử mở rộng cả với thiệt hại mọi lĩnh vực
phần mềm và sự ứng dụng của nó. Ngày nay, dữ liệu gốc và dữ liệu giao
dịch được lưu trữ vào máy tính là nguồn thông tin phổ biến của mỗi công
ty do đó cả phần mềm và dữ liệu là những tài sản rất có giá trị đối với
mọi doanh nghiệp. Sự tồn tại và tính chính xác của chúng bị đe doạ bởi
rất nhiều rủi và hiểm hoạ đa dạng khi so sánh với chính thiết bị đó.
Các hoạt động có thể bị gián đoạn cho tới khi việc phục hồi đầy đủ thông
tin được tiến hành.
Bốn là, để chiều theo ý khách hàng, bảo hiểm thiết bị điện tử có thể thay
đổi phù hợp với từng nhu cầu thông qua các bản sửa đổi bổ xung và cơ
cấu định giá rủi ro.
2. Lịch sử phát triển bảo hiểm thiết bị điện tử
a) Khái quát về lịch sử bảo hiểm kĩ thuật
So với các loại hình bảo hiểm khác như: Bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm
cháy thì bảo hiểm kĩ thuật ra đời chậm hơn. Có thể nói rằng: Bảo hiểm
kĩ thuật ra đời cùng với sự xuất hiện của cuộc cách mạng khoa học kĩ
9
10
thuật và chính sự phát triển của khoa học kĩ thuật là động lực thúc đẩy sự
lớn mạnh không ngừng của lĩnh vực bảo hiểm này. Ta có thể đưa ra một
vàI số liệu để so sánh như sau:
- Bảo hiểm cháy ra đời từ năm 1667
- Bảo hiểm hàng hải ra đời vào năm1687
- Đơn bảo hiểm kĩ thuật đầu tiên xuất hiện vào năm
1859
Đó là đơn bảo hiểm về máy móc và năm 1859 xuất hiện đơn bảo hiểm
đầu tiên cho nồi hơi.
Tuy sinh sau đẻ muộn hơn so với các loại hình bảo hiểm khác, nhưng với
sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong thế kỷ 20
này, bảo hiểm kĩ thuật cũng đã tiến được những bước dài quan trọng và
trở thành một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng nhất hiện nay.
Trong năm 1972, tổng số phí BHKT tại CHLB Đức chỉ đạt 567 triệu DM,
nhưng năm 1981 đã tăng lên tới 1294 triệu DM
BHKT hiện nay đã xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của hoạt động kinh
tế, khoa học trên toàn thế giới, từ việc bảo hiểm các máy móc trong các xí
nghiệp sản xuất, các dụng cụ tinh vi trong y tế, trong các phòng thí
nghiệp cho tới việc bảo hiểm cho công trình xây lắp khổng lồ, các công tá
lắp ráp máy bay, tàu biển cỡ lớn và cho cả con tàu vũ trụ công ty
10
11
Munich Re, một công ty tái bảo hiểm đứng đầu thế giới,là một trong
những công ty đã sáng lập và phổ biến rộng rãi loại hình bảo hiểm này
cùng với các công ty khác trên thị trường bảo hiểm Lon don -trung tâm
bảo hiểm thế giới.
b) Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm thiết bị điện tử
Bảo hiểm thiết bị điện tử là một nghiệp vụ bảo hiểm tuy ra đời muộn hơn
so với các loại hình bảo hiểm khác nhưng đã phát triển rất nhanh và
chiếm một tỷ lệ lớn trong doanh thu phí bảo hiểm kĩ thuật. Gọi là ra đời
muộn nhưng nhìn lại lịch sử phát triển của loại hình bảo hiểm này, chúng
ta thấy nó cũng đã có trên 70 năm phát triển.
Từ những năm 20 của thế kỉ này đã xuất hiện những hợp đồng bảo hiểm
thiết bị điện tử như là những phần bổ xung cho các hợp đồng thuê mướn
và bảo dưỡng thiết bị. Vào năm 1921 công ty chuyên về bảo hiểm thiết bị
điện tử đầu tiên trên thế giới đã được thành lập.
Với nguồn gốc của nó trong những năm 1920 ở Đức, bảo hiểm điện áp
thấp, như tên gọi của nó sau đó được bắt đầu như một loại hình bảo hiểm
chuyên biệt cho thiết bị điện thoại, chủ yếu là để bảo vệ các công ty thuê
bao điện thoại chống lại ảnh hưởng về mặt tài chính có tính chất hậu quả
của tổn thất hay hư hỏng thiết bị.
Trong những năm 30, phạm vi vủa những thiết bị được bảo hiểm được
11
12
mở rộng bao gồm các hệ thống loa chuyên dùng, hệ thống tín hiệu ánh
sáng và hệ thống báo cháy cũng như các thiết bị viễn thông khác, tiếp đến
là xuất hiện của thế hệ máy tính điện tử.
Công nghệ máy tính hiện đại đã phát triển và được hoàn chỉnh bởi
KONZADZNSE tai Đức vào năm 1941. Trong cùng thời gian đó ở Mỹ,
hình thành chuỗi máy tính điều khiển tự động, bước tiếp theo là sử dụng
các ống điện tử cho việc tính toán. Máy tính lớn nhất ENIAC là một hệ
thống khổng lồ với hơn 18000 ống điện tử, 1500 thiết bị ngoại vi khác và
có mức tiêu thụ trên 150KW. Sau đó là một chương trình ghi nhớ được
phát hiện bởi nhà toán học John Newman trong năm 1948.
Cho đến năm 1950, có sự thay thế các ống điện tử bằng transito và diot.
Từ trước đến năm 1960 vi mạch điện tử mở đường cho “cách mạng công
nghiệp lần thứ 3"
Tiếp đến năm 1970: những yếu tố rủi ro mới xuất hiện đòi hỏi phải có
những điều kiện bảo hiểm mới dẫn đến sự ra đời đơn bảo hiểm thiết bị điện tử
(EEI).
Năm 1980 EEI trở thành hợp đồng bảo hiểm được yêu cầu nhiều nhất
trong lĩnh vực bảo hiểm kĩ thuật.
Không còn nghi ngờ gì nữa, sự phát triển nhanh chóng của ngành công
nghiệp điện tử trong thế kỉ 20 cùng với sự xâm nhập có nhiều đổi mới của
12
13
loại hình bảo hiểm thiết bị điện tử đã tạo ra loại hình bảo hiểm chuyên
dụng này có tầm quan trọng hiện nay của thế giới bảo hiểm. Ngày nay
nhiều doanh nghiệp không thể cạnh tranh khi thiếu vô số các loại công
nghệ mà nghành điện tử cung cấp và trong trường hợp tổn thất hay hư
hỏng thiết bị điện tử của mình nhiều công ty có thể không có khả năng
tồn tại lâu dài. Tình hình này đã có lợi cho sự phát triển của loại hình bảo
hiểm thiết bị điện tử trong quá khứ và sẽ phát triển liên tục trong nhiều
năm tới.
Hiện nay theo ước tính thì tại thị trường bảo hiểm đức, một thị trường
được coi là phát triển nhất vê bảo hiểm kĩ thuật nói chung và bảo hiểm
thiết bị điện tử nói riêng. Năm 1992 ở đức, bảo hiểm thiết bị điện tử đã
tạo ra doanh thu phí bảo hiểm vượt hơn 450.000.000 U S D chiếm gần
33% tổng doanh thu phí bảo hiểm kĩ thuật.
Ở Việt nam, bảo hiểm thiết bị điện tử đến thời điểm này có thể coi là một
trong những sản phẩm mới nhất được tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
(Baoviet) nghiên cứu triển khai bắt đầu vào tháng 10 năm 1996
3. Một số điều kiện thuận lợi của Việt nam trong việc hình thành và
phát triển nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử
Để hình thành và phát triển nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử
không thể đơn thuần áp dụng một cách máy móc, một sự tiếp thu thiếu
chọn lọc từ nhiều nước trên thế giới mà ngoài tính lí thuyết đầy thuyết
13
14
phục thì xuất phát điểm thứ hai đó là tình hình thực tế, nó có phù hợp có
khả thi hay không. Cũng một nghiệp vụ bảo hiểm nhưng chỉ có thể thành
công ở nước này nhưng lại hoàn toàn không triển khai được ở nước khác,
điều này cũng chính là do điều kiện nội tại của bản thân mỗi nước, có đặc
điểm và ưu thế riêng. Các điều kiện đó chính là: điều kiện về kinh tế, điều
kiện về dân số và điều kiện về môi trường pháp lí. Ở Việt nam các điều
kiện đó như sau:
a,Điều kiện về kinh tế
Kinh tế là một trong những biểu thức quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình phát triển nghiệp vụ này. Khi một nền kinh tế nghèo nàn thì
điều kiện đầu tư cho cơ sở vật chất sẽ không được trang bị hiện đại do đó
sẽ không có bảo hiểm thiết bị điện tử. Nhưng thực tế là ở Việt nam kinh
tế chưa phải là phát triển song những gì mà nền kinh tế đã đạt được như
hiện nay quả là một điều kiện hết sức thuận lợi cho nghiệp vụ bảo hiểm
thiết bị điện tử phát triển.
Sau khi có chính sách đổi mới về kinh tế, mở cửa ra thị trường thế giới thì
thị trường việt nam về công nghệ thông tin đã được khởi sắc từ đầu
những năm 90. Bước khẳng định cho sự phát triển thị trường này là tác
động vĩ mô của nhà nước về chính sách công nghệ thông tin. Ngày 7
tháng 4 năm 1993 chính phủ ban hành Nghị định 49/CP xác định chính
sách, quan điểm và mục tiêu của việc phát triển công nghệ thông tin đến
14
15
năm 2000.
Các công ty máy tính tầm cỡ thế giới bắt đầu bước vào thị trường Việt
Nam như Compaq, IBM, ACER.
Một yếu tố hết sức thuận lợi nữa là khi nền kinh tế Việt nam có mức độ
tăng trưởng cao và ổn định thì đi đôi với nó là yêu cầu phục vụ về thông
tin, phục vụ về sức khoẻ cho người dân, phục vụ sinh hoạt giải trí hết sức
được quan tâm. Đó là các nghành như: truyền hình,thiết bị phục vụ y tế,
các trung tâm điện tử, viện nghiên cứu bắt buộc phải có các thiết bị điện
tử có giá trị lớn nhập từ nước ngoài về. Do đó muốn bảo đảm cho chúng
trong điều kiện hết sức phức tạp ở Việt nam, các cơ quan như truyền hình
bệnh viện, bưu điện, phải tham gia nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử.
Bảng 1:Minh hoạ về tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam trong thời
gian 1994-1998
Năm 1994 1995 1996 1997 1998
Tốc độ tăng trưởng(%) 8,8 9,5 9,3 9,0 6,1
Môi trường kinh tế nói chung đang tạo điều kiện thuận lợi cho những
nước kém phát triển như Việt nam những cơ hội thuận lợi để mau chóng
hội nhập vào mạng lưới thông tin quốc tế. Tính toàn cầu hoá của mạng
lưới thông tin quốc tế biến bất cứ một quốc gia nào không phải là chiều đi
hay chiều đến thì cũng trở thành nơi quá cảnh của các luồng thông tin và
do đó việc nâng cao tính đồng bộ của hệ thống thông tin toàn cầu trở
15
16
thành yêu cầu khách quan. Với một đất nước hơn 70 triệu dân, mặt bằng
thông tin còn nhiều trống vắng nhưng lại có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, rõ ràng thị trường công nghệ thông tin Việt nam có sức hút lớn đối
với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Trong những năm gần
đây, dưới tác động của chính sách đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
đã mở ra những nhu cầu to lớnvề thông tin trong hoạt động kinh doanh và
mức sống của dân cư được nâng lên đã kéo theo những nhu cầu mới trong
giao tiếp và trao đổi thông tin không những trong lĩnh vực kinh tế mà còn
trong đời sống tình cảm tinh thần và nâng cao kiến thức. Như vậy, tăng
trưởng kinh tế và nâng cao mức sống đang và sẽ mở rộng thị trường công
nghệ thông tin ngày càng lớn hơn. Đồng thời chính sách mở cửa và quá
độ sang kinh tế thị trường còn hình thành một khuôn khổ thể chế mới cho
các quan hệ hợp tác và đầu tư quốc tế phát triển hơn nữa, đặc biệt là thời
kì sau khi quan hệ giữa Việt nam và Mỹ được bình thường hoá. Trong
lúc đó, việc Việt nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, quan
hệ kinh tế Việt nam với Nhật bản, với các nước EU và các quốc gia khác
trên thế giới đang tiến triển tốt, đã giúp cho thị trường công nghệ thông
tin có điều kiện không hạn chế trong việc tìm kiếm đối tác liên doanh
đáp ứng kịp thời đòi hỏi của tình hình mới.
b, Điều kiện về dân số:
Dân số là một trong những vấn đề quan trọng, là cơ sở để công ty PTI dự
16
17
đoán tiềm năng trong tương lai, những lỗ hổng của thị trường mà công ty
chưa khai thác được. Do đó nghiên cứu dân số để tìm ra được thực tế của
nó trên các mặt này sẽ là một trong những điều kiện tiên quyết giúp công
ty thành công trên con đường kinh doanh bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ
này nói riêng.
Bảng 2:Công nghệ thông tin và dân số các nước
Stt Quốc gia Dân số (triệu
người)
Số máy tính/1000người
1 Việt nam 72 0,5
2 Trung quốc 1178 1,00
3 Ấn độ 903 1,00
4 Philipin 68 4,00
5 Thái lan 59 9,00
6 Hàn quốc 45 37,00
7 Đài loan 21 74,00
8 Nhật 125 97,00
9 Hồng kông 6 101,00
10 Singapo 3 125,00
11 New Zealand 3 147,00
12 Úc 18 192,00
13 Mỹ 258 287,00
Nguồn:PC WoRLD 12/1995
Từ bảng trên cho ta thấy mức cầu của công nghệ thông tin một số nước
trên thế giới. Qua bảng này ta thấy số máy vi tính /1000người dân của
Việt nam là rất thấp, chứng tỏ rằng Việt nam còn là một thị trường công
nghệ thông tin tiềm năng lớn. Do đó bảo hiểm trong lĩnh vực này có
17
18
nhiều cơ hội để phát triển và đạt kết quả khả quan trong tương lai.
c,Điều kiện môi trường pháp lí:
Chúng ta không thể phủ nhận được tầm quan trọng của môi trường luật
pháp đối với nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử. Một môi trường luật
bảo hiểm thông thoáng ra đời sớm sẽ có nhiều ưu thế đối với các công ty
bảo hiểm. Ở Việt nam bước đầu đã có được ưu thế đó:
+ Từ cuối năm 1993 chính phủ Việt nam ban hành nghị định 100/CP
định hướng phát triển thị trường bảo hiểm Việt nam với việc cho phép
các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm kể cả
thành phần kinh tế tư nhân và nước ngoài. Cho phép các loại hình bảo
hiểm tồn tại và phát triển bao gồm công ty bảo hiểm gốc, công ty chuyên
tái bảo hiểm kể cả mạng lưới trung gian bảo hiểm (môi giới và đại lí )
Một môi trường như vậy sẽ tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm nói chung
và bảo hiểm thiết bị điện tử nói riêng tồn tại và phát triển một cách ổn
định và vững chắc.
+ Bộ tài chính đã ban hành các văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thực
hiện nghị định 100/CP (thông tư 46):qui định chế độ quản lí tài chính đối
với doanh nghiệp bảo hiểm (thông tư 45):qui định chế độ hoa hồng bảo
hiểm (thông tư 76 và 02 )qui định tái bảo hiểm bắt buộc (qui định
1235)hướng dẫn bảo hiểm các công trình xây dựng theo nghị định
18
19
117/CP(thông tư 105)
+ Luật bảo hiểm đang được nghiên cứu và soạn thảo
Các văn bản pháp qui khác liên quan đến hoạt động bảo hiểm đang được
soạn thảo, hoàn chỉnh sửa đổi bổ xung như:chế độ kế toán áp dụng cho
các doanh nghiệp bảo hiểm, luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam
Tất cả những tình hình trên thể hiện một môi trường pháp lí tương đối ổn
định và đang được hoàn thiện theo một định hướng phù hợp xu thế
chung của thế giới.
B- NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM THIẾT BỊ
ĐIỆN TỬ
I- ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI BẢO HIỂM CỦA NGHIỆP VỤ BẢO
HIỂM THIẾT BỊ ĐIỆN TỬ
1- Đối tượng bảo hiểm
Trong bảo hiểm thiết bị điện tử đối tượng bảo hiểm là các loại máy
móc thiết bị điện tử (tức là những máy móc thiết bị có lắp cac mạch và
các linh kiện điện tử )dùng trong các ngành các lĩnh vực khác nhau như
bưu điện, viễn thông, tin học, y tế, điện ảnh, phát thanh truyền hình, hàng
hải, hàng không, khí tượng khoa học kĩ thuật vv
2-Phạm vi bảo hiểm
19
20
Phạm vi bảo hiểm thiết bị điện tử được chia ra làm 3 phần. Đó là bảo
hiểm vật chất đối với các thiết bị điện tử, bảo hiểm cho phương tiện lưu
trữ dữ liệu bên ngoài và bảo hiểm chi phí gia tăng. Người tham gia bảo
hiểm có thể tham gia một hoặc cả 3 phần này và khi đó mức phí bảo
hiểm và quyền lợi của người được bảo hiểm cũng phụ thuộc tương ứng
vào việc lựa chọn các phạm vi bảo hiểm này.
Phần I-Tổn thất vật chất đối với thiết bị
Công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm những thiệt hại vật
chất bất ngờ không lường trước xảy ra đối với thiết bị điện tử do các
nguyên nhân như: cháy nổ, sét đánh trực tiếp hoặc gián tiếp, đoản mạch,
nước, sơ xuất của người sử dụng và các sự cố ngẫu nhiên khác không bị
loại trừ theo các điều kiện của đơn bảo hiểm.
Ngoài ra, nếu các thiết bị điện tử đã được công ty PTI bảo hiểm theo phần
I nói trên người được bảo hiểm có thể mua bảo hiểm thêm cho các phần
II và III như đề cập dưới đây.
Phần II:Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài
Công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm những chi phí để
sửa chữa hoặc thay thế các phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài trong
trường hợp chúng bị tổn thất do các rủi ro được bảo hiểm như qui ddịnh ở
phần I gây ra và các chi phí để khôi phục lại những thông tin đã mất.
20
21
Phần II chỉ có hiệu lực khi người được bảo hiểm tham gia cả phần I của
đơn bảo hiểm này
Phần III-Chi phí gia tăng
Nếu hệ thống xử lí dữ liệu điện tử (EDP) bị tổn thất vật chất thuộc pham
vi bảo hiểm, công ty PTI sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các chi
phí cho việc tạm thời thuê mướn các thiết bị thay thế cũng như các chi
phí về nhân công và các chi phí gia tăng khác theo qui định của Đơn bảo
hiểm nhằm đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của
người được bảo hiểm không bị gián đoạn khi tổn thất xảy ra.
II-RỦI RO BẢO HIỂM VÀ NHỮNG ĐIỂM LOẠI TRỪ
1-Rủi ro bảo hiểm
Có thể nói rủi ro bảo hiểm là một trong những khái niệm cơ bản cùng với
"bảo hiểm", "đối tượng bảo hiểm". Rủi ro bảo hiểm là yếu tố cấu thành
phạm vi bảo hiểm, là tiêu chuẩn để xác định một sự cố có phải là sự cố
bảo hiểm hay không. Và do đó, rủi ro bảo hiểm là khái niệm chi phối
mạnh mẽ kết cục xử lí một khiếu nại bảo hiểm, một vấn đề tài chính
-pháp lí tập trung và phức tạp nhất trong lĩnh vực bảo hiểm.
Thiết bị bảo hiểm phải chịu rất nhiều yếu tố rủi ro có thể dẫn đến tổn thất.
Một số rủi ro chính là:các rủi rỏ về kĩ thuật như: Cháy, nước, động đất,
bão, sét đánh.
21
22
Các yếu tố môi trường như:sự thay đổi về nhiệt độ, độ ẩm, khói
bụi. Tăng điện áp đột ngột, chập mạch điện, hỏng hóc cơ học, lỗi do bất
cẩn, cẩu thả của những người vận hành, phá ngầm trộm cắp.
Tất cả các rủi ro thường hay xảy ra đối với thiết bị điện tử kể trên đều
được bảo hiểm theo Đơn bảo hiểm thiết bị điện tử của PTI. Đơn bảo hiểm
thiết bị điện tử là dạng đơn bảo hiểm mọi rủi do, chỉ không bảo hiểm
những nội dung được ghi trong phần “các điểm loại trừ “Như vậy, có thể
thấy phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm này là rất rộng so với các loại
đơn bảo hiểm khác có thể bảo hiểm cho loại hình tài sản này, ví dụ như
đơn bảo hiểm cháy, nổ, sét đánh (trực tiếp) và một và rủi ro khác không
điển hình đối với các thiết bị điện tử (như rủi ro do máy bay và các
phương tiện hàng không khác rơi vào ; gây rối, bạo loạn, đình công,
giông bão Nhưng hầu hết những rủi ro được bảo hiểm theo đơn bảo
hiểm cháy không phải là rủi ro điển hình cuả thiết bị điện tử.
22
23
Bảng 3: Bảo hiểm cho các TBĐT
(Các rủi ro chính được bảo hiểm theo các đơn BH khác nhau)
Các rủi
ro
bảo
hiểm
Loại
hình
bảo
hiểm
Cháy (bao
gồm cả
các tổn
thất phát
sinh từ
các công
việc chữa
cháy và
cứu hộ)
Sét
đánh,
nổ,
đâm
va của
máy
bay
Cháy
xém,
cháy
âm ỉ
phủ
bụi bồ
hóng
Thiệt
hại do
điện
(đoản
mạch,
quá
điện
áp )
Trộ
m
cắp
Cướp
bóc,
phá
hoại
ngầm,
hành
động cố
ý
Rò
rỉ
nướ
c
Lũ
lụt,
ngậ
p
nướ
c
Vận
hành
sai
(bất
cẩn,
cẩu
thả,
thiếu
kỹ
năng )
Bảo
hiểm
TBĐT
BH
Cháy
Chỉ
sét
đánh
trực
tiếp,
23
24
nổ hoá
học
BH
Trộm
BH
thiệt hại
do nước
BH
Máy
móc
Chỉ
sét
đánh
gián
tiếp,nổ
lý học
2.Những điểm loại trừ
a) Điểm loại trừ chung:
Công ty PTI không bồi thường những thiệt hại là hậu quả trực tiếp
của sự hao mòn hay hư hỏng dần theo thời gian,chiến tranh và bạo lực,
trộm cắp (trừ khi có thoả thuận riêng) hành động ác ý hoặc có chủ ý của
người được bảo hiểm, phản ứng hạt nhân và nhiễm phóng xạ, lập chương
24
25
trình sai, các chi phí để thực hiện công tác bảo dưỡng nhằm mục đích hạn
chế và ngăn ngừa tổn thất và đảm baỏ cho các thiết bị hoạt động an toàn.
b.Các điểm loại trừ riêng:
Các điểm loại trừ riêng được áp dụng cho từng phần:
- Phần tổn thất vật chất đối với thiết bị
- Phương tiện lưu trữ dữ liệu bên ngoài
- Chi phí gia tăng
Cụ thể ta đi vào từng phần:
* Tổn thất vật chất đối với thiết bị điện tử:
Công ty PTI sẽ không chịu trách nhiệm đối với:
-Mức khấu trừ qui định trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm (gọi
tắt là BTTĐKBH) mà người được bảo hiểm phải chịu trong mọi sự cố.
Tuy nhiên nếu tronng một sự cố có 2 hạng mục trở lên bị tổn thất thì
người được bảo hiểm chỉ chịu mức khấu trừ cao nhất trong các mức khấu
trừ áp dụng cho các hạng mục bị tổn thất đó
-Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp gây nên bởi núi lửa động đất, sóng thần,
gió xoáy và bão mạnh từ cấp 8 trở lên
-Tổn thất trực tiếp hay gián tiếp do trộm cướp.
25