Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Phân tích đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.38 KB, 44 trang )

1 | P a g e
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng
trong quá trình điều hành các hoạt động của nền kinh tế. Tuy nhiên, chính sách
tiền tệ thực sự có ý nghĩa và thể hiện đúng vai trò vị trí của mình hay không lại
phụ thuộc vào quá trình sử dụng các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ của
ngân hàng trung ương. Để thực hiện vai trò và trách nhiệm đã được quy định
tại Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã sử
dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp
vụ thị trường mở.
Sau một thời gian dài chuẩn bị về hành lang pháp lý, trang thiết bị, nhân
lực, … nghiệp vụ thị trường mở đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chính
thức khai trương vào ngày 12/7/2000. Trải qua hơn 5 năm hoạt động, nghiệp vụ
thị trường mở đã được thực hiện an toàn, góp phần quan trọng vào việc điều
tiết và kiểm soát lượng tiền cung ứng của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên,
cũng như các công cụ chính sách tiền tệ khác của Ngân hàng nhà nước, nghiệp
vụ thị trường mở đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Số lượng các tổ chức tín
dụng tham gia ít, doanh số giao dịch nhỏ, hàng hoá giao dịch chưa nhiều, các
quy định về quy trình, xử lý thông tin còn chưa hoàn thiện. Vì vậy, nhu cầu đổi
mới và hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trưởng mở là hết sức cấp bách và cần
thiết. Nhận thức được điều đó, em đã lựa chọn đề tài “Phân tích đánh giá thực
trạng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở của
ngân hàng nhà nước” để làm đề tài nghiên cứu của tiểu luận
Page 1
2 | P a g e
Bài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận nghiệp vụ thị trường mở
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại
VN
Do kiến thức còn hạn hẹp, nhất là về NHTW và CSTT, nên bài tiểu
luận không thể tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế, rất mong nhận


được sự quan tâm, góp ý của cô giáo và các bạn để bài tiểu luận được hoàn
thiện hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của
PGS.TS Nguyễn Thị Quy đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.
Page 2
3 | P a g e
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
OMO : nghiệp vụ thị trường mở
NHNN : ngân hàng nhà nước
NHTW : ngân hàng trung ương
CSTT : chính sách tiền tệ
DTBB : dự trữ bắt buộc
GTCG : giấy tờ có giá
NHTM : ngân hàng thương mại
TCTD : tổ chức tín dụng
Page 3
4 | P a g e
Chương I : Cơ sở lý luận nghiệp vụ thị trường mở
1.1 Sự ra đời và phát triển của Nghiệp vụ thị trường mở
Theo cách hiểu chung nhất thì khái niệm “Nghiệp vụ thị trường mở-
OMO” là hoạt động mua bán các GTCG của NHTW với các đối tác được lựa
chọn để qua đó tác động tới lãi suất của thị trường hoặc dự trữ của các đối tác
này, vì thế có thể ảnh hưởng tới các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế thông qua
những ảnh hưởng về mặt lượng và giá cả. Thuật ngữ "Thị trường mở" ở đây
được hiểu là một thị trường có tính chất mở, nghĩa là đa dạng về các đối tác
tham gia thị trường và đa dạng về các loại giao dịch trên thị trường.
Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng đầu tiên bởi Ngân hàng Anh từ
những năm 30 của thế kỷ 19. Vào thời gian này, lãi suất tái chiết khấu của
Ngân hàng Anh được sử dụng như một công cụ chủ yếu để kiểm soát lượng
tiền cung ứng. Tuy nhiên, công cụ này tỏ ra kém hiệu lực khi lãi suất thị trường

tiền tệ giảm liên tục vượt khỏi sự chi phối của lãi suất tái chiết khấu. Điều này
thúc đẩy Ngân hàng Anh tìm kiếm công cụ có hiệu quả hơn để điều chỉnh lãi
suất thị trường theo hướng mong muốn.
Cách thức đầu tiên được áp dụng để nhằm làm tăng lãi suất thị trường
là:
- Bán chứng khoán chính phủ đồng thời hứa mua lại nó vào một ngày xác định
trong tương lai.
Page 4
5 | P a g e
-Vay trên thị trường - thực chất là một khoản vay từ người chiết khấu hoặc từ
người môi giới với đảm bảo bằng chứng khoán chính phủ.
-Bán hẳn các chứng khoán chính phủ.
-Vay từ các Ngân hàng thương mại.
-Vay từ người gửi tiền đặc biệt.
Bằng các cách này, lượng tiền trung ương giảm đi tương ứng với khối
lượng vay hoặc bán chứng khoán, lãi suất thị trường vì thế tăng lên.
Cùng thời gian này, Ngân hàng Trung Ương (NHTW ) Thuỵ Sỹ cũng sử
dụng nghiệp vụ bán các chứng khoán chính phủ nhằm thu hút lượng vốn khả
dụng dư thừa. Vào năm 1913, lúc đầu Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ cũng sử
dụng Nghiệp vụ thị trường mở như một công cụ bổ xung cho chính sách tái
chiết khấu. Tuy nhiên, trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất nghiệp vụ thị
trường mở ở những nước này được sử dụng như công cụ để tài trợ cho các chi
phí chiến tranh và các hoạt động điều chỉnh kinh tế sau chiến tranh. Cùng với
các hoạt động này, lượng chứng khoán chính phủ nằm trong tay các NHTW
tăng lên.
Đến năm 1920, nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này cũng vẫn chỉ
được sử dụng như công cụ bổ trợ cho chính sách lãi suất tái chiết khấu và làm
cho lãi suất tái chiết khấu trở nên hiệu quả. Nhưng sau đó, hiệu quả và tầm
quan trọng của nghiệp vụ thị trường mở ngày càng tăng lên, nó được sử dụng
như công cụ chính sách tiền tệ ở ba nước ban đầu này và sau đó trở thành xu

Page 5
6 | P a g e
hướng ở hầu hết NHTW các nước khác.
Điều này suất phát từ: hạn chế chính sách tái chiết khấu; sự mở rộng và
hoàn thiện của hệ thống thị trường tái chính; sự tăng lên của lượng chứng
khoán chính phủ và các chứng khoán có tính thanh khoản cao.
Cho đến nay nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng như một công cụ
Chính sách tiền tệ hiệu quả nhất ở hầu hết các NHTW của các nước.
1.2 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở.
Theo nghĩa gốc thì cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở” chỉ các hoạt động
giao dịch chứng khoá của các NHTW trên thị trường mở. Thông qua hành vi
mua, bán chứng khoán này, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ
thống Ngân hàng và gián tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó mà có thể ảnh
hưởng đến lượng tiền cung ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và về mặt
giá. Về lý thuyết, các chứng khoán là đối tượng giao dịch của NHTW, có thể là
chứng khoán chính phủ, các chứng khoán được phát hành bởi các doanh nghiệp
hoặc ngân hàng gồm cả chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Các chủ thể trong
giao dịch nghiệp vụ thị trường mở có thể là ngân hàng, các doanh nghiệp hoặc
các tổ chức phi tài chính khác.
Về mặt thực tế, nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao dịch của
NHTW trên thị trường mở. Xét về hình thức thì thị trường mở là thị trường
giao dịch các chứng khoán nợ ngắn và dài hạn. Tuy nhiên, khác với các khái
niệm có phạm vi và công cụ giao dịch rõ ràng như thị trường chứng khoán hay
Page 6
7 | P a g e
thị trường tiền tệ, thị trường mở ở các nước khác nhau về phạm vi, về loại hình
công cụ và thời hạn của các công cụ giao dịch trên thị trường.
Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm các chứng khoán
nợ ngắn hạn và những người tham gia chỉ gồm các tổ chức tín dụng. Như vậy,
ở Nhật thị trường mở là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Ngược lại ở Mỹ

hoặc Đức cho phép giao dịch cả các chứng khoán dài hạn trên thị trường mở.
Xét theo thời hạn của chứng khoán nợ thì thị trường mở ở những nước này bao
gồm cả một phần của thị trường chứng khoán. Theo cách này, khái niệm “
Nghiệp vụ thị trường mở” có ý nghĩa kinh tế khi nó gắn với cụm từ “Nghiệp vụ
thị trường mở”. Có nghĩa là, các giới hạn khác nhau về đối tượng và các chr thể
giao dịch của NHTW trong nghiệp vụ thị trường mở sẽ quyết định khái niệm
cụ thể về thị trường mở ở từng nước
1.3 Cơ chế tác động của Nghiệp vụ thị trường mở
1.3.1 Tác động về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng
Hành vi mua bán các GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng
tác động ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh
hưởng đến tiền gửi của các ngân hàng tại NHTW (nếu các NHTM là đối tác
tham gia OMO) và tiền gửi của khách hàng tại hệ thống ngân hàng (nếu các
khách hàng là đối tác tham gia OMO).
Sơ đồ 1.1. Cơ chế tác động của OMO tới dự trữ ngân hàng
Page 7
NHTW
bán
GTCG
Dự trữ
NH
giảm
Dự trữ mở
rộng cho
vay giảm
Khối
lượng TD
giảm
MS
giảm

8 | P a g e
Khi NHTW thực hiện bán GTCG cho các ngân hàng thì tiền gửi của ngân
hàng tại NHTW sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà NHTW
bán ra. Trường hợp người mua là các khách hàng của ngân hàng thì số tiền mua
GTCG sẽ làm giảm số dư tiền gửi của họ tại hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự
trữ của hệ thống ngân hàng giảm sút tương ứng với khối lượng GTCG mà
NHTW bán ra. Sự giảm sút dự trữ của hệ thống ngân hàng sẽ làm giảm khả
năng cho vay của ngân hàng và vì thế khối lượng tín dụng giảm dẫn đến cung
tiền sẽ giảm. Ngược lại, khi NHTW thực hiện mua GTCG trên thị trường mở,
kết quả làm dự trữ của các ngân hàng tăng lên. Như vậy, khi NHTW thực hiện
nghiệp vụ thị trường nó sẽ tác động đến dự trữ của các ngân hàng, làm ảnh
hưởng đến khối lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
1.3.2 Tác động về mặt giá - tác động qua lãi suất
Hành vi mua bán GTCG của NHTW trên thị trường mở có thể ảnh hưởng
gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung
cầu vốn NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu
tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi.
Mức lãi suất ngắn hạn này, thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động
arbitrage về lãi suất, sẽ truyền tác động tới các mức lãi suất trung và dài hạn
trên thị trường tài chính. Tại một mức lãi suất thị trường xác định, tổng cầu AD
của nền kinh tế, và do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định.
Page 8
9 | P a g e
Sơ đồ 1.2. Cơ chế tác động của OMO qua lãi suất
Thứ hai, việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung
cầu về loại GTCG đó trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán
thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán
này chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay
đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường, và vì thế mà tác

động đến tổng cầu AD và sản lượng.
Khi NHTW bán tín phiếu kho bạc sẽ làm giảm dự trữ của hệ thống ngân
hàng. Điều này làm giảm cung quỹ cho vay và sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn
hạn, làm lãi suất ngắn hạn có xu hướng tăng lên và tác động vào làm tăng các
lãi suất thị trường. Bên cạnh đó khi NHTW thực hiện bán tín phiếu kho bạc
trên thị trường mở sẽ làm tăng cung tín phiếu kho bạc trên thị trường, từ đó làm
giảm giá của tín phiếu kho bạc. Điều này làm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời
Page 9
Cung TPKB
tăng
NHTW bán
TPKB
Dự trữ NH
giảm
Đầu tư
giảm
Cung của quỹ
cho vay giảm
Lãi suất ngắn
hạn tăng
Lãi suất thị
trường tăng
Giá TPKB
giảm
LS thị trường
tăng
tăng
10 | P a g e
của tín phiếu kho bạc theo hướng tăng lên, dẫn đến sự chuyển dịch vốn đầu tư
sang tín phiếu kho bạc. Để cân bằng lãi suất và hạn chế sự dịch chuyển vốn đầu

tư, lãi suất thị trường sẽ tăng lên. Khi lãi suất thị trường tăng lên thì hoạt động
đầu tư của các chủ thể đối với nền kinh tế sẽ giảm xuống do tỷ suất sinh lời
giảm. Từ đó tổng cầu trên thị trường giảm xuống và góp phần làm giảm sản
lượng, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
1.4 Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
1.4.1 Các Nghiệp vụ thị trường mở
Trong nghiệp vụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi vì
nếu không có sự tham gia của NHTW thì khối lượng tiền tệ nói chung sẽ không
thay đổi. Một NHTW bản chứng khoán cho NHTM khác xét trong toàn cục chỉ
là sự dịch chuyển chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ dư
thừa từ NHTM này sang NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi.
Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở năng
động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở thụ
động nhằm bù lại những chuyển động của nhân tố khác đã ảnh hưởng tới cơ số
tiền tệ.
1.4.2. Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch mua bán hẳn).
Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá
của NHTW trên thị trường theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá
thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hắn quyền sở hữu đối với các
Page 10
11 | P a g e
chứng khoán là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ
các Ngân hàng là dài hạn các giấy tờ đó phải là các công cụ nợ có mức rủi ro
thấp và phải được phát hành bởi các tổ chức đủ điều kiện theo quy định
1.4.3 Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn).
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm
thời là các hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực
hiện một giao dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khoán từ
người môi giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày trong
tương lai.

Giao dich mua mua bán có kỳ hạn tồn tại dưới dạng:
Thứ nhất: Mua bán theo hợp đồng mua lại: Là việc NHTW ký hợp đồng
mua bán với người giao dịch và ngươi giao dịch đồng ý mua lại các giấy tờ có
giá của NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
Thứ hai : Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược : là việc NHTW
bán các giấy tờ có giá cho người giao dịch và người giao dịch lại đồng ý bán lại
các giấy tờ có giá cho NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong Nghiệp vụ thị
trường mở vì những lý do sau:
Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh
hưởng không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng, chi phí giao dịch của
một hợp đồng mua lại rẻ hơn so với hợp đồng mua đứt bán đoạn; Thích hợp
Page 11
12 | P a g e
trong trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến
việc sử dụng các giải pháp khắc phục; làm giảm thời gian thông báo, do đó mà
làm giảm bớt biến động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của
NHTW.
1.4.4 Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Trong nghiệp vụ này khi tham gia giao dịch thì NHTW đồng thời ký hai
hợp đồng và lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi
Hợp đồng 1: Mua bán ngoại tệ với tỷ gia giao ngay
Hợp đồng 2: Bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá co kỳ hạn
Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong
nghiệp vụ thị trường mở như: phát hành, chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch
hoán đổi các chứng khoán đến hạn .
1.5 Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở.
Các nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phưong thức
giao dịch song phương và qua phương thức đấu thầu. Có 2 loại đấu thầu: Đấu
thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất.

Phương thức giao dịch song phương.
Là phương thức mà NHTW với người giao dịch giao dịch thẳng với
nhau hoặc giao dịch thông qua nhà môi giới hoặc đại lý chứng khoán mà không
mua bán thông qua hình thức đấu thầu.
Page 12
13 | P a g e
Phương thức đấu thầu
 Đấu thầu khối lượng
Đấu thầu khối lượng là phương thức đấu thầu với lãi suất được
NHTW công bố trước. NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần
bán bằng phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất thực hiện. NHTW
công bố điều kiện đặt thầu để các thành viên đăng ký số tiền dự thầu trên
cơ sở chấp thuận mức lãi suất đã xác định trước. Sau khi mở thầu NHTW
sẽ xác định tỷ lệ giá trị đạt thầu và phân bổ cho từng tổ chức tham gia đặt
thầu.
Việc phân bổ thầu được tiến hành thực hiện như sau: Trước hết toàn
bộ số lượng đăng ký dự thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng khối lượng
đặt thầu nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng NHTW chào mua/chào bán thì
toàn bộ các đơn dự thầu đều được phân bổ theo khối lượng đặt thầu. Nếu
tổng khối lượng đặt thầu lớn hơn khối lượng NHTW chào mua/chào bán
thì khối lượng trúng thầu của từng thành viên được phân bổ tỷ lệ thuận
với khối lượng đặt thầu của thành viên đó. Các đơn dự thầu sẽ được phân
bổ như sau:
Tỷ lệ % phân bổ thầu: k = A/
1
n
i
i
b
=


trong đó:
- A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- n: là tổng số thành viên tham gia dự thầu
- b
i
là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i
- k là tỷ lệ phân bổ thầu
Page 13
14 | P a g e
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k, khối lượng trúng thầu của thành
viên thứ i (W
i
) được xác định như sau:
W
i
= k x b
i
 Đấu thầu lãi suất
Theo phương thức đấu thầu lãi suất thì các thành viên tham gia tự
đăng ký số tiền ứng với mỗi mức lãi suất do tự mình lựa chọn.
- Trường hợp NHTW cần cung ứng tiền thêm vào lưu thông thông
qua việc mua GTCG, các đơn dự thầu được sắp xếp theo thứ tự và được
phân bổ theo các mức lãi suất từ cao xuống thấp. Nghĩa là những đơn dự
thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân bổ trước cho đến khi khối
lượng phân phối được sử dụng hết. Nếu tại mức lãi suất thấp nhất được
chấp nhận, khối lượng đăng ký dự thầu lớn hơn khối lượng được phân
phối thì quá trình phân bổ như sau:
Gọi: - A: là khối lượng NHTW chào mua/chào bán
- r

t
: là mức lãi suất thứ t được đăng ký
- b(r
t
)
i
là khối lượng đặt thầu của thành viên thứ i ứng với mức
lãi suất r
t

- b(r
t
) là tổng khối lượng đặt thầu của các thành viên ứng với
mức lãi suất r
t

- r
m
là mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận.
Đối với trường hợp NHTW đấu thầu để bơm thêm vốn khả dụng cho
hệ thống ngân hàng thì: r
1


r
t


r
m


- k(r
m
) là tỷ lệ % trúng thầu được phân bổ tại mức lãi suất cuối
Page 14
15 | P a g e
cùng
A -
1
1
( )
m
t
t
b r

=

B(r
m
)
Trên cơ sở xác định được tỷ lệ k(r
m
), khối lượng trúng thầu của thành
viên thứ i (W
i
) tại mức lãi suất r
m
được xác định như sau:
W(r

m
) = k(r
m
) x b(r
m
)
- Trường hợp NHTW cần hút tiền từ lưu thông về thông qua việc bán
GTCG thì các quy trình diễn ra ngược lại.
Trên thế giới có hai phương thức đấu thầu lãi suất là đấu thầu theo
kiểu Mỹ và đấu thầu theo kiểu Hà Lan. Nếu đấu thầu theo kiểu Mỹ thì tất
cả các mức lãi suất đã đăng ký trong phạm vi đặt thầu đều thực hiện theo
đúng mức lãi suất đã đăng ký. Nếu đấu thầu theo kiểu Hà Lan thì tất cả
lượng đặt thầu được xác định cùng mức lãi suất đạt thầu.
1.6 Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở
1.6.1 Tín phiếu kho bạc.(TB)
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp
thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là
dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở của hầu
hết NHTW các nước vì:
-Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao.
-Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu
can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau.
Page 15
16 | P a g e
Bộ tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối
lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được
phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ.
Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn
của chính phủ và sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ.
1.6.2 Chứng chỉ tiền gửi (CD)

Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài
chính phi ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một
thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ
tiền gửi thường là ngắn hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay
đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang
quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho
ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tình ưu việt của chứng
chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự lưu thông của nó và do đó nó được sử dụng
như là hàng hoá phổ biến cho Nghiệp vụ thị trường mở.
1.6.3 Thương phiếu. (CP)
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc
cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian
nhất định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ
xung vốn ngắn hạn. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài
sản nợ đối với người phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng
Page 16
17 | P a g e
làm cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ
dàng trong thanh toán. Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng
mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại
NHTM.
1.6.4 Trái phiếu chính phủ.
Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát
hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái
phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính
an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác
động trực tiếp đến giá cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.
1.6.5 Trái phiếu chính quyền điạ phương.
Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa
phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu.

Thông thường người sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu
đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu.
1.6.6 Các hợp đồng mua lại.
Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử
dụng làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi
vay không thanh toán nợ.
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá, điều
này phụ thuộc vào:
Page 17
18 | P a g e
Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay
gắt, đặc biệt là dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính
và sự xuất hiện nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này đòi hỏi các tổ
chức tài chính phải tìm kiếm các công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn về
các mặt: Thời hạn, mức độ rủi ro, mức sinh lời, cách thức thanh toán nợ. Xu
hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hoá trên thị trường
mở.
1.7 Những bên tham gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể
tham gia thị trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác
nhau.
 Các Ngân hàng thương mại.
Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ
để duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng
thời qua thị trường này các NHTM thực hiện nghiệp cụ môi giới và kinh doanh
chứng khoán.
Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì:
NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn
gửi và dùng tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành
viên đặc biệt của thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay.

Page 18
19 | P a g e
 Các tổ chức tài chính phi ngân hàng .
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: Các công ty bảo hiểm,
công ty tài chính, quỹ đầu tư…Các tổ chức này coi thị trường mở như là nơi
kiếm thu nhập qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có
giá trị ngắn hạn hoặ dài hạn. Các tổ chức này thường có khối lượng chứng
khoán lớn và họ thường xuyên thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo
mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự tính thấp nhất. Đó là động cơ của họ để tham
gia vào Nghiệp vụ thị trường mở.
 Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn.
Các doanh nghiệp có nhu cầu bán chứng khoán để đổi ra tiền mặt hặc để
kiếm lời trong thời gian ngắn. Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có
thể mua các loại chứng khoán ngắ hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng
chỉ tiền gửi… để kiếm lời.
 Các hộ gia đình.
Hộ gia đình tham gia thị trường mở như họ phải chuyển các giấy tờ có
giá ngắn hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất, họ
mua các chứng khoán phòng ngừa rủi ro bật ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá nhờ
vào sự thay đổi lãi suất dự đoán.
 Các nhà giao dịch chuyên nghiệp.
Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc
mua bán các chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng
Page 19
20 | P a g e
sản xuất kinh doanh; các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và tổ chức tài
chính phi ngân hàng. Qua nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giữa giá mua,
giá bán.
 Ngân hàng Trung Ương.
NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị

trường thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn nhằm cung cấp
cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về
vốn cho nền kinh tế. NHTW sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch
định chính sách tiền tệ. Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng kiểm
soát và điều tiết hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia
thị trường mở không phải để kinh doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm
cho chính sách tiền tệ được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó.
 Kho bạc Nhà nước.
Kho bạc Nhà nước cung ứng hàng hoá cho thị trường mở như tín phiếu,
trái phiếu kho bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong
hoạt động của thị trường mở.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở
2.1 Thực trạng phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại VN:
2.1.1Thực trạng
OMO được xem là còn khá mới ở Việt Nam để NHNN điều hành chính
Page 20
21 | P a g e
sách tiền tệ. Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng 7/2000. Mặc dù
vậy, việc triển khai OMO cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới của nền
kinh tế, chuyển dần từ sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp sang sử dụng công
cụ gián tiếp, giúp các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh
chóng, kịp thời. OMO đang dần trở thành kênh chủ đạo để NHNN bơm tiền ra
nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp phần quan trọng điều hoà vốn khả
dụng của các NHTM.
Thực tiễn điều hành OMO thời gian gần đây cho thấy, NHNN đã giúp
các NHTM gia tăng lượng vốn khả dụng thông qua việc điều hành thị trường
mở theo hướng chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày và 28
ngày. Lãi suất qua kênh này cũng được giảm đáng kể, từ 7,8%/năm kỳ hạn 7
ngày xuống còn 7,5% - 7%/năm và tương đối ổn định suốt thời gian qua. Lãi
suất của kỳ hạn 28 ngày cũng giảm xuống ở mức khoảng 8%/năm. Hoạt động

thị trường mở được duy trì 2 phiên mỗi ngày, với khối lượng trúng thầu (loạt
phiên trong thời gian trở lại đây) liên tục ở mức cao, khoảng 5.000 - 8.000 tỷ
đồng, cao hơn so với trước kia. Trạng thái vốn ròng được thị trường xác định
cho thấy NHNN đang bơm tiền vào nền kinh tế thông qua các NHTM. Điều
này có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, các NHTM có thêm vốn để cấp tín dụng,
tức là gia tăng được lượng vốn khả dụng. Thứ hai, lãi suất cho vay có điều kiện
giảm do các NHTM có nhiều vốn để cho vay hơn. Thứ ba, các chủ thể kinh tế
nhờ đó gia tăng được cơ hội tiếp cận nguồn vốn do lượng cung nhiều hơn và lãi
suất giảm thấp hơn. Cùng với các biện pháp tiền tệ như tăng khối lượng cho
vay tái cấp vốn, hỗ trợ thanh khoản trực tiếp cho các NHTM quy mô nhỏ, giữ
Page 21
22 | P a g e
ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu,… việc
NHNN mua vào giấy tờ có giá với lãi suất thấp hơn đã góp phần không nhỏ ổn
định thị trường tiền tệ - tín dụng.
Sau một thời gian hoạt động, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở đã đạt
được những kết quả như sau:
Thứ nhất, các cơ chế và quy trình OMO đã được không ngừng cải tiến
và hoàn thiện
Dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành OMO, các Vụ Cục chức năng của
NHNN đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật có liên
quan. Về cơ bản, các vướng mắc về cơ chế, quy trình và hạ tầng kỹ thuật đã
được từng bước xử lý, khắc phục. Công tác tổ chức, điều hành hoạt động OMO
của NHNN được thực hiện bài bản, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong các phiên
giao dịch.
Các GTCG được sử dụng trong OMO đã được mở rộng theo tinh thần
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 2003. Đến nay các
GTCG được giao dịch không chỉ gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN mà
còn cả các loại trái phiếu dài hạn do ngân sách trung ương thanh toán.
Quy trình thanh toán từng bước được rút ngắn. Từ thanh toán sau 2 ngày

kể từ ngày đấu thầu (T+2) năm 2000, thanh toán sau ngày đấu thầu 1 ngày
(T+1) năm 2001 và từ năm 2002 đến nay việc thanh toán được thực hiện ngay
trong ngày đấu thầu (T+0). Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của
NHNN đưa vào vận hành từ tháng 5/2003 đã tạo điều kiện cho các giao dịch
Page 22
23 | P a g e
trên thị trường liên ngân hàng và OMO được thanh, quyết toán tức thời, đáp
ứng kịp thời nhu cầu vốn của các TCTD.
Tần suất giao dịch cũng được từng bước tăng cường từ 10 ngày/phiên
trong thời gian bắt đầu hoạt động lên 1 tuần/phiên trong năm 2001, 2
phiên/tuần năm 2002. Từ tháng 11/2004 hoạt động OMO đã thực hiện định kỳ
3 phiên/tuần, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Trong
những dịp giáp Tết, NHNN đã thực hiện giao dịch hàng ngày và tổ chức thêm
các phiên giao dịch đột xuất (cá biệt 2 phiên/ngày), giúp các TCTD đáp ứng
kịp thời vốn đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ
và an toàn hệ thống.
Thủ tục đấu thầu ngày càng được cải tiến. Nhất là từ ngày 15/12/2004,
NHNN đã bắt đầu áp dụng công nghệ trang Web trong giao dịch OMO, cho
phép thành viên kết nối trực tuyến với NHNN, không phải đầu tư máy chủ, tiết
kiệm chi phí đầu tư khi tham gia nghiệp vụ này. Điều này đã tạo điều kiện thu
hút thêm thành viên tham gia thị trường, qua đó nâng cao vai trò điều tiết của
công cụ này.
Thứ hai, OMO được kết hợp chặt chẽ và đồng bộ với các công cụ khác
nhằm phát tín hiệu điều hành CSTT và thực hiện mục tiêu CSTT.
Từ tháng 7/2000 đến năm 2002, việc NHNN mua bán GTCG thông qua
OMO đã góp phần điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD theo mục
tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Nhất là trong thời điểm các TCTD gặp khó khăn
về vốn khả dụng, OMO đã được kết hợp sử dụng đồng bộ với các công cụ
Page 23
24 | P a g e

CSTT khác như nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, nghiệp vụ cho vay cầm cố để hỗ
trợ kịp thời cho các TCTD đảm bảo khả năng thanh toán, góp phần duy trì ổn
định tiền tệ và thực hiện mục tiêu CSTT.
Tỷ trọng doanh số mua qua OMO trong tổng doanh số hỗ trợ vốn của
NHNN qua các kênh (TCV, OMO và Swap) ngày càng tăng qua các năm, từ
khoảng 45% năm 2001 lên 75% năm 2003 và khoảng 82% từ năm 2004 đến
nay. Điều này cho thấy vai trò điều tiết vốn khả dụng của OMO ngày càng
đóng vị trí quan trọng.
Trong năm 2003, do NHNN tăng cường mua ngoại tệ từ các TCTD nên
vốn khả dụng của các TCTD tăng lên. Để điều hoà vốn khả dụng VND của hệ
thống ngân hàng, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN thông qua
OMO. Từ tháng 4-7/2003, trước xu hướng các TCTD liên tục tăng lãi suất huy
động VND trong khi vốn khả dụng vẫn dư thừa khá lớn, bên cạnh việc điều
chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, giảm tỷ lệ DTBB, NHNN
đã liên tục chào mua GTCG trong các phiên giao dịch OMO với lãi suất thấp
nhằm phát tín hiệu sẵn sàng cung ứng vốn khả dụng với chi phí thấp, các
TCTD cần theo dõi và chủ động cân đối vốn hợp lý. Trong năm 2004 và 2005,
chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tục tăng trong khi đó, mục tiêu tăng trưởng kinh tế
vẫn được Chính phủ và NHNN hết sức quan tâm thực hiện. NHNN liên tục
chào mua GTCG để cung ứng vốn ra nền kinh tế nhằm góp phần hạ nhiệt lãi
suất thị trường. Chính vì vậy mà doanh số giao dịch OMO tăng đột biết trong 2
năm 2004-2005.
Page 24
25 | P a g e
Nhìn chung, việc điều hành OMO đã được kết hợp tương đối đồng bộ
với các công cụ CSTT khác nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Lãi suất OMO đã
kết hợp khá chặt chẽ với lãi suất TCV, lãi suất chiết khấu để định hướng lãi
suất thị trường.
Thứ ba, OMO là kênh để NHNN có được nguồn thông tin về tình hình
nguồn vốn của các TCTD và về tình hình thị trường tiền tệ nói chung, làm cơ

sở cho việc điều hành CSTT.
Trong điều kiện thông tin về thị trường tiền tệ còn chưa thu thập được
đầy đủ và kịp thời, kết quả hoạt động OMO có thể coi là kênh thông tin hữu
hiệu phản ánh một phần tình hình thị trường tiền tệ phục vụ cho điều hành
CSTT. Thông qua việc tổng hợp, phân tích các thông tin về khối lượng, lãi suất
đặt thầu và trúng thầu trong các phiên giao dịch OMO cũng có thể đưa ra các
nhận định về vốn khả dụng của các TCTD, cũng như xu hướng lãi suất thị
trường.
Trong điều kiện NHNN chuyển sang điều hành bằng các công cụ tiền tệ
gián tiếp như hiện nay, việc dự báo trước các diễn biến của thị trường để có
quyết định phù hợp và kịp thời về việc điều chỉnh các công cụ CSTT ngày càng
đóng vai trò quan trọng. Bằng việc theo dõi, dự báo thường xuyên vốn khả
dụng của các TCTD, NHNN đã nắm bắt được các diễn biến về vốn của các
TCTD để đưa ra các quyết định điều hành OMO và điều hành CSTT nói chung.
Thứ tư, hoạt động OMO đã góp phần phát triển thị trường tiền tệ, hỗ trợ
các TCTD sử dụng vốn có hiệu quả.
Page 25

×