Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
MỤC LỤC
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa BĐS và Kinh tế Tài nguyên
đã dạy em có một cái nhìn tổng quan về ngành Kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là cô giáo
PGS. TS Vũ Thị Minh, các cô chú, anh chị tại phòng nông nghiệp huyện Lục Nam và
phòng kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Lục Nam đã giúp em hoàn thành tốt Luận
văn tốt nghiệp của mình. Trong quá trình viết, đánh máy và trình độ còn hạn chế, Luận
văn của em không thể tránh khỏi được những hạn chế và sai sót, em rất mong được sự
góp ý, giúp đỡ của các thầy cô.
Sinh viên
Đặng Ngọc Châm
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
1
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
DANH MỤC VIẾT TẮT
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TDNH: Tín dụng ngân hàng
CBTD: Cán bộ tín dụng
UBND: Uỷ ban nhân dân
XDCB: Xây dựng cơ bản
TCTD: Tổ chức tín dụng
NHTM: Ngân hàng thương mại
TW: Trung ương
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
2
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nước ta đã và đang đi
theo nền kinh tế thị trường. Để tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy nhanh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ
văn minh, sản xuất nông nghiệp đạt những thành tựu to lớn, chúng ta đã áp dụng nhiều
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất lượng thực, thực phẩm không ngừng tăng cao. Từ
một nước thiếu lương thực thì cho tới nay nước ta đã trở thành một trong những nước
đứng đầu thế giới về xuất khẩu lương thực. Có được những kết quả đó là sự đóng góp
không nhỏ của kinh tế hộ gia đình - thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước
phát triển kinh tế hộ sản xuất trong đó trọng tâm là hộ nông dân sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp.
Từ định hướng và chính sách về phát triển kinh tế hộ sản xuất đã giúp cho Ngân
hàng nói chung, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng mở rộng và
từng bước hoàn thiện cơ chế cho vay kinh tế hộ sản xuất. Trong quá trình đầu tư vốn đã
khẳng định được hiệu quả của đồng vốn cho vay và khả năng quan lý, sử dụng vốn của
các hộ gia đình cho sản xuất kinh doanh, mở rộng thêm ngành nghề, tăng sản phẩm cho
xã hội, tăng thu nhập cho gia đình và hoàn trả lượng vốn cho Nhà nước. Tuy nhiên, những
tồn tại về cơ chế chính sách, hành lang pháp lý và những tác động của cơ chế thị trường
vẫn còn thiếu, đòi hỏi các cấp các ngành tiếp tục tháo gỡ khó khăn để đáp ứng đầy đủ kịp
thời có hiệu quả nhu cầu về vốn cho hộ sản xuất phát triển kinh tế.
Nhu cầu vốn đòi hỏi rất lớn từ nội lực các gia đình, từ ngân sách và từ nguồn vốn
tín dụng Ngân hàng. Do đó, phải mở rộng đầu tư vốn cho kinh tế hộ để tận dụng, khai
thác những tiềm năng sẵn có về đất đai, mặt nước, lao động, tài nguyên làm ra nhiều sản
phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế việc mở rộng cho
vay vốn đối với hộ sản xuất ngày càng khó khăn. Với chủ trương công nghiệp hoá - hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới thì nhu cầu
vay vốn của hộ sản xuất ngày càng lớn, hoạt động kinh doanh Ngân hàng trong lĩnh vực
cho vay hộ sản xuất sẽ có nhiều rủi ro. Bởi vậy mở rộng tín dụng phải đi kèm với việc
nâng cao hiệu quả của vốn tín dụng đối với hộ, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng
của Ngân hàng. Có như vậy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mới thực sự trở thành
tác nhân thúc đẩy kinh tế hộ nói riêng và nền kinh tế nói chung phát triển.
Nhận thức được những vấn đề trên và xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng cho
vay vốn đến hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, em quyết
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
3
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
định nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả Tín dụng của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang đối với hộ sản xuất
kinh doanh” nhằm tìm hiểu tình hình thực tế và từ đó tìm ra những giải pháp thích hợp
để đáp ứng nhu cầu vốn một cách hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
huyện và đảm bảo an toàn vốn đầu tư của Ngân hàng cho kinh tế hộ.
Đây là một đề tài mang tính lý luận, thực tế sâu sắc, rất rộng và phức tạp, với trình
độ còn hạn chế, việc thu thập tài liệu và nghiên cứu còn rất hạn chế, em sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót, nhược điểm. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô
trong khoa.
Em xin chân thành cảm ơn !
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
4
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT KINH DOANH
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
I. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT KINH DOANH (SXKD)
1. KHÁI NIỆM HỘ SXKD
Nước ta là một nước nông nghiệp có truyền thống lâu đời với hơn 70% dân số làm
nông nghiệp, tuy nhiên trình độ sản xuất nông nghiệp còn ở mức thấp, quy mô nhỏ lẻ,
manh mún, thiếu tính tập trung và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp thấp. Chính vì lẽ
đó mà quy mô kinh tế hộ vẫn chiếm tỉ trọng cao và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế và là đối tượng phát triển chính trong công cuộc chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang
nền kinh tế hàng hóa.
Khái niệm hộ SXKD luôn được chú trọng xây dựng một cách thống nhất hợp lý,
đảm bảo tính đúng đắn trong việc hiểu quan niệm về hộ gia đình và vai trò của hộ gia
đình trong nền kinh tế.
Hộ SXKD nói một cách đầy đủ là hộ gia đình tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh. Hộ gia đình nước ta chủ yếu sống và hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn, do vậy hộ nông nghiệp là điển hình kinh tế trong cơ cấu các thành phần kinh tế nước
ta. Đặc biệt đối với huyện miền núi Lục Nam, hơn 70% số hộ sống trên địa bàn nông
thôn, hơn 80% số hộ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
“Hộ gia đình” theo điều 116 - Khoản 1 - Bộ Luật dân sự được định nghĩa là: một
trong các chủ thể trong quan hệ dân sự, là những hộ gia đình mà thành viên có tài sản
chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất
kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do
pháp luật quy định… Tuy nhiên “hộ”, ”gia đình”, ”hộ gia đình” là 3 khái niệm dễ gây
nhầm lẫn trong việc hiểu, tưởng là trùng nhau nhưng trong những hoàn cảnh và thời điểm
khác nhau chúng rất khác nhau và được căn cứ vào 3 tiêu thức để phân biệt:
+ Quan hệ hôn nhân, huyết thống dân tộc
+ Cư trú chung
+ Có chung cơ sở kinh tế
Khái niệm “Hộ gia đình” để hiểu một cách đầy đủ nhất phải bao gồm cả 3 tiêu thức trên
Từ sau nghị quyết 10 - Bộ Chính trị, hộ được xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ,
là thành phần kinh tế cơ bản của nông thôn - các hộ được giao đất sử dụng lâu dài, ổn
định với 5 quyền năng: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế. Kết
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
5
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
hợp với cơ sở kinh tế của hộ được quy định trong bộ luật dân sự càng khẳng định tính chủ
động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ.
+ Về tài sản chung của hộ là tài sản mà các thành viên cùng tạo lập hoặc được cho
chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung, quyền sử dụng
đất hợp pháp của hộ cũng là tài sản chung.
+ Về đại diện hộ sản xuất trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ thì
được quy định là chủ hộ. Cha mẹ hay một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ,
chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện của hộ trong quan
hệ dân sự. Giao dịch dân sự do đại diện của hộ SXKD xác lập, thực hiện lợi ích chung của
hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ SXKD.
+ Hộ sản xuất phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh hộ sản xuất. Hộ chịu trách nhiệm dân
sự bằng tài sản chung của hộ. Nếu tài sản chung của hộ không đủ để thực hiện nghĩa vụ
dân sự chung của hộ thì các thành viên khác phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản
của riêng mình.
Tóm lại: Hộ SXKD được xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ bao gồm nhiều
người có cùng quan hệ huyết thống, có tài sản chung được phép kinh doanh trên một
số lĩnh vực nhất định do nhà nước quy định.
2. ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT KINH DOANH
Kinh tế Việt Nam từ khi mở cửa - tiếp nhận nền kinh tế thị trường, tốc độ tăng trưởng
kinh tế hàng năm trong hơn 10 năm đổi mới đạt mức cao, bình quân hơn 8%. Cơ cấu
nước ta cũng có những thay đổi đáng kể; trước đổi mới chủ yếu là kinh tế quốc doanh và
kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá thể và các thành phần kinh tế khác không đáng kể, nhưng
sau gần 20 năm đổi mới, kinh tế cá thể nhận được sự quan tâm không nhỏ và dần chiếm
một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, hộ sản xuất là hướng đầu tư chủ yếu, cần thiết
thực hiện mục tiêu xây dựng nền sản xuất hàng hóa có quy mô lớn và thực hiện nhiệm vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Đứng trên phương diện nghiên cứu hộ là một chủ thể kinh tế, chịu sự tác động của các
hoạt động tín dụng ta có thể đưa ra các đặc điểm sau của hộ:
2.1. Hộ SXKD về cơ bản là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất,
vừa là một đơn vị tiêu dùng
Thời gian nước ta bắt đầu đi vào đổi mới chưa lâu, với một cơ cấu nền kinh tế mới
với nhiều thành phần kinh tế, kinh tế hộ vẫn là mục tiêu phát triển chính, chủ yếu trong
các chiến lược, định hướng đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
6
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
Mặt khác, hộ SXKD ở nước ta chủ yếu vẫn còn ở quy mô nhỏ, sử dụng lao động
trong gia đình là chính, vốn tự có đầu tư cho hoạt động SXKD ở mức hạn chế, hầu như là
không có, do vậy sản xuất chủ yếu mang tính tự cấp, tự túc, tỷ trọng hàng hóa sản xuất ra
thường không lớn có được phần lớn là tiêu dùng không hết, mục đích sản xuất chủ yếu
bắt đầu từ nhu cầu tiêu dùng.
2.2. Hộ là chủ thể sản xuất - kinh doanh với số lượng đông
Cả nước ta có hơn 14 triệu hộ gia đình sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng
thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, giao lưu kinh tế,…như đồng bằng sông Hồng,
đồng bằng sông Cửu Long.
Cho đến nay nông nghiệp vẫn là đối tượng sản xuất chính của các hộ gia đình:
Trong hơn 14 triệu hộ thì số hộ nông nghiệp là 11 triệu hộ. Số lượng hộ nông nghiệp đông
đảo như vậy nhưng trình độ sản xuất thấp, quy mô nhỏ lẻ, manh mún là chủ yếu. Do vậy
phát triển kinh tế hộ là bước đầu tiên đi lên sản xuất hàng hóa.
Mặt khác trong hơn 14 triệu hộ thì gần 12 triệu hộ sinh sống ở địa bàn nông thôn, một
trở ngại lớn cho mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp vào năm 2020 - do
vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là một bước đi quan trọng, tức
là đưa được kĩ thuật, công nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của từng hộ dân.
2.3. Hộ SXKD được hình thành theo những đặc điểm tự nhiên rất đa dạng
Tùy thuộc vào hình thức sinh hoạt ở mỗi vùng và địa phương mà hộ hình thành
kiểu cách sản xuất, tổ chức riêng trong phạm vi hộ gia đình. Các thành viên trong hộ
SXKD chủ yếu có quan hệ than thuộc với nhau, ít lao động thuê ngoài tùy thuộc vào mùa
vụ trong sản xuất.
Trong sản xuất kinh doanh, chủ hộ là đại diện cũng như là lao động trực tiếp, chịu
trách nhiệm và tự giác trong hoạt động - chủ hộ theo tâm lý chung của nông thôn hay
ngay cả khu vực thành thị nước ta thông thường là người cha hay là con trai lớn đã thành
niên, có năng lực.
Do những đặc điểm hình thành mà việc sản xuất kinh doanh của hộ khá ổn định,
vốn luân chuyển chậm hơn so với các thành phần kinh tế khác, chủ yếu là theo vụ mùa
nhất định trong năm, ngay cả trong sản xuất hay kinh doanh dịch vụ phục vụ nông nghiệp.
2.4. Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất của kinh tế hộ SXKD biểu hiện ở trình độ
phát triển của hộ từ tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hàng hóa. Trình độ này quyết
định quan hệ giữa hộ và thị trường
Hiện nay, trình độ sản xuất của chủ hộ chủ yếu ở mức thấp, sản xuất thủ công là
chính, máy móc còn ít, giản đơn, tổ chức sản xuất mang tính chất tự phát, quy mô nhỏ,
không được đào tạo bài bản. Đồng thời hộ vẫn chủ yếu hoạt động SXKD có tính chất
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
7
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
truyền thống, thái độ lao động thường bị chi phối bời tình cảm đạo đức gia đình và nếp
sống sinh hoạt theo phong tục tập quán của làng quê. Trình độ ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất cũng như khả năng sử dụng một cách hiệu quả các nguồn nội lực
đều còn nhiều hạn chế và chưa hợp lí.
2.6. Hộ SXKD có đối tượng sản xuất hết sức phức tạp và đa dạng, quá trình sản xuất
kinh doanh mang tính thời vụ và ngoài hoạt động nông nghiệp còn có thể tham gia
vào các hoạt động phi nông nghiệp dưới nhiều mức độ khác nhau
Đối tượng sản xuất của hộ chủ yếu thuộc lĩnh vực nông nghiệp, tính đa dạng, phức
tạp về chủng loại thời gian sống của mỗi loại cây, con đã quyết định tính đa dạng phức
tạp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ. Đồng thời chính đặc điểm này cũng giải
thích cho tính thời vụ của kinh tế hộ SXKD - cùng một lúc có thể sản xuất kinh doanh
nhiều loại cây trồng, vật nuôi khác nhau có tính hỗ trợ cho nhau và có thể thực hiện các
ngành nghề phi nông nghiệp khác lúc nông nhàn với quy mô khác nhau.
Kinh tế hộ SXKD có sự gắn bó chặt chẽ với những đặc tính của sản xuất nông
nghiệp và kinh tế nông thôn.
2.6. Kinh tế hộ SXKD hiện nay chủ yếu chịu sự chi phối của Bộ Luật Dân sự (trừ
những trường hợp có yêu cầu đăng kí kinh doanh) khiến việc quản lý chưa thực sự
đồng nhất
Bên cạnh đó, sự trùng hợp giữa hai vị trí là đơn vị kinh tế và là tế bào xã hội khiến
cho hoạt động của hộ còn chịu nhiều sự chi phối của các yếu tố xã hội như giới tính,tuổi
tác của chủ hộ hay phong tục tập quán, thói quen,… của từng địa phương khác nhau.
2.7. Về tính pháp lý và khả năng tài chính của hộ
Đối tượng là hộ gia đình, do vậy mọi thành viên trong hộ gia đình đều liên đới
trách nhiệm trong quan hệ giao dịch tín dụng. Về mặt thủ tục pháp lý trong giao dịch với
ngân hàng, chỉ cần người đại diện hộ đứng tên giao dịch với ngân hàng trên cơ sở ủy
quyền cho các thành viên trong hộ.
Tài sản của hộ là bao gồm cả tài sản riêng của các thành viên góp vào sử dụng
chung. Xét từ góc độ này thì năng lực tài chính của hộ bao gồm tài sản chung và tài sản
riêng của các thành viên. Vốn tự có của chủ hộ chủ yếu là khả năng lao động của hộ, tức
là kinh nghiệm cùng khả năng tổ chức và trực tiếp tham gia lao động của những thành
viên trong hộ.
Từ những đặc điểm trên đây ta thấy kinh tế hộ là thành phần kinh tế khá linh động,
là cơ sở ban đầu cho việc thực hiện các quy hoạch phát triển kinh tế nước ta.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
8
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
3. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ HỘ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
Từ khi nghị quyết 10 của Bộ chính trị được ban hành, hộ nông dân được thừa nhận
là một đơn vị kinh tế tự chủ - khằng định vị trí quan trọng của kinh tế hộ đối với nền kinh
tế, tạo động lực mạnh mẽ, năng động trong phát triển kinh tế nông thôn, nhờ đó người
nông dân đã gắn bó ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh, tăng vụ, khai phá
thêm hàng ngàn ha đất mới, đa dạng hóa các đối tượng với sự phân phối, kết hợp chặt
chẽ. Bằng việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề truyền
thống, phát hiện và xây dựng những ngành nghề mới, mạnh dạn hơn trong việc vận dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Kinh tế hộ đã khẳng định sự tồn tại khách quan của mình trong nền kinh tế với vai trò
là cầu nối quan trọng giữa hai nền kinh tế là nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng hóa:
3.1. Kinh tế hộ góp phần tích cực vào công cuộc chuyển từ nền kinh tế tự nhiên sang
nền kinh tế hàng hóa
Lịch sử phát triển nền kinh tế đã xác định cụ thể các giai đoạn phát triển sản xuất
hàng hóa. Nền nông nghiệp nói riêng hoàn toàn bắt đầu là nền kinh tế tự nhiên với mục
đích sản xuất hàng hóa trao đổi đểu do những nhu cầu cá nhân mỗi hộ gia đình. Hộ gia
đình sản xuất với quy mô nhỏ, sử dụng chủ yếu những nguồn lực chủ sẵn có cho sản xuất,
sản xuất chỉ để đảm bảo thỏa mãn những nhu cầu sống tối thiểu. Đây là giai đoạn khởi
điểm của nền kinh tế sản xuất hàng hóa với sự chuyển biến dần từ nền kinh tế tự nhiên lên
nền kinh tế hàng hóa nhỏ.
Tiếp theo là giai đoạn chuyển biến từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ lên nền kinh tế
hàng hóa với quy mô lớn, với sự linh động ngày càng cao trong hoạt động mua bán trao
đổi bằng trung gian tiền tệ.
Mỗi giai đoạn phát triển, kinh tế hộ đều là nhân tố thiết yếu, chiếm vị trí quan
trọng, đặc biệt ở giai đoạn lịch sử ban đầu, kinh tế hộ là mục đích và đối tượng phát triển
chính mà nếu chưa hoàn thành tốt thì khó có thể đạt được mục tiêu phát triển sản xuất
hàng hóa với quy mô lớn, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nền kinh tế còn ở trình độ
phát triển thấp.
3.2. Kinh tế hộ góp phần dẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn - mục tiêu chiến lược của nước ta
Theo đề án công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn thời kỳ 2000 - 2020, mục tiêu phấn đấu GDP là 800 - 1000 USD/người,
cơ cấu GDP nội bộ nông nghiệp trồng trọt - chăn nuôi - dịch vụ - công nghiệp là 22% -
25% -25% - 28%, đồng thời giảm thiểu tỷ lệ lao động xã hội trong nông nghiệp đến 2020
chỉ còn 20%, công suất máy đạt 2 mã lực /ha so với mức 0/8 mã lực/ha như hiện nay.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
9
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
Để hoàn thành mục tiêu đề ra, hướng đi chủ yếu là tổ chức và chuyển dịch quan hệ
sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế hộ nông dân, xây dựng và phát triển
những mô hình kinh tế trang trại một cách hiệu quả. Hộ SXKD là đơn vị kinh tế trực tiếp
nhận và áp dụng những tiến bộ khoa học vào sản xuất (công nghệ gen, tự động hóa, hóa
học hóa,…) thúc đẩy tích cực tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn mà thực chất đưa công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào từng hộ SXKD.
3.3. Kinh tế hộ đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn
Thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao và ổn định trong nền kinh tế trong nhiều năm
tới, một trong những giải pháp quan trọng là phải chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn nói riêng
Từ khi thực hiện chỉ thị 100 của Ban bí thư TW Đảng khóa V và Nghị quyết 10
của Bộ chính trị, nông nghiệp nông thôn đã ngày càng tiến lên một sức mạnh mới với sự
cải thiện rõ rệt về mọi mặt như: tổng sản lượng lương thực tăng cao trong những năm qua,
nước ta xuất phát từ một nước thiếu lương thực nay đã trở thành quốc gia xuất khẩu lớn
trên thế giới, giảm thiểu số hộ đói - nghèo, khôi phục và phát triển nhiều làng nghề (hiện
cả nước có khoảng 1000 làng nghề),…đạt được kết quả tích cực này, mỗi địa phương đã
xây dựng được cho mình những mô hình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn hợp lý theo định hướng chung của cả nước.
Tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hộ nông thôn đã có sự tập
trung đa dạng hóa các đối tượng sản xuất, phối kết hợp một cách hợp lý; giúp gia tăng thu
nhập, tạo khả năng tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất phù hợp với điều kiện từng địa
phương: làng gốm ở Bát Tràng, làng nghề tre trúc Xuân Lai (Bắc Ninh)… Bằng sự nỗ lực
của Đảng và Nhà nước, các hộ SXKD luôn chủ động và tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo những mô hình hợp lý, mang lại hiệu quả kinh tế cao, tác động tích cực đến quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
3.4 Kinh tế hộ nâng cao hiệu quả sử dụng lao động nông thôn, giải quyết tích cực
vấn đề việc làm cho toàn xã hội
Việc làm luôn là vấn đề cấp bách với toàn xã hội nói chung và đối với nông thôn
Việt Nam nói riêng. Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn, dù nhà nước có nhiều biện
pháp hỗ trợ tạo việc làm, vấn đề dư thừa lao động ở nông thôn, đặc biệt trong thời điểm
nông nhàn vẫn cần được quan tâm giải quyết.
Từ khi được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, hộ đã tập trung sản xuất, mở rộng quy mô, tận dụng triệt để lao động sẵn
có trong gia đình và địa phương, giải quyết tích cực vấn đề việc làm cho lao động nông
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
10
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
thôn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Năng suất lao động cũng được sử dụng một
cách hiệu quả hơn, giúp tăng trưởng kinh tế cao hơn và thực hiện tốt quá trình chuyển
dịch lao động sang những lĩnh vực phi nông nghiệp, hỗ trợ cho quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
3.5. Kinh tế hộ góp phần giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn
Nông nghiệp và nông thôn là lĩnh vực mang nặng tính truyền thống, thói quen hay
những tập quán tồn tại từ lâu đời ảnh hưởng không nhỏ tới tác phong lao động của người
dân, kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế nông thôn.
Với chủ trương mới, một luồng sinh khí mới được thổi vào nông nghiệp, nông
thôn. Việc tạo sự tự chủ trong sản xuất kinh doanh đã góp phần cải thiện tác phong làm
việc của lao động nông thôn, hạn chế hẳn những vấn đề xã hội xấu đã tồn tại từ lâu trong
nông thôn. Người dân tập trung sản xuất, sinh hoạt lành mạnh, nâng cao chất lượng cuộc
sống, trình độ dân trí và sức khỏe.
Kinh tế hộ đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế tạo đà cho
nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, sôi động với việc sử dụng hiệu quả hơn đất đai lao động,
tiền bạc, công nghệ và lợi thế sinh thái vùng - đưa nông nghiệp, nông thôn nói riêng và
toàn ngành kinh tế nói chung đạt được những mục tiêu, chiến lược đề ra một cách vững
chắc.
II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ SXKD
1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG (TDNH)
1.1. Khái niệm
Thuật ngữ “tín dụng” (credit) xuất phát từ chữ Latinh “credo” có nghĩa là “tin
tưởng tín nhiệm”. Không phải ngẫu nhiên mà từ này được sử dụng để biểu hiện cho quan
hệ vay mượn - một mối quan hệ nhạy cảm, khá tế nhị mà có thể nói sự tin tưởng và tín
nhiệm nhau là một yếu tố quyết định.
Thuật ngữ “Tín dụng” cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy theo từng
bối cảnh quan hệ tài chính khác nhau. TDNH là một sự thống nhất khái niệm chức năng
giữa tín dụng và ngân hàng.
Có thể nói ngân hàng là nơi biểu hiện tập trung nhất mọi hoạt động kinh tế của đất
nước, những thông tin có liên quan đến hoạt động ngân hàng luôn là mối quan tâm hàng
đầu của các thành phần kinh tế. Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế, hoạt động trên
lĩnh vực tiền tệ, trong đó hoạt động nợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm là hoạt động
chủ yếu.
Tín dụng xét trên cơ sở chức năng hoạt động của ngân hàng sẽ được hiểu là: một
giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên vay (Ngân hàng và các định chế tài
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
11
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
chính khác) và bên đi vay (cá nhân, tập thể và các chủ thể khác), trong đó cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận về thời
gian, phương thức thanh toán, tài sản đảm bảo,… và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi hết hạn thanh toán
Như vậy TDNH là một giao dịch về tài sản dựa trên cơ sở hoàn trả với những đặc
trưng cơ bản sau:
+ Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, do vậy, hoạt động Tín dụng của ngân hàng
phải có cơ sở để tin rằng người đi vay có thể trả đủ và đúng hạn. Vấn đề thông tin là cơ sở
ban đầu nhưng để quyết định việc mở một quan hệ tín dụng, khả năng hoàn trả luôn được
tính đến với những nguyên tắc hoàn trả nhất định.
+ Giá trị hoàn trả trong quan hệ tín dụng phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, tức người
đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Với đặc trưng này cả ngân hàng và khách
hàng đều quan tâm đến lãi suất tiền vay. Ngân hàng luôn muốn mức lãi suất đủ để đáp
ứng cho những chi phí trong hoạt động kinh doanh của mình, mặt khác khách hàng thì
luôn mong đợi lãi suất thấp nhằm gia tăng tối đa lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh
doanh hay đảm bảo tốt hơn khả năng trả nợ đúng hạn. Hệ thống lãi suất luôn là vấn đề tạo
nên tính cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.
Theo tốc độ phát triển kinh tế, nhu cầu của khách hàng trong lĩnh vực tín dụng
ngày càng đa dạng, không chỉ bằng tiền mà xuất hiện thêm hinh thức mới là cho thuê bất
động sản, làm đa dạng hóa các hình thức dịch vụ của ngân hàng đáp ứng mọi nhu cầu của
khách hàng.
Do bản chất quan hệ tín dụng là một quan hệ phức tạp và nhạy cảm, nên những vấn
đề phát sinh xung quanh nó nhiều và đòi hỏi sự khắt khe trong quản lý để đảm bảo quan
hệ tín dụng thực sự diễn ra có hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng tránh tối đa
những rủi ro có thể phát sinh.
Một quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu các đặc trưng cơ bản trên được
thỏa mãn tức là người đi vay sử dụng hiệu quả vốn vay và hoàn trả đầy đủ cả vốn gốc lẫn
lãi đúng thời hạn.
1.2. Phân loại
Phân loại TDNH là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên một số tiêu
thức nhất định. Phân loại tín dụng một cách khoa học sẽ giúp giảm thiểu rủi ro, mang lại
hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng
Dưới đây là một số tiêu thức phân loại chính và hiệu quả tác động của mỗi tiêu
thức:
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
12
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
1.2.1. Phân loại theo thành phần kinh tế
Bước vào quá trình đổi mới, nền kinh tế nước ta phát triển theo cơ chế thị trường với
sự đa dạng của các thành phần kinh tế. Bằng cách phân loại khách hàng tín dụng theo
thành phần kinh tế sẽ xác định được xác định một cách chính xác đối tượng chính tham
gia vào hoạt động TDNH và ảnh hưởng của TDNH tới hoạt động của đối tượng đó cũng
như hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Từ đó ngân hàng sẽ có hướng đầu tư hợp
lý vào các đối tượng khách hàng, đảm bảo sự phân bổ vốn tín dụng cân đối, đa dạng hóa
các đối tượng khách hàng.
1.2.2. Phân loại theo mục đích cho vay
Theo tiêu thức phân loại này TDNH được chia thành các loại sau:
+ Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân
bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu,… Phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Cho vay công nghiệp thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ
+ Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các
vật dụng đắt tiền, trang trải các chi phí thông thường của đời sống,…
Cách phân loại này, hoạt động tín dụng của ngân hàng bám sát những mục tiêu
phát triển kinh tế của địa phương cũng như của cả nước, có tác động đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn góp phần xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý phù
hợp với cơ chế thị trường.
1.2.3. Phân loại theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này TDNH được chia ra làm 3 loại :
+ Cho vay ngắn hạn: được xác định tính đến 12 tháng và phù hợp với những kế
hoạch, mô hình sản xuất nhỏ có chu kì ngắn.
+ Cho vay trung hạn: được quy định trên 12 tháng đến 5 năm, chủ yếu được sử
dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hay thay đổi công nghệ, thiết bị, mở rộng
SXKD… trong nông nghiệp, đối tượng đầu tư chủ yếu là máy cày, bơm nước, xây dựng
các vườn cây công nghiệp như café, điều…
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể
lên tới 20-30 năm…
Tín dụng dài hạn về cơ bản là đáp ứng các nghiệp vụ dài hạn. Trong nông nghiệp,
TDNH dài hạn thường đầu tư cho những dự án trồng rừng, trồng cây lâu năm…
1.2.4. Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, TDNH được chia thành 2 loại:
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
13
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
+ Cho vay không đảm bảo (cho vay tín chấp) : Là loại cho vay không có tài sản thế
chấp, cầm cố hay bảo lãnh của người thứ 3. Đối với những hộ hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn theo quy định rõ ràng của nhà nước về mục đích sản xuất thì
không cần bảo đảm bằng tài sản khi vay vốn TDNH: hộ sản xuất nông nghiệp được vay
đến 10 triệu đồng, hộ phát triển kinh tế trang trại hay sản xuất hàng hóa được vay đến 30
triệu đồng không cần tài sản đảm bảo, và đến 50 triệu đồng đối với hộ vay vốn sản xuất
giống thủy hải sản…
+ Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp,
cầm cố hay phải có sự bảo lãnh của người thứ 3. Bảo đảm tiền vay là cần thiết và là căn
cứ để NH có thêm nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất trong trường
hợp món vay nhiều rủi ro, thiếu chắc chắn.
Ngoài các tiêu thức phân loại trên, TDNH còn được phân loại theo các tiêu thức
khác như theo phương pháp hoàn trả, theo xuất sứ tín dụng,…
Với từng phương thức phân loại khác nhau, các nhà phân tích sẽ nắm bắt được kết
cấu của từng loại tín dụng, của từng loại khách hàng một cách chính xác nhất, giúp họ
đánh giá, xem xét liệu mỗi kết cấu tín dụng đã phù hợp với Ngân hàng, phù hợp với mục
tiêu phát triển kinh tế chung chưa, để từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp mang lại hiệu
quả cao nhất cho mỗi loại tín dụng được mở.
2. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ SXKD
Đối với các hộ SXKD hiện nay, vốn vẫn luôn là vấn đề gây khó khăn nhất cho hoạt
động SXKD của hộ - tình trạng thiếu vốn là phổ biến và nghiêm trọng, làm chậm tiến
trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế.
Giải quyết vấn đề vốn cho hoạt động SXKD, với đồng vốn tự có không đáng kể,
hộ phải tham gia các hình thức tài chính tiêu cực ở nông thôn như cho vay nặng lãi, hụi,
bán lúa non,… gây ảnh hưởng tâm lý, xã hội xấu đồng thời cũng không mang lại hiệu quả
cao cho hoạt động SXKD. Nhờ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, TDNH dần
chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động đầu tư vốn cho hộ SXKD. Có thể nói sau hơn 10
năm đổi mới, ngành ngân hàng thực hiện thành công trong cho vay trực tiếp đến hộ sản
xuất, TDNH trở thành người bạn đồng hành tin cậy của hộ.
Dưới đây là một số vai trò cụ thể của TDNH đối với kinh tế hộ SXKD:
2.1. TDNH đáp ứng nhu cầu vốn của hộ SXKD
Dù đã đạt được khá nhiều những kết quả khả quan, kinh tế hộ vẫn gặp phải rất
nhiều khó khăn về vốn sản xuất. Do đặc điểm sản xuất của hộ nông dân mang tính tổng
hợp, nhiều đối tượng sản xuất với chu kì sản xuất đan xen nhau nên nhu cầu vay tối đa để
sản xuất một loại sản phẩm nông nghiệp tại một thời điểm của hộ thường không cao
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
14
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
nhưng nhu cầu vốn lại yêu cầu rải rác suốt chu kì sản xuất, đồng thời đa số hộ khi chưa
thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hóa để bán thì chưa có thu nhập . Vốn TDNH là hình
thức đầu tư vốn linh động, phù hợp với mọi nhu cầu vốn SXKD của hộ, giúp hộ tận dụng
tối đa những tiềm lực kinh tế sẵn có.
2.2. TDNH giúp vấn đề việc làm được giải quyết một cách tích cực
Hiện nay, hơn 70% dân số nước ta sống ở nông thôn và sản xuất nông nghiệp. Các
hộ SXKD đều ở quy mô nhỏ, lẻ kết hợp với tính thời vụ sản xuất nông nghiệp thì vấn đề
thếu việc làm trong thời gian nông nhàn, hay ngay cả trong mùa vụ là thường xuyên. Như
vậy, bằng việc hỗ trợ vốn TDNH tích cực cho hộ SXKD, giúp hộ mở rộng quy mô sản
xuất, đa dạng hóa các đối tượng sản xuất, mang lại hiệu quả cao trong vấn đề tọa việc làm
liên tục cho hộ, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho hộ.
2.3. TDNH giúp phát triển các làng nghề truyền thống, ngành nghề mới
Nước ta là một nước có nhiều ngành nghề truyền thống, với tay nghề, trình độ kỹ
thuật cao, không chỉ khảng định được vị trí của mình trong nước mà cả trên trường quốc
tế như: làng lụa Vạn Phúc (Hà Tây), làng gốm Bát Tràng…trong điều kiện hiện nay, việc
tập trung phát triển hợp lý các làng nghề truyền thống sẽ mang lại hiệu quả cao cho nền
kinh tế qua xuất khẩu và thu hút du lịch.
TDNH là một trong những giải pháp về vốn.
Đa số các cơ sở sản xuất nghề truyền thống đều nằm sâu trong làng, đi lại khó
khăn, nhiều món vay nhỏ, lẻ, khiến việc tham gia đầu tư TDNH gặp nhiều khó khăn. Tuy
nhiên, với sự nhiệt tình trong hoạt động của mình, TDNH đã góp phần tích cực vào sự
khôi phục và phát triển của các làng nghề truyền thống cùng các làng nghề mới.
Phát huy được các làng nghề cũng chính là phát huy được các nội lực của kinh tế
hộ và TDNH đã, đang và sẽ là công cụ tài trợ hiệu quả cho hoạt động kinh tế nông thôn.
2.4. Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và ổn định sản xuất
Bước sang cơ chế thị trường với sự chuyên môn hóa ngày càng cao, tập trung vốn
là điều kiện cần thiết để sản xuất kinh doanh thực sự mang lại hiệu quả. Trước đây, kinh
tế hộ chủ yếu sản xuất theo hướng tự phát, tự cấp, xuất phát từ nhu cầu của cá nhân mình
trước, hiệu quả kinh tế mang lại không cao. Với sự tham gia của TDNH ta có thể nhìn từ
hai phương diện để thấy được tác động tích cực của TDNH đối với quá trình tập trung
vốn và ổn định sản xuất.
Về phía Ngân hàng luôn quan tâm và thực hiện tốt mối quan hệ giữa tiết kiệm và
đầu tư, bằng đồng vốn huy động được, Ngân hàng luôn mong muốn sử dụng nó trong
quan hệ tín dụng một cách có hiệu quả, do vậy, khi thực hiện quan hệ tín dụng đối với hộ,
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
15
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
Ngân hàng luôn trú trọng một cách sâu sát đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của hộ,
tránh những việc sử dụng lãng phí vốn vay, không tập trung vào mục đích sản xuất.
Còn về người vay, vay vốn Ngân hàng với những ràng buộc nhất định đòi hỏi hộ
phải biết tập trung vốn như thế nào để sản xuất mang lại lợi nhuận cao nhất nhằm hoàn
thành tốt quan hệ tín dụng cũng như quy mô sản xuất sẽ ngày càng được mở rộng.
2.5. TDNH giúp giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội
TDNH ngoài những vai trò to lớn về mặt kinh tế còn đóng góp một vị trí không
nhỏ trong các vấn đề chính trị, xã hội.
Trước đây, khi TDNH chưa thực sự nằm trong suy nghĩ của người dân bởi sự xa lạ
của hoạt động của NH và những thủ tục vay mượn phức tạp; cán bộ tín dụng thì ngại tiếp
xúc với đối tượng vay là kinh tế do khó quản lý, giám sát và chưa có quy định cụ thể,…
Do vậy để thỏa mãn nhu cầu vốn cho SXKD, người dân phải tìm đến những hình thức
như: hụi, vay nặng lãi, bán lúa non, ; không những không mang lại hiệu quả mà còn gây
tâm lý, thói quen xấu. Bằng những đổi mới và cách đi đúng đắn, TDNH đã dần tạo được
chỗ đứng trong suy nghĩ của người dân, đẩy lùi các hình thức tài chính tiêu cực trong
nông thôn, giúp hộ yên tâm sản xuất.
Bên cạnh đó, việc cho vay mở rộng sản xuất đã góp phần giải quyết tốt vấn đề việc
làm cho người lao động, khôi phục truyền thống tốt đẹp của từng địa phương, hạn chế tệ
nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan…
TDNH cũng góp phần thực hiện thành công các chính sách đổi mới của Đảng và
Nhà nước, đặc biệt là chính sách xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí,…tạo lòng
tin ngày càng lớn đối với hộ nông dân.
2.6. TDNH đưa tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào từng hộ SXKD
Bằng việc không ngừng đầu tư vốn cho hộ SXKD mở rộng sản xuất, phát triển
thêm nhiều loại đối tượng sản xuất, TDNH đã góp phần thúc đẩy hộ SXKD tiếp cận nhiều
hơn với với tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, hộ sản xuất đã đưa máy móc, thiết
bị vào sản xuất nhiều hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn; đồng thời áp dụng vào việc
những giống cây, con mới, quy trình sản xuất mới…năng xuất lao động và cây trồng cũng
tăng thêm đáng kể.
Mặt khác đối với những mục tiêu phát triển kinh tế cụ thể cho từng địa phương,
TDNH có thể thay việc chuyển giao vốn vay bằng tiền, bằng máy móc, thiết bị, giống cây,
con hay thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc để phục vụ trực tiếp cho quá trình SXKD của hộ.
Như vậy, TDNH đã đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh tế hộ, giúp mở rộng quy mô
SXKD , phát triển thêm nhiều ngành nghề trong nông thôn; TDNH cũng giúp khai thác
tốt mọi tiềm năng sẵn có của hộ về lao động, tài nguyên, hay các nguồn lực khác, giúp cải
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
16
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
thiện đời sống của họ, tăng sản phẩm cho xã hội, đồng thời thực hiện một cách nhanh nhất
những mục tiêu phát triển kinh tế chung của địa phương và cả nước.
TDNH cũng giúp hộ sản xuất kinh doanh tiếp cận nhanh hơn những tiến bộ khoa học,
tham gia vào loại hình dịch vụ tài chính tiện ích nhất, tiếp cận gần hơn với cơ chế thị trường,
tạo chỗ đứng và những bước xây dựng nền kinh tế sản xuất hàng hóa với quy mô lớn.
TDNH hạn chế các hình thức cho vay vốn tiêu cực trong nông thôn cũng như các
tệ nạn xã hội, giúp giải quyết việc làm, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý thực hiện mục
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.
TDNH đã khẳng định một cách chắc chắn vai trò quan trọng của mình đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ.
3. YÊU CẦU CỦA HỘ SXKD ĐỐI VỚI TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Nước ta là một nước nông nghiệp truyền thống, cho đến nay sản xuất nông nghiệp
vẫn chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế - kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp là vốn tự có
ở tất cả các hộ nông nghiệp nước ta, tuy nhiên hộ chưa thực sự biết tận dụng hết khả năng
của mình trong sản xuất và trong tiếp thu tiến bộ khoa học, cũng như chưa biết cách tiếp
cận với TDNH – một hình thức cho vay tài chính tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt
động SXKD của hộ. Do vậy TDNH đối với hộ SXKD trước hết phải thực sự gần gũi với
hộ, làm cho hộ thực sự hiểu được sự hỗ trợ tích cực của vốn TDNH, thấy được những mặt
lợi khi tham gia một quan hệ TDNH để có thể đa dạng hóa vốn SXKD của mình.
Tín dụng là một hình thức vay mượn tài chính đặt trong sự kiểm soát, quản lý
chung của nhà nước, do vậy, nó cũng phải tuân theo những qui chế nhất định về thủ tục
vay vốn. mặt khác, đối với đối tượng vay vốn là hộ SXKD, một chủ thể kinh tế cơ bản,
quan trọng của nền kinh tế nhưng còn ở mức độ phát triển thấp như nước ta thì để phát
huy cao nhất hiệu quả của TDNH, không thể không xem xét những yêu cầu đặt ra của hộ
đối với vốn TDNH.
Sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn cũng như hộ SXKD có những đặc thù
riêng có của nó đòi hỏi sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi từ NH:
+ Về thủ tục vay vốn:
Hộ nông nghiệp nước ta chủ yếu đi lên từ sản xuất tự nhiên, cách nghĩ, cách làm
còn mang tính tự phát, đơn giản, do vậy, khi thiếu vốn sản xuất, hộ thường vay mượn ở
những nơi tạo tâm lý thuận tiện nhất cho hộ (hàng xóm) với sự đơn giản tuyệt đối về thủ
tục vay mượn dù lãi xuất vay cao, lợi nhuận mang lại cho hộ không đáng kể. Để TDNH
thực sự là nguồn cung ứng vố hiệu quả cho hộ, yêu cầu trước hết là những bước thủ tục
vay vốn NH đặt ra: liệu đã phù hợp với giá trị mỗi món vay khác nhau, với mỗi kế hoạch
sản xuất của hộ thì mưc tiền vay là bao nhiêu.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
17
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
+ Về thời hạn vay vốn:
Với mỗi đối tượng sản xuất cây, con khác nhau lại có một chu kỳ sinh trưởng, phát
triển khác nhau. Mặt khác hộ lại thường phối kết hợp nhiều loại cay con dẫn tới sự đa
dạng về chu kỳ sống tương ứng là sự đa dạng về thời gian thu hoạch – mà thông thường
chỉ khi thu hoạch hộ mới có khả năng trả nợ NH. Do vậy xác định một thời hạn vay vốn
hợp lý là yêu cầu quan trọng đối hộ nông, đảm bảo sự hỗ trợ tích cực của vốn TDNH Đối
với hộ SXKD.
Thời hạn cho vay cũng phải đảm bảo tính thời vụ cao của sản xuất nông nghiệp,
tránh trường hợp lúc thừa vốn, lúc lại thiếu vốn.
Ngoài ra, TDNH cho kinh tế hộ cũng phải đảm bảo khuyến khích hộ vay vốn
trung, dài hạn với sự phối kết hợp các đối tượng cây, con một cách hợp lý; có sự xen kẽ
các hợp đồng tín dụng theo từng đối tượng sản xuất, lấy ngắn nuôi dài, đảm bảo hiệu quả
sử dụng vốn tốt hơn, hộ thường bị áp lực trả nợ NH đè nặng.
+ Về mức lãi suất vay vốn
Tham gia sản suất nông nghiệp, hộ gặp khá nhiều rủi ro. Rủi ro phát sinh từ ngay
trong quá trình SXKD của hộ hay khi đã đưa nông sản ra thị trường. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ tới thu nhập của hộ. Mặt khác, với mỗi đối tượng sản xuất khác nhau lại mang
lại mức thu nhập khác nhau và có mức rủi ro khác nhau. Do vậy, trong cho vay lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn mức lãi suất phù hợp với đặc điểm sản xuất của hộ cũng là vấn đề
hộ đặc biệt quan tâm.
+ Về xử lý rủi ro
Như trên ta đã nhắc đến vấn đề rủi ro trong hoạt động SXKD của hộ. Khi hộ gặp
phải vấn đề này, bên cạnh những lý do chủ quan, không thể bỏ qua những nguyên nhân
khách quan – điều này đòi hỏi sự đánh giá, xử lý khách quan, hợp lý của Ngân hàng.
+ Về hình thức cấp phát vốn:
Hộ SXKD có nhiều quy mô sản xuất với trình độ sản xuất khác nhau như: hộ
nghèo, hộ trung bình, hộ khá, hộ giầu; việc cung ứng vốn TDNH không thể đánh đồng tất
cả các hộ là một, cũng không thể lúc nào cũng cho hộ vay bằng tiền mặt. Hộ thiếu vốn sản
xuất, Ngân hàng phải là người cung ứng vốn sáng suốt, xác định loại vốn nào là cần thiết
với hộ để đồng vốn được sử dụng tốt nhất.
+ Về bảo đảm tiền vay:
Cho đến nay dù đã được sửa đổi nhiều để phù hợp hơn với điều kiện vay vốn của
hộ thì vẫn nằm trong mối quan tâm của hộ khi tham gia vay vốn TDNH. Vốn tự có của hộ
hầu như là không đáng kể, chủ yếu là quyền sử dụng đất nhưng vẫn còn gặp nhiều khó
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
18
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
khăn trong vấn đề hoàn tất thủ tục pháp lý, do vậy, TDNH phải hiểu rõ hoàn cảnh của hộ
để có biện pháp linh động trong đáp ứng nhu cầu vốn của hộ SXKD.
Về cơ bản, TDNH phải thực sự thấu hiểu và đặt mình trong từng loại hình SXKD
của hộ để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn của hộ.
III. HIỆU QUẢ CỦA TDNH ĐỐI VỚI HỘ SXKD
1. QUAN ĐIỂM VỀ HIỆU QUẢ CỦA TDNH ĐỐI VỚI HỘ SXKD
Như ở trên ta đã nói, quan hệ TDNH thực chất là quan hệ cho vay giữa một bên là
ngân hàng, một bên là hộ SXKD nói riêng; và để có được một mối quan hệ tín dụng hoàn
hảo, về cơ bản cả bên cho vay và bên đi vay đều thỏa mãn được mục đích của mình khi
bắt đầu một quan hệ tín dụng.
TDNH là một quan hệ khá phức tạp và có nhiều vấn đề phát sinh. Do vậy việc
đánh giá hiệu quả của TDNH đối với các đối tượng vay vốn nói trung và đối tượng hộ
SXKD, trước hết ta cần phải chú ý đến các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
các đối tượng tham gia quan hệ tín dụng:
1.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hộ SXKD trong quan hệ TDNH
1.1.1. Khả năng sử dụng vay vốn của hộ SXKD
Hộ SXKD là đơn vị lập phương án SXKD, dự án xin vay và sau khi được Ngân
hàng chấp nhận cho vay thì hộ SXKD chính là đơn vị trực tiếp sử dụng vốn vay vào các
mục đính TDNH của mình. Do vậy, khả năng sử dụng vốn vay đúng mục đính của hộ là
vấn đề quyết định ảnh hưởng đến hiệu quả của TDNH.
Sự phối kết hợp của các thành viên, lao động trong hộ ra sao, đã hợp lý với quy mô và nội
dung SXKD hay chưa?
Phương án SXKD được xây dựng đã chặt chẽ hay chưa? Chi phí phát sinh, yêu cầu của
thị trường về sản phẩm, kế hoạch sản xuất,… phải được tính toán cụ thể đầy đủ thì khả
năng trả nợ NH mới cao, hiệu quả của quan hệ TDNH mới tốt.
1.1.2. Rủi ro trong hoạt động SXKD của hộ
Hoạt động SXKD của hộ chủ yếu nằm trong lĩnh vực nông nghiệp, có sự gắn bó
chặt chẽ với điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết,…) trong khi giá cả biến động bất
thường với một nghịch lý là nỗi lo về giá cả đến với nông dân cả khi được mùa và mất
mùa.
Rủi ro - những biến cố phát sinh ngời ý muốn, đem lại hậu quả xấu - có thể coi là
không hề xa lạ đối với hộ SXKD, do vậy để mở ra một quan hệ tín dụng với NH, thực
hiện tốt một phương án SXKD, hộ phải thực sự chú ý đến vấn đề rủi ro có thể phát sinh
để đảm bảo SXKD có lãi và khả năng thanh toán nợ.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
19
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
1.1.3. Những quy định, chính sách hỗ trợ hộ SXKD vay vốn
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
20
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
Từ khi hộ gia đình được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ, hoạt động SXKD
của hộ đã được các cấp lãnh đạo chú trọng với việc ban hành hàng loạt các văn bản pháp
quy quy định quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các hộ SXKD trong các quan hệ kinh tế,
đặc biệt là trong quan hệ tín dụng với các NHTM, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ
SXKD được tiếp cận gần hơn với vốn TDNH, đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh như: Nghị định số 41/2010/NĐ – CP ngày 12/04/2010 về một số chính
sách TDNH phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn thay cho quyết định số
67/1997/QĐ – TTg ngày 30/03/1999; văn bản số của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT
Việt Nam về việc thực hiện một số chính sách TDNH phục vụ việc phát triển nông
nghiệp, nông thôn nhằm triển khai cụ thể các chủ trương lớn của Chính phủ và NHNN;
Văn bản số 13/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng; Văn bản 14/2010/TT-NHNN hướng dẫn chi tiết thực hiện Nghị
định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn; Thông tư số 20/2010/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện
các biện pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ để hỗ trợ tổ chức tín dụng cho vay
phát triển nông nghiệp, nông thôn…
1.1.4.Tài sản đảm bảo
Hộ SXKD cho đến nay, vốn tự có chủ yếu không đáng kể, do vậy một quan hệ tín
dụng để diễn ra thường gặp nhiều khó khăn. Là một tổ chức tài chính, các NHTM thực
hiện hoạt động kinh doanh của mình trên cơ sở phải mang lại lợi nhuận do vậy không thể
thực hiện một quan hệ tín dụng với khách hàng đơn thuần chỉ dựa vào lòng tin, tư cách
của khách hàng hay một kế hoạch sản xuất kinh doanh hoàn thiện,…Tài sản đảm bảo là
một yếu tố khách quan tồn tại trong một quan hệ tín dụng để minh chứng cho khả năng
thu hồi vốn vay cả gốc và lãi của NH là có thể, và khách hàng cũng có ý thức hơn trong
sử dụng vốn vay.
Với tư cách là một đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng đất lâu dài, hộ
SXKD đã chủ động hơn trong vay vốn kết hợp với những hỗ trợ của Đảng và Nhà nước,
của ngành về cơ chế cho vay không cần tài sản đảm bảo theo mục tiêu phát triển kinh tế
đất nước.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động TDNH
1.2.1. Trình độ của cán bộ tín dụng
Tiếp xúc trực tiếp với khách hàng trong mối quan hệ tín dụng chính là cán bộ tín
dụng (CBTD), do vậy, muốn nâng cao được hiệu quả của TDNH việc đầu tư cho chất
lượng cho cán bộ tín dụng là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Đặc biệt trong cho lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn - một lĩnh vực đặt ra nhiều khó khăn cả bên cho vay và bên đi
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
21
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
vay – sự am hiểu, kiến thức về sản xuất và kinh doanh nông nghiệp của CBTD là rất cần
thiết; có hiểu, có biết thì mới đảm bảo cho vay đúng và có ý nghĩa trong việc cải thiện đời
sống cho hộ nông dân.
1.2.2. Thông tin tín dụng
Là vấn đề nhận được sự quan tâm, chú ý cao trong công tác quản trị. Hoạt động
TDNH muốn đạt được hiệu quả cao, an toàn, cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu,
chính xác, linh hoạt, kịp thời. Thực hiện cho vay hộ nông dân có đối tượng sản xuất và
điều kiện sản xuất chịu nhiều rủi ro, bất trắc do những ảnh hưởng của ngoại cảnh – việc
nắm bắt đầy đủ, chính xác thông tin SXKD của hộ sẽ giúp Ngân hàng có những phản ứng
hợp lý.
1.2.3.Chính sách tín dụng
Phản ánh định hướng cơ bản cho hoạt động tín dụng, nó có ý nghĩa quyết định đến
sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Ngân hàng phải luôn có chính sách tín dụng
phù hợp với đường lối phát triển kinh tế chung, cho vay hộ nông dân không thể chỉ chăm
chăm đến lợi nhuận thu về mà phải đặt vào định hướng đầu tư của chính sách tín dụng
của ngành và Nhà nước.
1.2.4. Quy trình tín dụng
Là khái niệm dùng để chỉ một quy trình bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho vay, phát tiền
vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, đến khi thu hồi được nợ - tất cả các công đoạn
của quá trình phải được thực hiện một cách nghiêm túc đúng qui định đã đề ra, nhằm đảm
bảo quan hệ tín dụng được thực hiện hoàn hảo.
Bên cạnh những nhân tố trên, ảnh hưởng đến hiệu quả của TDNH còn có Công tác
tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng; công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ,… Tất cả
cần được chú ý và phối kết hợp thực hiện một cách thống nhất đảm bảo mọi quan hệ tín
dụng phát sinh đều được thực hiện, kiểm soát và hoàn thành tốt, hạn chế tối đa những rủi
ro co thể xảy ra.
Hộ SXKD vừa nằm trong các mối quan hệ kinh tế, vừa chịu ảnh hưởng của các
mối quan hệ xã hội, do vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả SXKD của hộ ảnh hưởng
đến quan hệ TDNH là rất đa dạng và phức tạp, đòi hỏi không chỉ sự quan tâm chú ý của
hộ mà còn cả NH để có thể có được những qui định, điều kiện chính sách cho hộ vay một
cách hợp lý, tăng khả năng tiếp cận của hộ với tiến bộ khoa học, với các yếu tố của cơ chế
thị trường ;…
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
22
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
1.3. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả TDNH đối với hộ SXKD
Nâng cao hiệu quả của TDNH đối vối hộ SXKD thực chất là nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của hộ nói chung, vốn TDNH nói riêng; đồng thời là làm tròn chức năng hỗ trợ
vốn của Ngân hàng cho hộ SXKD.
+ Đối với hộ SXKD:
Vốn TDNH không phải là hình thức cấp phát vốn miễn phí, từ thiện cho hộ dù đối
với những đối tượng hộ nhất định nằm trong chính sách tác động của Nhà nước thì cũng
chỉ ở mức lãi suất vay vốn thấp hơn, hay tạo điều kiện thuận lợi hơn cho họ tiếp xúc với
vốn TDNH – nhiệm vụ của hộ vẫn phải hoàn trả vốn và lãi cho Ngân hàng sau một
khoảng thời gian nhất định. Như vậy, trước tiên, việc nâng cao hiệu quả của TDNH đối
với hộ SXKD đảm bảo cho hộ có khả năng hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình với
bên cho vay vốn là Ngân hàng. Hoàn thành tốt một quan hệ tín dụng tức là đã khẳng định
hiệu quả hoạt động của vốn TDNH đối với hoạt động SXKD của hộ.
Tuy nhiên, mục tiêu của hộ trong sử dụng vốn TDNH không phải là để trả nợ
Ngân hàng dù đó là nhiệm vụ tất yếu của hộ. Vốn TDNH cũng như các nguồn vốn hỗ trợ
khác đều nhằm mục đích cải thiện cuộc sống cho hộ SXKD, nâng cao thu nhập, mở rộng
dần qui mô sản xuất, tiến gần hơn tới mục tiêu xây dựng nền kinh tế hàng hóa có qui mô
ngày càng lớn. Nói một cách đơn giản, nâng cao hiệu quả của vốn TDNH đối với hộ
SXKD tức là nâng cao khả năng sinh lời từ một đồng vốn TDNH, mang lại hiệu quả kinh
tế ngày càng cao cho hộ SXKD.
Mặt khác, hộ SXKD với đấy đủ lợi thế về lao động, tư liệu sản xuất, kinh nghiệm
sản xuất,… nhưng lại gặp khó khăn lớn trong vấn đề tìm vốn dể phục vụ cho nhu cầu sản
xuất. Vốn TDNH là một giải pháp; việc tham gia của vốn TDNH vào hoạt động sản xuất
của hộ không chỉ giải quyết nhu cầu vốn cho hộ mà hơn hết giúp hộ có thể đa những lợi
thế sẵn có của mình vào sản xuất, mang lại thu nhập cao hơn cho hộ. Việc nâng cao hiệu
quả của vốn TDNH đối vối kinh tế hộ tương ứng là giúp hộ khai thác ngày càng tốt hơn
các tiềm năng, lợi thế sẵn có, biết lợi dụng tốt những tài sản có sẵn trong tay. Sản xuất
nông nghiệp cũng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, do vậy, rủi ro cao – việc nâng
cao hiệu quả của TDNH đối với hộ SXKD cũng giúp hộ có hướng đề phòng với rủi ro
một cách chủ động nhất, tránh để rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của mình.
Nâng cao hiệu quả của TDNH đối với hộ là nâng cao khả năng sử dụng vốn của hộ
SXKD, tức là khẳng định khả năng hoạt động của kinh tế hộ trong nền kinh tế - là bước
đầu tiên để xây dựng một nền kinh tế sản xuất hàng hóa với quy mô lớn.
Đầu tư vốn TDNH cho kinh tế hộ rất đa dạng về hình thức đầu tư, không chỉ đầu tư
bằng tiền mặt mà có thể bằng sự chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
23
Luận văn tốt nghiệp Khoa: BĐS và Kinh tế Tài nguyên
xuất của hộ, đặc biệt trong định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn của nước ta, việc nâng cao hiệu quả của TDNH là hoạt động thiết thực để đưa khoa
học kỹ thuật vào nông nghiệp, nông thôn.
+ Đối với Ngân hàng :
Các NHTM trước hết là một đơn vị kinh tế, hoạt động kinh doanh tiền tệ, nên
giống như các đơn vị kinh tế khác, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của Ngân hàng . Công
tác nghiên cứu tìm giải pháp nâng cao hiệu quả TDNH – hoạt động mang lại lợi nhuận
chính cho NH – đối với hộ SXKD là biện pháp tích cực, có ý nghĩa quan trọng trong việc
thực hiện hoàn hảo quan hệ tín dụng, thu hồi cả vốn lẫn lãi.
Hoạt động tín dụng của NH có vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho hộ
SXKD, giúp duy trì và phát triển hoạt động SXKD của hộ. Đồng thời, lĩnh vực nông
nghiêp, nông thôn là lĩnh vực nhận được rất nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,
của ngành; do vậy, nâng cao hiệu quả của TDNH đối với hộ SXKD là nâng cao chức
năng hỗ trợ vốn cho hộ SXKD và đảm bảo thực hiện tốt những nhiệm vụ được giao, hoàn
thành mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
2. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA TDNH ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ
SXKD
Ta đã thấy vai trò quan trọng của việc nâng cao hiệu quả TDNH đối với kinh tế hộ,
do vậy, xây dựng nhưng phương thức, biện pháp cụ thể và có biện pháp hỗ trợ cho việc
đo lường hiệu quả của một quan hệ tín dụng là cần thiết.
2.1. Chỉ tiêu định tính.
Trong mỗi quan hệ tín dụng, cảm giác ban đầu về nhau đóng vai trò rất quan trọng.
Với khách hàng là hộ SXKD, thời gian để hộ bắt đầu có mối quan hệ tín dụng với Ngân
hàng chưa đủ dài, tâm lý của hộ nói chung còn e ngại và chủ yếu tim đến Ngân hàng là do
sự giới thiệu của bạn bè nhiều hơn là do nắm bắt được những thông tin trực tiếp từ phía
Ngân hàng. Tâm lý trên đã khiến việc trình bày nhu cầu vay vốn, kế hoạch sản xuất với
Ngân hàng sẽ gặp khó khăn, cán bộ tín dụng có thể không hiêu hết nhu cầu của hộ, hộ
hoặc là sẽ không thoả mãn hoàn toàn nhu cầu vốn, hoặc là sẽ tìm cách vay vốn khác dễ
tiếp xúc hơn.
Những nhận định mang tính cảm giác ban đầu dù không có tính chất quyết định
trong việc đo lường hiệu quả của TDNH nhưng cũng đóng góp một vị trí quan trọng,
phần nào đánh giá chính xác hiệu quả TDNH nhưng cũng đóng góp một vị trí quan trọng,
phần nào đánh giá chính xác hiệu quả TDNH đối với hộ SXKD nói riêng.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN & PTNT 49
24