Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

luận văn tài chính ngân hàng Mở rộng cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.26 KB, 72 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống tài
chính của một quốc gia. Trong những năm gần đây ở nước ta, những ngân hàng
thương mại mới được thành lập ngày càng nhiều cùng với sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và sự phát triển của ngành ngân hàng nói riêng. Ngân hàng
Thương mại cổ phần Liên Việt cũng nằm trong số đó. Được thành lập đầu năm
2008, ngân hàng Thương mại cố phần Liên Việt là một trong số những ngân hàng
thương mại cổ phần ngoài quốc doanh có số vốn điều lệ khá lớn tại thời điểm đó.
Kết quả kinh doanh qua hai năm cũng cho thấy ngân hàng có tốc độ tăng trưởng khá
cao.
Đối với một ngân hàng thương mại cổ phần, hoạt động cho vay thường là
hoạt động phát triển mạnh mẽ nhất. Tuy nhiên hoạt động cho vay ở ngân hàng Liên
Việt chưa tăng trưởng phù hợp với yêu cầu cũng như tốc độ tăng trưởng chung của
ngân hàng. So sánh với nhu cầu mở rộng tín dụng của các ngân hàng khác cũng như
nhu cầu tín dụng chung của toàn nền kinh tế Việt Nam thì đây là một hạn chế của
ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt.
Xuất phát từ thực trạng đó, đề tài “Mở rộng cho vay tại ngân hàng thương
mại cổ phần Liên Việt” đã được chọn nhằm đưa ra một số phân tích cũng như giải
pháp nhằm thúc đẩy hoạt động cho vay tại đây.
Kết cấu đề tài gồm ba phần:
Chương 1: Lý luận cơ bản về cho vay của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay tại ngân hàng Thương mại cổ phần
Liên Việt
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần
Liên Việt
Sau đây chúng ta sẽ đi vào nội dung cụ thể của bài viết.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHO VAY


CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những loại hình trung gian tài chính quan trọng nhất
của nền kinh tế. Theo Luật các tổ chức tín dụng: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật
này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
Hoạt động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về
quy mô tài sản, thị phần và số lượng ngân hàng trong nền kinh tế. Theo Luật các tổ
chức tín dụng sửa đổi năm 2010, Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Như vậy điểm khác biệt cơ
bản giữa ngân hàng thương mại và các loại hình ngân hàng khác nằm ở chỗ mục
tiêu hoạt động chính của ngân hàng thương mại là mục tiêu lợi nhuận.
Ngân hàng thương mại có đầy đủ các chức năng của một ngân hàng, bao
gồm chức năng trung gian tài chính, chức năng tạo tiền và chức năng trung gian
thanh toán trong nền kinh tế.
Có thể phân loại ngân hàng thương mại dựa trên hình thức sở hữu thành năm
loại: ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng
thương mại liên doanh, chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài và ngân hàng
thương mại 100% vốn của nước ngoài. Mỗi loại hình ngân hàng thương mại có thể
có những giới hạn về các hoạt động được phép bởi sự chi phối của Luật các tổ chức
tín dụng.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính

1.1.2 Các hoạt động của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn tuy không phải là hoạt động mang lại lợi nhuận trực
tiếp cho ngân hàng nhưng là hoạt động rất quan trọng. Một ngân hàng được phép
hoạt động khi có đủ số vốn điều lệ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên số vốn
điều lệ này không thể tài trợ hết cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc
biệt là các hoạt động sinh lợi như hoạt động cho vay, đầu tư và các hoạt động dịch
vụ khác. Thông thường số vốn điều lệ chiếm tỉ lệ khá nhỏ trong tổng nợ và vốn chủ
sở hữu của một ngân hàng thương mại, xuất phát từ đặc thù kinh doanh của ngân
hàng.
Để thực hiện được những hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng thương
mại phải huy động một phần lớn vốn nhờ việc nhận tiền gửi và đi vay, hình thành
nên khoản mục Nợ trong bảng cân đối kế toán. Phần còn lại thuộc khoản mục Vốn
chủ sở hữu, bao gồm vốn cổ phần, lợi nhuận chưa phân phối và các quỹ dự trữ.
Việc huy động thêm vốn chủ sở hữu diễn ra không thường xuyên và khi một
ngân hàng thương mại cổ phần muốn tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ
phiếu hay sáp nhập phải được sự nhất trí của Hội đồng quản trị cũng như sự cho
phép của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Huy động vốn nợ, ngược lại là hoạt
động thường xuyên không thể thiếu của ngân hàng thương mại. Vốn nợ là phần vốn
chiếm tỉ lệ lớn trong cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại.
Theo Luật các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại được huy động vốn
dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình
thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ
chức tín dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Hoạt động huy động vốn có ý nghĩa không chỉ với bản thân ngân hàng
thương mại mà còn đối với cả khách hàng gửi tiền.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Đối với ngân hàng thương mại, huy động vốn là cơ sở để ngân hàng thực
hiện các hoạt động kinh doanh của mình như cho vay, đầu tư và các hoạt động trung
gian khác. Mặt khác, thông qua hoạt động huy động vốn, ngân hàng có thể đo lường
được uy tín của mình cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với mình, từ đó có
các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở
rộng mối quan hệ với khách hàng.
Đối với khách hàng, hoạt động huy động vốn của ngân hàng cung cấp cho
khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo
điều kiện cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Bằng việc huy động vốn,
ngân hàng cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ và tích luỹ vốn nhàn
rỗi. Mặt khác, khách hàng cũng có cơ hội tiếp cận những dịch vụ trung gian tiện ích
khác của ngân hàng như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền…
1.1.2.2 Hoạt động cho vay và đầu tư
Nếu như kết quả của hoạt động huy động vốn thể hiện trên phần Vốn chủ sở
hữu và nợ của bảng cân đối kế toán, thì hoạt động cho vay và đầu tư lại góp phần
thể hiện phần Tài sản trên bảng cân đối kế toán của một ngân hàng thương mại.
Do tính chất của chúng mà hoạt động cho vay và hoạt động đầu tư được xếp
vào hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. Các khoản cho khách hàng
vay chính là tài sản của ngân hàng và từ hoạt động cho vay này, ngân hàng thương
mại thu được doanh thu chính là khoản thu lãi từ cho vay.
Bằng hoạt động cho vay mà ngân hàng thương mại thể hiện được chức năng
tạo tiền cho nền kinh tế, một chức năng quan trọng đối với sự phát triển của hệ
thống ngân hàng cũng như của nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên hoạt động cho vay
của ngân hàng chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro nên để đảm bảo an toàn, các ngân
hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt động và quản lý tiền vay một cách chặt

chẽ kết hợp với các quy định của luật pháp về tỉ lệ đảm bảo an toàn trong ngân hàng
thương mại.
Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của hầu hết ngân hàng
thương mại. Lãi thu được từ hoạt động cho vay sau khi bù đắp chi phí huy động và
các chi phí hoạt động khác sẽ là lợi nhuận của ngân hàng.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu vốn đầu tư cho hoạt động sản
xuất kinh doanh ngày càng lớn cũng là khi hoạt động cho vay của các ngân hàng
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
thương mại ngày càng được mở rộng. Đồng thời với đó, các loại hình cho vay
phong phú lần lượt ra đời đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Ngân hàng sử dụng vốn huy động được ngoài cho vay còn dưới nhiều hình
thức khác như ngân hàng đầu tư trực tiếp, tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay
cho thuê tài sản, gửi tiền tại các ngân hàng khác, tại Ngân hàng Nhà nước hay tại
những tổ chức tín dụng khác, đầu tư trên thị trường chứng khoán, nắm giữ chứng
khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân
quỹ khi cần thiết Những đối tượng tài trợ không chỉ có các tổ chức kinh tế thực
hiện hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà còn có cả các cá nhân tiêu dùng, thậm
chí Chính phủ cũng được ngân hàng tài trợ dưới những hình thức ngân hàng thương
mại mua tín phiếu kho bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền tệ.
So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của ngân hàng thường có quy
mô và tỷ trọng nhỏ hơn trong danh mục tài sản sinh lời của ngân hàng thương mại.
Hoạt động đầu tư thường đem lại thu nhập cao hơn hoạt động cho vay nhưng rủi ro
cao hơn. Thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác định trước vì phải phụ
thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà ngân hàng đầu tư vào. Tuy
nhiên trong hoạt động đầu tư, ngân hàng được lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi
nhất cho mình.
1.1.2.3 Hoạt động trung gian khác
Ngoài các hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay

và hoạt động đầu tư thì ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung
gian cho khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian
bởi vì khi thực hiện các hoạt động này ngân hàng không đứng vai trò là chủ nợ hay
khách nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ
mà khách hàng cần.
Ngày nay, các dịch vụ của ngân hàng không ngừng phát triển cả về số lượng
và chất lượng, các hình thức trung gian ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian
gồm rất nhiều hình thức khác nhau như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này từ tài khoản
này đến tài khoản khác ở cùng một ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau; dịch
vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính, giữ hộ các chứng từ, vật quý giá;
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động, cung
cấp các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát triển
theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Thực hiện nghiệp vụ
trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho ngân hàng những khoản thu nhập đáng
kể. Hơn nữa, thực hiện các loại hình dịch vụ trung gian sẽ giúp ngân hàng phát triển
toàn diện. Phát triển các dịch vụ trung gian là phương thức cạnh tranh có hiệu quả
giữa các ngân hàng bởi lãi suất không phải lúc nào cũng là công cụ cạnh tranh tốt
nhất. Lợi nhuận các ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà còn có phần lớn
từ các hoạt động dịch vụ mang lại. Thêm vào đó đây lại là lĩnh vực ít rủi ro khiến
cho phát triển dịch vụ ngân hàng đang dần trở thành một phương thức cạnh tranh
cho ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển.
Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, thực hiện các dịch
vụ trung gian là các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ba dịch vụ đó có
quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín cho ngân
hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho vay có hiệu quả phát

triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào, đồng thời muốn cho vay và huy
động vốn tốt thì ngân hàng phải làm tốt vai trò trung gian. Chính sự kết hợp đồng
bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh
doanh tổng hợp đa năng của các ngân hàng thương mại.
1.2Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo
thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi, trong đó thời hạn nhất định
chính là thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay đến khi
trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ
chức tín dụng và khách hàng.
Hoạt động cho vay cần đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng
tín dụng.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Các đơn vị có nhu cầu vay vốn của ngân hàng đều phải có kế hoạch vay vốn,
đơn xin vay gửi ngân hàng với đầy đủ các nội dung sau: số tiền vay, thời hạn sử
dụng vốn vay, mục đích sử dụng vốn vay và tính hiệu quả của vốn vay ngân hàng.
Đó sẽ là cơ sở để ngân hàng kiểm tra xem xét và ra quyết định có cho khách hàng
vay hay không. Ngược lại ngân hàng cũng dựa trên nhu cầu vay vốn của khách
hàng để xây dựng kế hoạch huy động cho phù hợp và chủ động. Nguyên tắc này
đảm bảo cho khách hàng vay vốn có đủ vốn và vay vốn có kế hoạch. Đứng trên
phương diện ngân hàng, nguyên tắc này đảm bảo hiệu quả của hoạt động cho vay
của chính ngân hàng.
- Cho vay trên nguyên tắc người vay phải hoàn trả cả gốc và lãi vay sau một
thời hạn nhất định.

Nguồn vốn cho vay của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn huy động từ các
thành phần kinh tế trong xã hội. Do đó, khách hàng vay vốn của ngân hàng sau một
kỳ hạn nhất định nào đó đều phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Lãi
thu từ hoạt động cho vay là một trong những nguồn thu chủ yếu của ngân hàng và là
một cơ sở cho ngân hàng tiến hành hạch toán kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với
ngân sách Nhà nước. Đến thời kỳ trả nợ mà đơn vị vay vốn không trả cho ngân
hàng thì ngân hàng sẽ chuyển sang nợ quá hạn và đơn vị phải chịu lãi suất cao hơn
lãi suất thông thường. Với nguyên tắc này ngân hàng bảo toàn được vốn, kịp thời
đưa vốn vào hoạt động kinh doanh của mình, có thu để bù đắp chi và có lãi nhằm
duy trì và phát triển hoạt động của bản thân ngân hàng.
- Cho vay có giá trị tài sản đảm bảo.
Trong suốt quá trình sử dụng vốn vay, các khách hàng vay vốn luôn phải có
tài sản tương đương giá trị vốn vay làm bảo đảm. Nguyên tắc này giúp cho các đơn
vị sử dụng vốn vay một cách có hiệu quả, đồng thời giúp ngân hàng cho vay an
toàn, tránh những rủi ro không đáng có trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Bên cạnh đó, nguyên tắc này bảo đảm quan hệ cân đối giữa tiền tệ và hàng hoá
trong lưu thông, góp phần bình ổn giá cả.
1.2.2 Phân loại cho vay
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại rất đa dạng và phong phú với
nhiều loại hình khác nhau. Việc áp dụng hình thức cho vay nào là tùy thuộc vào đặc
điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn vay nhằm sử dụng và quản lý vốn vay có
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
hiệu quả và phù hợp với sự vận động cũng như đặc điểm kinh tế khác nhau của đối
tượng vay.
1.2.2.1 Phân loại dựa theo mục đích sử dụng tiền vay
- Cho vay tiêu dùng
Người đi vay sử dụng tiền vay vào việc tiêu dùng, mua sắm tài sản cố định
nhằm mục đích phục vụ lợi ích cá nhân. Nguồn tiền để trả nợ cho ngân hàng chính

là thu nhập cá nhân của người vay.
Hình thức cho vay này ở các nước phát triển đã xuất hiện từ lâu, với loại
hình phổ biến nhất là cho vay trả góp, thúc đẩy tiêu dùng và qua đó thúc đẩy sản
xuất phát triển.
- Cho vay để kinh doanh
Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để phục vụ hoạt động kinh doanh của
mình, nhằm mở rộng sản xuất hay đáp ứng một nhu cầu nào đó về tiền của doanh
nghiệp. Do có sự khác nhau về nhu cầu vốn cũng như đặc điểm kinh doanh của
từng ngành mà ngân hàng thiết lập các điều kiện cho vay, phương thức cho vay,
cách thức trả nợ dựa trên nguồn thu tiền bán hàng của doanh nghiệp. Có thể phân
chia loại hình này theo tiêu thức cho vay doanh nghiệp sản xuất và cho vay thương
mại hay có thể phân chia theo các ngành nghề kinh tế như cho vay ngành công
nghiệp, ngành nông nghiệp, cho vay ngành dịch vụ.
1.2.2.2 Phân loại dựa theo thời hạn cho vay
- Cho vay ngắn hạn
Hình thức cho vay này chủ yếu nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu
cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp hay các hộ sản xuất. Cho
vay ngắn hạn trong những trường hợp sau:
- Ngân hàng cho Nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Hình thức phổ biến hiện nay là ngân hàng mua trái phiếu do kho bạc phát hành.
- Cho vay đáp ứng nhu cầu thanh khoản của các tổ chức tài chính như các
ngân hàng, các công ty tài chính, quỹ tín dụng… Một số công ty chứng khoán vay
vốn ngắn hạn của ngân hàng thương mại trong quá trình bảo lãnh và phân phối
chứng khoán cho công ty phát hành. Phần lớn các khoản cho vay này đều dựa trên
uy tín của người vay.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
- Cho vay đối với doanh nghiệp nhằm tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho sản
xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là khách hàng chiếm số lượng đông nhất của các

ngân hàng thương mại. Phần lớn các khoản cho vay này là có thế chấp hoặc cầm cố
tài sản.
- Cho vay các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng theo
thời vụ. Đây là những khách hàng chủ yếu của ngân hàng.
- Cho vay các doanh nghiệp cần vốn để xây dựng, mở rộng cải tiến sửa chữa
tài sản cố định với thời hạn dưới một năm.
- Tài trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
- Cho vay để phát triển đất đối với các công trình xây dựng và phát triển đô
thị.
- Cho vay tiêu dùng.
- Cho vay trung và dài hạn
- Nhà nước vay trung và dài hạn để đầu tư phát triển.
- Ngân hàng mua các trái phiếu trung và dài hạn của doanh nghiệp nhằm tài
trợ cho các quá trình hình thành tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của
trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình tài chính doanh nghiệp, các kế hoạch tương
lai đều được ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu.
- Nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp thường để tài trợ
cho trang thiết bị mới, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ. Với sự phát triển
nhanh chóng của khoa học công nghệ, để tồn tại và phát triển, nhu cầu vốn trung và
dài hạn của doanh nghiệp theo đó mà ngày càng cao.
- Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định, nhằm thực
hiện dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu cho vay
của ngân hàng là người vay phải lập dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư,
cũng như quá trình thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng
quyết định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
1.2.2.3 Phân loại dựa theo hình thức đảm bảo của các khoản vay
- Cho vay có đảm bảo bằng tài sản hữu hình
Đây là những khoản cho vay mà bên cạnh việc cho khách hàng vay vốn,
ngân hàng còn nắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử lý tài sản đó để thu
hồi vốn vay phòng khi người đi vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Khi thực hiện việc

Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
cho vay, ngân hàng không trực tiếp quản lý nguồn vốn của mình nên có rất nhiều
rủi ro xảy ra. Nguy cơ không thu hồi đủ vốn vay là rất cao. Vì vậy các ngân hàng
khi cho vay thường yêu cầu người vay phải có tài sản bảo đảm cho khoản vay.
Trong cho vay nhằm mục đích kinh doanh, nguồn thu nợ trước tiên là doanh
thu đối với vay vốn lưu động, hoặc là khấu hao, lợi nhuận đối với những khoản vay
trung và dài hạn. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn thu nợ trước tiên của ngân hàng là
thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính và các khoản thu
nhập khác. Khi đánh giá các hoạt động của khách hàng, nếu ngân hàng nhận thấy
những nguồn thu nhập trên không có cơ sở chắc chắn thì tài sản đảm bảo là phương
án dự phòng để thu hồi nợ, đảm bảo an toàn cho hoạt động cho vay của ngân hàng.
- Các khoản cho vay không có đảm bảo bằng tài sản hữu hình
Là khoản cho vay mà ngân hàng không nắm giữ tài sản của người đi vay để
xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là các điều kiện ràng buộc khác khi ký hợp
đồng tín dụng. Những điều kiện này có thể là: người đi vay không được giao dịch
với ngân hàng nào khác, hoạt động kinh doanh của người đi vay phải được ngân
hàng quản lý. Có như vậy ngân hàng mới quản lý được tình hình tài chính của
người đi vay.
Thông thường chỉ có những khách hàng có quan hệ lâu năm với ngân hàng,
những khách hàng có uy tín, hay những khách hàng mà ngân hàng có tham gia góp
vốn vào thì mới được vay theo hình thức này.
1.2.2.4 Phân loại dựa theo hình thức hình thành khoản vay
- Cho vay trực tiếp
Đây là hình thức ngân hàng cho vay khi khách hàng trực tiếp đến ngân hàng
và xin vay vốn. Phần lớn các khoản cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.
Ngân hàng trực tiếp chuyển giao tiền cho khách hàng sử dụng trên cơ sở những điều
kiện mà hai bên đã thoả thuận.
Thông thường khách hàng vay trực tiếp khi có tài sản thế chấp, có uy tín cao

mà không cần phải thông qua trung gian nào.
- Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho
vay qua các tổ, đội, hội, nhóm, như nhóm sản xuất, hội nông dân, hội cựu chiến
binh, hội phụ nữ Các tổ chức này thường xuyên liên kết các thành viên theo một
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành
viên. Vì vậy việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các
trung gian rất quan tâm.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu
vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử
dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay
nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy cho vay
trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay (chi phí phân tích, giám sát, thu nợ )
Các hình thức cho vay trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro chi phí của ngân
hàng. Tuy nhiên nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình để tăng lãi suất nhằm
cho vay lại hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình, các nhà
bán lẻ có thể lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá cao cho người vay
vốn.
1.2.3 Quy trình cho vay của ngân hàng thương mại
Mỗi ngân hàng đều tự xây dựng cho mình một quy trình cho vay riêng tuỳ
theo đặc điểm tổ chức và quản trị. Thông thường các ngân hàng tuân theo một quy
trình cho vay căn bản gồm các bước sau đây:
 Lập hồ sơ đề nghị cho vay
Đây là khâu đầu tiên của quy trình cho vay, được thực hiện ngay sau khi cán
bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Mục đích của khâu này là
để thu thập thông tin về khách hàng làm cơ sở thực hiện các khâu sau. Tuỳ theo mối

quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng, tuỳ theo hình thức vay và quy mô vay mà
cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn.
Nhìn chung khách hàng có nhu cầu vay vốn thường phải cung cấp những
thông tin về năng lực pháp lý và năng lực hành vi của mình, thông tin về mục đích
vay vốn và khả năng hoàn trả nợ vay cũng như các thông tin về tài sản đảm bảo.
 Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là việc phân tích khả năng của khách hàng về sử dụng và
hoàn trả vốn vay. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có
thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, từ đó tiên lượng khả năng kiểm soát những loại
rủi ro đó và dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Bên cạnh đó phân tích tín dụng còn nhằm kiểm định tính chân thực của các thông
tin khách hàng cung cấp, tư đó nhận định thái độ của khách hàng đối với việc hoàn
trả nợ vay.
• Quyết định và ký hợp đồng cho vay
Đây là khâu rất quan trọng trong quy trình cho vay vì nó ảnh hưởng rất lớn
đến các khâu sau và ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả hoạt động cho vay của ngân
hàng. Khách hàng sẽ nhận được quyết định cho vay hoặc từ chối của ngân hàng.
Thông thường có hai loại sai lầm cơ bản thường xảy ra trong khâu này:
- Quyết định chấp thuận cho vay đối với một khách hàng không tốt. Sai lầm
này có thể dẫn đến thiệt hại do nợ quá hạn hoặc nợ không thể thu hồi.
- Từ chối cho vay đối với một khách hàng tốt. Điều này có thể dẫn đến thiệt
hại về uy tín và mất cơ hội cho vay của ngân hàng.
Để hạn chế sai lầm, trong khâu quyết định cho vay, các ngân hàng thường
chú trọng thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và chính xác làm cơ sở để ra
quyết định kết hợp với việc trao quyền quyết định cho một hội đồng tín dụng hoặc
những người có năng lực phân tích và phán quyết.
• Giải ngân

Giải ngân là khâu tiếp theo sau khi ngân hàng chấp thuận cho vay và hợp
đồng cho vay đã được kí kết. Giải ngân là phát tiền vay cho khách hàng theo những
điều khoản đã cam kết trong hợp đồng cho vay.
Tuy là khâu tiếp theo của quyết định cho vay nhưng đây cũng là khâu quan
trọng vì nó có thể góp phần phát hiện và chấn chỉnh kịp thời nếu có sai sót ở các
khâu trước. Nguyên tắc giải ngân là luôn gắn liền vận động tiền tệ với vận động
hàng hoá hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy
nhiên, giải ngân cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc đảm bảo thuận lợi tránh gây
khó khăn và phiền hà cho khách hàng.
• Giám sát tín dụng
Giám sát tín dụng nhằm mục tiêu bảo đảm cho tiền vay được sử dụng đúng
mục đích đã cam kết trong hợp đồng cho vay, kiểm soát rủi ro, phát hiện và chấn
chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này.
• Thanh lý hợp đồng cho vay
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Thanh lý hợp đồng cho vay có thể xảy ra do khách hàng vi phạm hợp đồng
hoặc do khoản vay đã đến hạn. Đây là khâu kết thúc của quy trình cho vay. Khâu
này gồm thu nợ gốc và lãi, tái xét hợp đồng cho vay, thanh lý hợp đồng cho vay.
1.2.4 Mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại
1.2.4.1 Khái niệm
Mở rộng cho vay là thuật ngữ dùng để chỉ sự tăng lên về quy mô cho vay,
thể hiện trên các mặt: tăng thêm số lượng, đối tượng khách hàng, mở rộng địa bàn
hoạt động, cung ứng thêm cho thị trường những hình thức cho vay mới với chất
lượng tốt hơn nhằm mục tiêu tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Mở rộng cho vay cần căn cứ vào khả năng hiện có của ngân hàng thương
mại về vốn có thể huy động được từ các tổ chức kinh tế, dân cư và thị trường liên
ngân hàng, khả năng cung cấp vốn cho mọi đối tượng khách hàng trong nền kinh tế
khi các khách hàng có đủ các điều kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu vay vốn, khả

năng mở rộng mạng lưới, quảng bá hình ảnh và mở rộng các dịch vụ tài chính khác
hỗ trợ việc mở rộng cho vay của ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì hoạt động cho vay ngày càng được
mở rộng và linh hoạt. Hệ thống pháp luật cũng phải vì thế mà được xây dựng cho
hoàn thiện và phù hợp để hỗ trợ cho các ngân hàng cũng như doanh nghiệp.
Mở rộng cho vay cần đáp ứng những yêu cầu sau đây:
- Mở rộng cho vay gắn với đẩy mạnh nguồn huy động để sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư, qua đó góp phần nâng cao thu nhập của người
dân và lợi nhuận của ngân hàng.
- Mở rộng cho vay trên cơ sở cơ cấu lại các khoản dư nợ theo hướng cho vay
đa dạng hoá các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế. Giữ vững các mối quan hệ
với khách hàng chiến lược, tìm kiếm, lựa chọn khách hàng hấp dẫn, hướng tới các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Gắn mở rộng cho vay với đẩy mạnh marketing, quảng bá thương hiệu.
- Mở rộng cho vay gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, hộ sản xuất, cá nhân vay vốn.
- Mở rộng cho vay đi đôi với nâng cao chất lượng hoạt động cho vay.
Đáp ứng được những yêu cầu này thì ngân hàng mới thực sự thực hiện việc
mở rộng cho vay một cách có hiệu quả, tăng lợi nhuận và củng cố vị thế của mình.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
1.2.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại
• Tốc độ tăng trưởng về doanh số cho vay và dư nợ cho vay
- Tốc độ tăng truởng doanh số cho vay (DSCV)
Doanh số cho vay cho biết mức độ cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế
trong một khoảng thời gian nhất định. Doanh số cho vay trong mỗi thời kỳ cho ta
thấy được diễn biến thực của hoạt động cho vay trong thời kì đó.
Tốc độ tăng
trưởng DSCV

=
(DSCV năm sau - DSCV năm trước)
x 100%
DSCV năm trước
- Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay (DNCV)
Dư nợ cho vay là phần còn lại của doanh số cho vay sau khi hoạt động thu
nợ đã diễn ra. Dư nợ cho vay được xác định vào một thời điểm nhất định, phản ánh
số lượng vốn mà ngân hàng đã cung ứng cho nền kinh tế tại thời điểm đó.
Tốc độ tăng
trường DNCV
=
(DNCV năm sau - DNCV năm trước)
x 100%
DNCV năm trước
• Số lượng khách hàng vay và tốc độ tăng số lượng khách hàng vay
Việc mở rộng cho vay còn được đánh giá trên khía cạnh số lượng khách
hàng vay vốn của ngân hàng thương mại. Tăng số lượng khách hàng vay là một
mục tiêu không thể thiếu của các ngân hàng thương mại. Số lượng khách hàng vay
phản ánh phần nào uy tín của ngân hàng cũng như thị phần của ngân hàng đó trên
thị trường.
Tốc độ tăng số lượng khách hàng vay cho thấy kết quả mở rộng cho vay theo
đối tượng khách hàng năm sau so với năm trước.
• Doanh thu từ cho vay
Doanh thu từ cho vay chính là khoản thu lãi từ cho vay của ngân hàng. Như
vậy doanh thu phụ thuộc vào doanh số cho vay, lãi suất cho vay và cách thức tính
lãi của từng khoản cho vay của ngân hàng thương mại.
Khi hoạt động cho vay được mở rộng thì số lượng khách hàng tăng lên,
doanh số cho vay cũng tăng lên và do đó kéo theo việc tăng doanh thu từ cho vay
nếu lãi suất cho vay không biến động nhiều. Do đó chỉ tiêu doanh thu từ cho vay và
tốc độ tăng doanh thu từ cho vay của năm sau so với năm trước cũng được sử dụng

để đánh giá mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại.
• Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Lợi nhuận từ hoạt động cho vay chính là doanh thu từ cho vay trừ đi các chi
phí liên quan như chi lãi và các khoản chi tương tự.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay chỉ có thể tăng với mức độ nhất
định bởi ngân hàng không thể tuỳ tiện điều chỉnh lãi suất cho vay lên quá cao. Tuy
nhiên, ở một mức độ nào đó việc tính toán thu nhập từ hoạt động cho vay sẽ góp
phần quyết định xem liệu có nên mở rộng hoạt động cho vay hay không, và mở
rộng đến mức độ nào tuỳ theo mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể gánh chịu.
• Tỉ lệ nợ quá hạn
Tỉ lệ nợ quá hạn cho thấy chất lượng cho vay của ngân hàng thương mại.
Nếu như tăng doanh số cho vay, số lượng khách hàng, thậm chí tăng doanh thu từ
cho vay mà không quan tâm đến tỉ lệ nợ quá hạn thì rủi ro là rất lớn. Ngân hàng
thương mại buộc phải quản lí tỉ lệ nợ quá hạn của mình nằm trong mức độ cho phép
mà Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra. Do đó khi mở rộng cho vay, ngân hàng thương
mại đồng thời phải quản lý tốt chất lượng các khoản cho vay của mình.
Tóm lại việc mở rộng cho vay của ngân hàng sẽ được coi là thành công nếu
quy mô cho vay tăng lên nhưng độ an toàn của các khoản vay vẫn được đảm bảo và
nó làm tăng thu nhập cho ngân hàng.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng cho vay của ngân hàng thương mại
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Khả năng huy động vốn của ngân hàng
Vốn của ngân hàng được hình thành bởi vốn chủ sở hữu và vốn nợ. Đối với
một ngân hàng thương mại thì vốn nợ chiếm tỉ trọng lớn hơn rất nhiều so với các
loại hình doanh nghiệp thương mại và các doanh nghiệp phi tài chính khác.
Ngân hàng thương mại nằm trong hệ thống ngân hàng và chịu sự tác động
của chính sách tiền tệ, chịu sự quản lý của Ngân hàng trung ương và phải tuân thủ

các quy định của luật Ngân hàng. Một ngân hàng chỉ được huy động một số vốn
gấp 20 lần số vốn chủ sở hữu. Điều đó có nghĩa là khả năng được phép huy động
vốn nợ càng cao nếu vốn chủ sở hữu của ngân hàng càng lớn, từ đó ngân hàng sẽ dễ
dàng hơn trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
Việc quản lý chính sách và kế hoạch huy động vốn ảnh hưởng trực tiếp tới
hoạt động cho vay của ngân hàng. Vốn huy động phải hợp lí về cả quy mô, chất
lượng và chi phí. Có thể nói hoạt động huy động vốn là điều kiện cần để mở rộng
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
15
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
cho vay. Lượng vốn huy động quá ít hay quá dư thừa sẽ gây ra tình trạng ngân hàng
bỏ lỡ các cơ hội đầu tư kiếm lợi nhuận hay tồn đọng vốn dẫn đến giảm lợi nhuận
của ngân hàng. Ngược lại nếu không huy động được vốn sẽ không thể thực hiện các
hoạt động khác, bao gồm cả hoạt động cho vay.
Do đó việc nghiên cứu kế hoạch huy động vốn của ngân hàng là rất quan
trọng khi muốn mở rộng cho vay.
1.3.1.2 Thông tin tín dụng
Thông tin là vấn đề thiết yếu, không thể thiếu được với mọi doanh nghiệp
nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng. Trong hoạt động cho vay, ngân
hàng cho vay chủ yếu dựa trên sự tin tưởng đối với khách hàng. Với trình độ và quy
mô của mình, ngân hàng thương mại có đủ điều kiện để thực hiện vai trò khắc phục
rủi ro thông tin bất cân xứng giữa những người có nhu cầu gửi tiền và vay tiền. Việc
thu thập và xử lí một cách có hiệu quả các thông tin tín dụng liên quan trực tiếp tới
rủi ro tín dụng và hiệu quả của việc mở rộng cho vay.
Quyết định có mở rộng cho vay hay không, và mở rộng với quy mô nào đều
phải dựa trên cơ sở có những thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời về nguồn lực
của ngân hàng cũng như những thông tin về môi trường bên ngoài. Thông tin là yếu
tố mang tính quyết định đến các kế hoạch, chính sách và từ đó ảnh hưởng đến cơ
hội kinh doanh và lợi nhuận của ngân hàng nói chung cũng như hoạt động cho vay
nói riêng.

Đối với từng khoản vay thì thông tin riêng của từng khách hàng sẽ cho biết
khả năng trả nợ của khách hàng đó, và từ đó quyết định cho vay hay không, cho vay
với quy mô và thời hạn như thế nào.
1.3.1.3 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Chiến lược kinh doanh chung của toàn ngân hàng sẽ xác định quy mô mở
rộng cho vay và xác định tầm quan trọng của hoạt động cho vay tới hoạt động kinh
doanh của cả ngân hàng. Để mở rộng cho vay thì chiến lược kinh doanh phải hướng
vào hoạt động cho vay và có một kế hoạch phù hợp dựa trên cơ sở các quyết định,
chính sách của ban lãnh đạo ngân hàng, thông tin về khách hàng, về đối thủ cạnh
tranh, xác định đúng vị thế của ngân hàng trên địa bàn hoạt động.
Hoạt động cho vay tuy đem lại nguồn lợi nhuận đáng kể cho ngân hàng
nhưng đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro. Do đó ngân hàng phải xác định
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
quy mô mở rộng cho vay một cách hợp lý, nên chú trọng hơn vào những hướng có
hiệu quả, tìm hiểu thêm những lĩnh vực mới tiềm năng giúp mở rộng hoạt cho vay
đồng thời với việc đảm bảo chất lượng hoạt động cho vay.
1.3.1.4 Chính sách cho vay
Chính sách cho vay của ngân hàng sẽ quy định giới hạn mức cho vay đối với
một khách hàng, kỳ hạn của khoản vay, lãi suất cho vay và mức lệ phí, phương thức
cho vay, hướng giải quyết phần khách hàng vay vượt giới hạn, xử lý các khoản vay
có vấn đề Tất cả các yếu tố đó có tác dụng trực tiếp và mạnh mẽ đến việc mở rộng
cho vay của ngân hàng.
Một chính sách cho vay đúng đắn, hợp lý, linh hoạt, đáp ứng được các nhu
cầu đa dạng của khách hàng về vốn sẽ là nhân tố quan trọng góp phần giúp ngân
hàng thành công trong việc tăng cường hoạt động cho vay, đồng thời vẫn đảm bảo
được chất lượng tín dụng. Ngược lại, chính sách cho vay chứa đựng những bất hợp
lý, cứng nhắc, không theo sát tình hình thực tế sẽ dẫn đến khó khăn trong việc tăng
cường hoạt động cho vay của ngân hàng.

Lãi suất được coi là nhân tố quan trọng nhất trong một chính sách cho vay,
bởi nó phản ánh giá cả của khoản vay, nghĩa là cho biết khách hàng sẽ mất chi phí
bao nhiêu để vay được số vốn cần thiết. Tuy nhiên trên thực tế lãi suất chỉ phản ánh
một phần chi phí vay vốn của khách hàng bởi ngoài lãi suất, khách hàng còn phải
trả nhiều loại chi phí khác để có được khoản vay cần thiết. Việc đa dạng hoá các
mức lãi suất phù hợp với từng loại khách hàng, từng kỳ hạn cho vay sẽ tạo điều kiện
để ngân hàng thu hút được khách hàng, thực hiện tốt mục tiêu mở rộng cho vay.
Quy trình cho vay cũng nằm trong chính sách cho vay. Một chính sách cho
vay với quy trình đơn giản, tiện lợi cho phía khách hàng mà vẫn đảm bảo đầy đủ
yêu cầu an toàn của ngân hàng khi quyết định cho vay là một điều không dễ dàng
đạt được. Khách hàng vay vốn thường muốn nhanh chóng được giải ngân trong thời
gian ngắn nhất. Trong khi đó ngân hàng thường mất nhiều thời gian trong khâu
phân tích và thẩm định khoản vay trước khi quyết định và thực hiện giải ngân. Nếu
ngân hàng có thể thực hiện khâu này một cách chuyên nghiệp và nhanh chóng thì
đây chính là một lợi thế cạnh tranh quan trọng.
Các phương thức cho vay đa dạng và có những hình thức cho vay phù hợp
với nhu cầu khách hàng sẽ thu hút khách hàng hơn. Thông thường khách hàng chọn
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
lựa ngân hàng để vay vốn dựa trên uy tín của ngân hàng và những điều kiện cho vay
cũng như các dịch vụ giá trị gia tăng mà khách hàng có thể nhận được. Từng hình
thức cho vay sẽ có những điều kiện vay vốn và những tiện ích khác nhau cung cấp
cho khách hàng. Danh mục các hình thức cho vay của ngân hàng càng đa dạng,
khách hàng càng có nhiều lựa chọn khi quyết định vay vốn. Đây là một yếu tố có
ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, đặc biệt là
trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay.
1.3.1.5 Chất lượng cho vay của ngân hàng
Chất lượng cho vay tại ngân hàng thương mại là chất lượng của các khoản
cho vay của ngân hàng thương mại. Các khoản cho vay có chất lượng khi vốn vay

được khách hàng sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, tạo ra số tiền lớn hơn, thông
qua đó ngân hàng thu hồi được gốc và lãi, còn doanh nghiệp có thể trả được nợ, bù
đắp chi phí và thu được lợi nhuận. Điều này có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu
quả kinh tế lại tạo được hiệu quả xã hội.
Ngược lại các khoản cho vay được coi là có chất lượng kém khi khách hàng
vay vốn không trả được nợ và hình thành nên nợ quá hạn đối với ngân hàng. Ngân
hàng không thu hồi được vốn và phải bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro. Điều này
làm giảm lợi nhuận của ngân hàng cũng như làm giảm uy tín của ngân hàng trên thị
trường.
Chất lượng cho vay ảnh hưởng đến quy mô mở rộng cho vay của ngân hàng
thương mại. Mở rộng cho vay đồng nghĩa với việc ngân hàng thương mại phải chấp
nhận rủi ro tăng lên. Tuy nhiên ngân hàng luôn phải kiểm soát rủi ro và duy trì tỉ lệ
nợ quá hạn ở mức thấp nhất có thể.
Nếu trong hiện tại chất lượng cho vay của ngân hàng không tốt và trong
tương lai không thể kiểm soát rủi ro tốt hơn thì ngân hàng đó không nên mở rộng
cho vay. Ngay cả khi chất lượng cho vay hiện tại của ngân hàng là tốt thì chất lượng
cho vay là vấn đề quan trọng cần quan tâm khi mở rộng cho vay nhằm đạt được
hiệu quả cao nhất.
1.3.1.6 Hệ thống mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch
Hệ thống mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch của ngân hàng cũng giống
như kênh phân phối sản phẩm của các doanh nghiệp. Các chi nhánh và phòng giao
dịch của ngân hàng là nơi ngân hàng tiếp xúc với khách hàng. Đối với hoạt động
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
cho vay, phần lớn các hình thức cho vay đều cần có sự tiếp xúc trực tiếp giữa cán
bộ tín dụng với khách hàng vay vốn. Do đó sự thuận tiện là yếu tố ảnh hưởng khá
lớn tới quyết định vay vốn của khách hàng.
Ngân hàng sau khi đã xác định đối tượng khách hàng mục tiêu cho mình cần
xác định những điểm đặt chi nhánh và phòng giao dịch. Để đầu tư thành lập một chi

nhánh hoặc phòng giao dịch là khá tốn kém nên ngân hàng cần cân nhắc những địa
điểm có tính chiến lược, những địa điểm tập trung dân cư và có đường giao thông
thuận lợi. Tuy nhiên nếu muốn mở rộng sang đối tượng khách hàng nông thôn thì
việc đầu tư mạng lưới phòng giao dịch ở những tỉnh thành và vùng nông thôn lại
cần được quan tâm.
Nhìn chung đối với hoạt động của ngân hàng thương mại thì việc phát triển
mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch luôn là vấn đề được quan tâm, chú ý đầu
tư, nhất là đối với các ngân hàng mới thành lập với hệ thống mạng lưới còn thưa
thớt. Đối với các ngân hàng lớn, đã phát triển được một mạng lưới chi nhánh rộng
khắp thì vấn đề cần quan tâm là hiệu quả hoạt động của hệ thống đó và xem xét tính
hiệu quả của từng chi nhánh hay phòng giao dịch. Trên thực tế có những phòng giao
dịch hoạt động không hiệu quả và phải ngừng hoạt động, tiết kiệm chi phí cho ngân
hàng.
1.3.1.7 Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị
Trong quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàng, nhân viên ngân hàng
chính là hình ảnh của ngân hàng. Những kiến thức, kinh nghiệm, chuyên môn của
nhân viên ngân hàng có thể làm tăng thêm giá trị dịch vụ. Chính vì vậy đội ngũ
nhân viên ngân hàng cần có đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết và không ngừng
sáng tạo, phát triển bản thân về kĩ năng cũng như kiến thức chuyên môn.
Kênh giao tiếp giữa nhân viên ngân hàng với khách hàng chính là một kênh
thông tin hiệu quả phản ánh những phản hồi của khách hàng đến bộ phận hoạch
định chính sách của ngân hàng.
Năng lực lãnh đạo của những người điều hành cũng ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mở rộng cho vay đồng nghĩa với việc chấp
nhận rủi ro lớn hơn để thu về lợi nhuận cao hơn, cần thiết phải có sự điều hành sáng
suốt cùng với những quyết định đúng đắn của ban lãnh đạo.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh

đều có xu hướng tự động hoá thì cơ sở vật chất thiết bị cũng là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Trụ sở kinh doanh và trang thiết
bị tại nơi giao dịch của ngân hàng góp phần tạo nên uy tín của ngân hàng đối với
khách hàng đến vay. Trình độ công nghệ của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới tiến
độ cho vay cũng như sự chính xác cần thiết trong việc xử lí các nghiệp vụ. Những
yếu tố này có ảnh hưởng khá lớn tới sự lựa chọn của khách hàng, đặc biệt là khi nhu
cầu về sự tiện dụng và nhanh chóng ngày càng lớn như hiện nay. Do đó các ngân
hàng đang không ngừng cải tiến công nghệ, tham gia vào các hệ thống chuyển tiền
điện tử quốc tế lớn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, từ đó tạo điều kiện thuận
lợi để mở rộng cho vay.
1.3.2 Nhân tố khách quan
1.3.2.1 Hệ thống pháp luật và các chính sách
Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về
hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ của pháp luật.
Ngân hàng thương mại cũng vậy. Hoạt động của ngân hàng thuơng mại chịu sự tác
động trực tiếp của pháp luật cũng như các quy định của Ngân hàng Nhà nước. Một
sự thay đổi về luật pháp hay sự ra đời của các quy định mới có thể mang tính quyết
định đến định hướng kinh doanh và mục tiêu kinh doanh của ngân hàng thương
mại.
Nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, không đồng bộ, có nhiều
kẽ hở thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động
cho vay nói riêng. Với những văn bản pháp luật đầy đủ rõ ràng, đồng bộ sẽ tạo điều
kiện cho ngân hàng yên tâm hoạt động kinh doanh, cạnh tranh trong lĩnh vực cho
vay. Đây là cơ sở pháp lý để ngân hàng khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra.
Nó tạo một nền móng vững chắc để ngân hàng hoạch định các chiến lược mở rộng
cho vay.
Sự thay đổi những chủ trương chính sách về ngân hàng cũng gây ảnh hưởng
đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, chính sách
xuất nhập khẩu một cách đột ngột sẽ gây xáo trộn hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không tiêu thụ hết được sản phẩm hay chưa có

Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
phương án kinh doanh mới dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi và ảnh hưởng tới chất
lượng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cũng có vai trò ảnh hưởng làm thay
đổi chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại. Một chính sách tiền tệ thắt chặt
nhằm mục tiêu giảm lạm phát sẽ dẫn đến việc các ngân hàng thương mại khó có thể
mở rộng được hoạt động cho vay. Ngược lại chính sách tiền tệ nới lỏng, kích thích
sản xuất, hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp lại tạo điều kiện để các ngân hàng
thương mại mở rộng cho vay.
Những chính sách kinh tế xã hội làm ảnh hưởng tới cá nhân và các doanh
nghiệp sẽ gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Như vậy môi trường pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp và rõ ràng tới hoạt
động của các ngân hàng thương mại.
1.3.2.2 Sự phát triển của nền kinh tế
Sự phát triển của nền kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh
của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Điều kiện kinh tế thuận
lợi sẽ tạo môi trường rất thuận lợi để mở rộng hoạt động cho vay.
Bất cứ một ngân hàng nào cũng chịu sự chi phối của các chu kì kinh tế.
Trong giai đoạn nền kinh tế phát triển ổn định, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì
xã hội có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn nên nhu cầu vay
vốn tăng. Mặt khác nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao, tỷ lệ
thất nghiệp thấp sẽ làm tăng nhu cầu tiêu dùng, thay đổi thói quen tiêu dùng của
người dân và tăng khả năng tiết kiệm, tạo triển vọng cho vay tiêu dùng cũng như
khả năng tích lũy vốn của nền kinh tế.
Ngược lại nền kinh tế suy thoái dẫn đến tình trạng dư thừa ứ đọng vốn do
doanh nghiệp không có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh hay đầu tư, các cá
nhân giảm nhu cầu tiêu dùng. Với điều kiện đó, không những hoạt động cho vay
không được mở rộng mà còn bị thu hẹp.

1.3.2.3 Đối thủ cạnh tranh
Môi trường cạnh tranh của ngành ngân hàng là một môi trường cạnh tranh
khá gay gắt, đặc biệt khi số lượng ngân hàng mới thành lập ngày càng cao cũng như
cam kết mở cửa ngành ngân hàng ở Việt Nam hiện nay cho phép các ngân hàng
nước ngoài tham gia vào thị trường.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
21
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Cạnh tranh tạo động lực cho ngân hàng ngày càng hoàn thiện về mọi mặt.
Mỗi ngân hàng cần tạo cho mình một lợi thế riêng để lôi kéo khách hàng. Để làm
được điều đó, ngân hàng thương mại cần nghiên cứu điểm mạnh, điểm yếu của đối
thủ cạnh tranh kết hợp với lợi thế của chính mình đưa ra chiến lược cạnh tranh phù
hợp.
Đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng trực tiếp tới chiến lược kinh doanh của
ngân hàng thương mại, từ đó ảnh hưởng tới chính sách tín dụng và hoạt động cho
vay của ngân hàng. Chính vì vậy nghiên cứu đối thủ cạnh tranh là một phần quan
trọng trong định hướng chiến lược kinh doanh nói chung cũng như hoạt động cho
vay nói riêng của ngân hàng thương mại.
1.3.2.4 Nhóm nhân tố thuộc về phía khách hàng vay vốn
Để quyết định việc mở rộng cho vay, ngân hàng cần xem xét nhu cầu vay
vốn thực tế. Một nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái không có nhu cầu về
vốn nhiều như một nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng. Mặt khác trình độ
tiến bộ của một quốc gia cũng sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu vay vốn của mỗi đối tượng
khách hàng. Với một nền kinh tế phát triển thì việc vay tiêu dùng trở thành rất phổ
biến. Trái lại, với một nước đang phát triển, khi thói quen tiêu dùng của người dân
còn nặng tính tự cung tự cấp với thói quen tích trữ thì nhu cầu vay tiêu dùng còn rất
mờ nhạt.
Những nhân tố thuộc về khách hàng vay vốn như đạo đức và khả năng thanh
toán món vay liên quan đến mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận khi mở
rộng hoạt động cho vay.

Tóm lại ngân hàng thương mại cần cân nhắc những nhân tố ảnh hưởng đến
quyết định mở rộng cho vay của mình. Kết hợp với việc nghiên cứu phát huy điểm
mạnh, hạn chế điểm yếu của mình, ngân hàng thương mại có thể tìm ra những giải
pháp thích hợp để mở rộng cho vay một cách hiệu quả.
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
22
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG MỞ RỘNG CHO VAY
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN LIÊN VIỆT
2.1 Khái quát về ngân hàng Thương mại cố phần Liên Việt
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng
Tên ngân hàng: Ngân hàng Thương mại cổ phần Liên Việt.
Tên giao dịch quốc tế: Lienvietbank.
Trụ sở chính: số 32 Nguyễn Công Trứ, Phường 1, Thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu
Giang.
Hội sở: 109 Trần Hưng Đạo, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Tổng giám đốc: Lê Hồng Phong.
Chủ tịch Hội đồng quản trị: Dương Công Minh.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Liên Việt được Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam chấp thuận cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo công văn số
12803/NHNN-CNH ngày 3 tháng 11 năm 2007.
Giấy phép hoạt động của ngân hàng Liên Việt số 91/GP-NHNN do Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 28 tháng 3 năm 2008. Giấy chứng nhận kinh
doanh số 643000058 do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hậu Giang cấp.
Là một ngân hàng non trẻ ra đời trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của nền
kinh tế nói chung cũng như ngành ngân hàng nói riêng, Ngân hàng Thương mại cổ
phần Liên Việt bắt đầu hoạt động kinh doanh với số vốn điều lệ là 3.300 tỷ đồng,
với 10 cổ đông sáng lập và 1.323 cổ đông phổ thông.
Tuy mới gia nhập ngành ngân hàng chưa lâu nhưng ngân hàng Liên Việt
đang từng bước khẳng định tên tuổi của mình. Với mục tiêu trở thành một trong

những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam, ngân hàng Liên Việt
không ngừng đầu tư công nghệ, mở rộng phạm vi hoạt động với mạng lưới chi
nhánh và phòng giao dịch ngày càng lớn trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức
Ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt sau hai năm hoạt động hiện tại đã
có tổng cộng 13 chi nhánh và 23 phòng giao dịch.
Cơ cấu tổ chức của ngân hàng như sau:
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
23
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
24
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Ngân hàng – Tài chính
Ngân hàng hoạt động dựa trên phương thức Hội sở chính quản lý chung,
nhận kế hoạch và lợi nhuận và các chỉ tiêu khác từ Hội đồng quản trị, cụ thể hoá các
kế hoạch và chỉ tiêu đó sau đó trên cơ sở thực tế hoạt động của từng chi nhánh, ban
tổng giám đốc sẽ giao kế hoạch cụ thể cho từng chi nhánh và phòng giao dịch thực
hiện. Các chi nhánh, phòng giao dịch hạch toán độc lập trên cơ sở kế hoạch và uỷ
quyền của Ban Tổng giám đốc.
Văn phòng tổng giám đốc: Kết hợp với phòng kế toán, phòng vi tính trong
việc quản lý tài sản và công cụ lao động, lập kế hoạch trang bị, sửa chữa, bảo trì
hàng năm tài sản, công cụ lao động trong toàn ngân hàng; Giúp thực hiện điều phối
công việc hàng ngày; Quản lý điều phối toàn bộ phương tiện vận chuyển; Điều hành
và quản lý công tác hành chính, lưu trữ hồ sơ, tài liệu, văn bản của toàn ngân hàng;
Tổ chức và thực hiện công tác ngoại giao, tiếp tân, khai trương, hội họp của toàn hệ
thống.
Ban kiểm soát: Kiểm tra và phúc tra việc thực hiện toàn bộ quy chế các hoạt
động, việc chấp hành các quy định nghiệp vụ của các phòng chức năng - nghiệp vụ
và các đơn vị cụ thể thuộc ngân hàng. Trên cơ sở kiểm tra việc chấp hàng quy chế
nghiệp vụ của các đơn vị trực thuộc, phòng kiểm soát nội bộ có trách nhiệm phân

tích chất lượng tín dụng, chế độ quản lý tài chính kế toán, đánh giá xác nhận tính
hợp lý, trung thực số liệu trên bảng cân đối tài khoản và báo cáo tài chính của các
đơn vị thuộc ngân hàng Liên Việt; báo cáo và phản ánh trung thực, chính xác cho
lãnh đạo tình hình hoạt động, tình hình chấp hành và thực hiện những quy định của
luật pháp.
Khối PR & Marketing có nhiệm vụ xây dựng và thực hiện các hoạt động
nhằm quảng bá thương hiệu của ngân hàng, tổ chức các sự kiện như tài trợ, ủng hộ;
phối hợp chặt chẽ với các phòng chức năng và các đơn vị trực thuộc, tổ chức đề
xuất thực hiện các trương trình hoạt động chăm sóc nhằm nâng cao chất lượng phục
vụ khách hàng, duy trì lòng trung thành và phát triển khách hàng mới.
Khối Tài chính: gồm phòng tài chính và phòng thống kê – kế hoạch. Nhiệm
vụ cơ bản của khối tài chính là tổ chức và theo dõi việc hạch toán đầy đủ, chính xác
các loại vốn, quỹ và tất cả các loại tài sản khác, quản lý tập trung, lên bảng cân đối
kế toán của toàn hệ thống; quản lý, bảo quản đầy đủ an toàn sổ sách chứng từ kế
toán theo đúng chế độ quy định; tổng hợp toàn bộ tình hình hoạt động của toàn
Trịnh Thu Hương Lớp: TCDN – VBII – K21
25

×