Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước ASEAN và vận dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.82 KB, 88 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế, thì vấn đề quan trọng nhất là phải cần có vốn.Vốn có hai loại chủ yếu là
vốn trong nước và vốn nước ngoài.Đối với các nước đang phát triển, thì vấn đề thu hút
vốn nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là yếu tố vô cùng quan trọng và được
nhiều nước quan tâm, trong đó có nước ta.
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua đã
đóng một vai trò lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao trình độ khoa
học, công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý, khai tháccó hiệu quả nguồn tài nguyên
thiên nhiên và lao động của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên,
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã gây ra tình trạng mất cân đối giữa các vùng miền trên cả
nước, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, gây ô nhiễm môi trường trầm trọng….
Trong khu vực ASEAN hiện nay đang nổi lên một số nước rất thành công trong
việc thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế đất nước, những chính
sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của họ áp dụng rất hiệu quả và phù hợp
với tình hình hiện nay.
Để tiếp tục thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian tới thì Việt
Nam cần nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của một số nước ASEAN và vận dụng vào
điều kiện cụ thể của mình. Đó là lý do em quyết định chọn đề tài luận văn là:
“Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước
ASEAN và vận dụng tại Việt Nam”
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở lý luận
cho hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam.
- Khái quát tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước
ASEAN, từ đó đi sâu phân tích các chính cách thu hút FDI, nghiên cứu các thành tựu
thực tế của các chính sách này cũng như những ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế
của các nước này.


- Đánh giá thành tựu cũng như khó khăn, tồn tại để rút ra bài học kinh nghiệm về
chiến lược và chính sách thu hút FDI có thể áp dụng vào Việt Nam .
1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Tình hình thu hút FDI của một số nước
ASEAN, cụ thể là các chính thu hút FDI nổi bật nhất và hoạt động thực tiễn trong thu
hút FDI của một số nước này.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: đề tài nghiên cứu tình hình thu hút FDI của Thái
Lan và Malaysia từ năm 2005 đến nay, về giác độ nghiên cứu: từ phía nhà nước Thái
Lan và Malaysia.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: so sánh, tổng hợp
và phân tích, kết hợp những kết quả thống kê với vận dụng lý luận để làm sáng tỏ
những vấn đề nghiên cứu.
5. Đóng góp của khoá luận
Với những nội dung chính vừa nêu luận văn sẽ cố gắng góp phần giải quyết các
vấn đề về lý luận và các vấn đề về thực tiễn sau đây:
- Về mặt lý luận, góp phần làm sáng tỏ những chính sách, chiến lược trong thu
hút FDI đã và đang được áp dụng ở một số nước ASEAN – những nước được coi là ví
dụ thành công về thu hút FDI. Từ đó đi đến khẳng định chính sách thu hút FDI của các
nước này là đúng đắn và phù hợp với thực tế của họ.
- Về mặt thực tiễn, góp phần đưa những kinh nghiệm trong thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài của một số nước ASEAN cũng như các giải pháp áp dụng cho
Việt Nam vào công tác học tập và giảng dạy tại các trường đại học, và cơ sở giáo dục
đào tạo trên cả nước.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và phần danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số nước ASEAN

Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trên cơ
sở các kinh nghiệm của một số nước ASEAN
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
2
1.1. Khái niệm về FDI
1.1.1. Khái niệm
Đầu tư quốc tế là một trong những hình thức cơ bản của hoạt động kinh tế quốc
tế và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư do xu thế toàn cầu hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Nó ra đời và phát triển không phải là ngẫu nhiên
hay có ý muốn chủ quan của chính phủ các nước tham gia đầu tư, mà bắt nguồn bởi
nguyên nhân khách quan: Sự khác biệt về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, trình độ phát
triển kinh tế xã hội… giữa các nước; xu hướng tự do hóa nền kinh tế thế giới; sự phát
triển nhanh chóng của các công ty xuyên quốc gia; nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng gia tăng của các nước đang phát triển.
Đầu tư quốc tế bao gồm các hình thức sau đây: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu
tư gián tiếp nước ngoài, tín dụng thương mại quốc tế…
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI) là hình thức đầu tư
mà nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đưa vốn đủ lớn và kỹ thuật vào nước nhận đầu tư,
trực tiếp tham gia vào việc quản lý, điều hành quá trình sản xuất kinh doanh. Khác với
đầu tư gián tiếp, trong đầu tư trực tiếp chủ sở hữu vốn đông thời là người trực tiếp
quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Đến nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau
về FDI, chẳng hạn:
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra khái niệm FDI là một tác vụ đầu tư bao hàm một
quan hệ dài hạn, phản ánh một lợi ích lâu bền của một thực thể cư ngụ tại một nước
gốc (nhà đầu tư trực tiếp) đối với một thực thể cư ngụ tại một nước khác (doanh
nghiệp tiếp nhận đầu tư). Khái niệm này đã nêu lên được mục đích của FDI là nhằm
thu về những lợi ích lâu dài cho nhà đầu tư, đồng thời chỉ ra dòng vốn do các nhà đầu
tư nước ngoài đưa vào nước tiếp nhận đầu tư.
Theo ngân hàng Pháp quốc: Một hoạt động đầu tư được xem là FDI khi: a) Thiết

lập được một pháp nhân hoặc một chi nhánh ở nước ngoài; b) nắm giữ được một tỷ lệ có
ý nghĩa về vốn cho phép nhà đầu tư nước ngoài có quyền kiểm soát việc quản lý doanh
nghiệp tại nước nhận đầu tư; c) các khoản cho vay hoặc ứng trước ngắn hạn của chủ đầu
tư cho công ty tiếp nhận đầu tư một khi đã thiết lập giữa hai bên mối quan hệ công ty mẹ
và chi nhánh. Khái niệm này đã nêu được về mặt quản lý, các nhà đầu tư có quyền kiểm
soát doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư cũng như chdỉ ra một số hình thức FDI.
3
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: FDI phản ánh
những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh tế tại một nước (nhà đầu tư) đạt
được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất
nước của nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp). Lợi ích lâu dài bao gưồm sự tồn
tại các mối quan hệ giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp đầu tư, trong đó nhà đầu tư dành
được ảnh hưởng quan trọng và có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp. Đầu tư
trực tiếp bao hàm sự giao dịch ngay từ đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp sau giữa
hai thực thể được liên kết một cách chặt chẽ. Khái niệm này đã nêu khá đầy đủ về xuất
xứ của nguồn vốn đầu tư, động cơ chủ yếu của FDI là phần vốn sử dụng ở nước ngoài
gắn liền với việc kiểm soát hoặc ảnh hưởng nhất định tới hoạt động sử dụng vốn của
doanh nghiệp tiếp nhận đầu tư.
Tuy nội dung cụ thể của các khái niệm trên có khác nhau, nhưng đều thống nhất
ở một số điểm: FDI là hình thức đầu tư quốc tế, cho phép các nhà đầu tư tham gia điều
hành hoạt động đầu tư ở nước tiếp nhận đầu tư tùy theo tỷ lệ góp vốn; quyền sở hữu
gắn liền quyền sử dụng tài sản đầu tư, nhà đầu tư có thể có lợi hơn nếu kinh doanh có
hiệu quả và ngược lại phải gánh chịu rủi ro khi kinh doanh thua lỗ.
Từ những khái niệm, trên có thể hiểu khái quát: FDI là hình thức kinh doanh vốn
mà quyền sử dụng gắn liền với quyền sở hữu tài sản đầu tư, tạo ra một doanh nghiệp
có nguồn vốn tạo lập từ nước ngoài đủ lớn hoạt động theo quy định pháp luật của nước
nhận đầu tư, nhằm khai thác các lợi thế, các nguồn lực tại chỗ, đảm bảo lợi ích lâu dài
của nhà đầu tư nước ngoài và nước tiếp nhận đầu tư.
1.1.2. Đặc điểm
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số tối thiểu vào vốn pháp định,

tùy theo luật doanh nghiệp của mỗi nước.
- Quyền quản lý điều hành đối tượng đầu tư tù thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu
góp 100% vốn thì đối tượng đầu tư hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và
quản lý.
- Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định.
- FDI được xây dựng thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ
hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp
nhập các doanh nghiệp với nhau.
4
1.1.3.Các hình thức FDI
Có nhiều hình thức tổ chức FDI khác nhau, tùy thuộc điều kiện và quy định pháp
luật của mỗi quốc gia, nhưng thường áp dụng các hình thức chủ yếu sau:
a) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài ( do một hay
nhiều tổ chức hoặc cá nhân) bỏ vốn đầu tư, thành lập doanh nghiệp, tự quản lý điều
hành và tự chịu trách nhiệm toàn bộ về kết quả sản xuất kinh doanh. Loại hình doanh
nghiệp này được thành lập tại nước nhận đầu tư dưới hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên hoặc cổ phần, là pháp nhân của nước sở tại tuân theo luật pháp
của nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập có thể hợp tác
với các nhà đầu tư nước ngoài khác để thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài mới.
Hình thức đầu tư nước ngoài này ngày càng được các nhà đầu tư nước ngoài lựa
chọn vì họ được toàn quyền quản lý và hưởng lợi nhuận sau khi đã thực hiện nghĩa vụ
tài chính với nước chủ nhà; hơn nữa, nước chủ nhà không phải lúc nào cũng có thể
tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp liên doanh.
b) Doanh nghiệp liên doanh
Là hình thức đầu tư mà một doanh nghiệp mới được thành lập do hai bên (hoặc
nhiều bên) nước ngoài và nước nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng
hưởng lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được

thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, có tư
cách pháp nhân hoạt động theo pháp luật của nước nhận đầu tư.
Tỷ lệ tham gia góp vốn của mỗi bên do các bên tham gia liên doanh thỏa thuận.
Tuy nhiên, có những nước quy định mức khống chế tỷ lệ vốn góp đối với bên nước
ngoài, nhưng ngày nay xu hướng chung là tiến tới tự do hóa đầu tư.
Hình thức đầu tư này, các nhà đầu tư nước ngoài khi mới thâm nhập thị trường ở
một nước nào đó thường chọn để chiếm lĩnh thị trường một cách nhanh nhất, chi phí
triển khai dự án nhanh, thuận lợi nhất do tranh thủ sự thông hiểu luật pháp, tập quán
cũng như sự hỗ trợ của nước sở tại từ phía đối tác trong nước sở tại. Về phía nước chủ
nhà, tham gia vào các liên doanh sẽ có cơ hội học tập kinh nghiệm quản lý, tiếp cận
công nghệ mới, thâm nhập thị trường quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu mong
5
muốn, phía đối tác nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, có cán bộ đủ năng lực để
tham gia quản lý doanh nghiệp liên doanh.
c) Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Là hình thức liên kết kinh doanh giữa hai hoặc nhiều bên gồm nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài thỏa thuận ký kết hợp đồng để tiến hành một hoặc
nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước nhận đầu tư trên cơ sở thống nhất về đối
tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh
cho mỗi bên.
Đặc trưng của hình thức đầu tư này là không cần phải thành lập một pháp nhân
mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh khác với hợp đồng thương mại thông thường về
tính chất, nội dung của đối tượng kinh doanh. Nếu như hợp đồng thương mại thông
thường mục tiêu chính là trao đổi, mua bán sản phẩm thì trong hợp đồng hợp tác kinh
doanh mục tiêu của các bên tham gia là thực hiện hoạt động kinh doanh tại nước nhận
đầu tư. Địa vị pháp lý của bên nước ngoài trong hợp đồng hợp tác kinh doanh rộng
hơn, đầy đủ hơn, đồng thời bên nước ngoài phải đáp ứng về thủ tục hợp đồng và nghĩa
vụ tài chính đối với nước sở tại cao hơn so với hợp đồng thương mại thông thường.
Do tính chất hợp đồng hợp tác kinh doanh không đòi hỏi vốn lớn, thời hạn hợp
đồng thường không dài nên chủ yếu được áp dụng cho các dự án có quy mô nhỏ, thời

gian hợp đồng ngắn.
Bên cạnh hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh còn có một số hình thức FDI
đặc biệt sau:
i) Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT)
BOT thường được thực hiện bằng 100% vốn nước ngoài nhưng cũng có thể có
một phần vốn góp của chính phủ hoặc tổ chức, cá nhân trong nước. Các nhà đầu tư
chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để
thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao công trình
cho nước chủ nhà mà không được bồi hoàn bất kỳ khoản tiền nào.
ii) Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO)
Hình thức BTO, nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư xây dựng, sau khi xây
dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà, nước chủ nhà dành
cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu
hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý. Như vậy BTO cơ bản giống BOT, chỉ khác ở chỗ đối
6
với BOT sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài được khai thác sử dụng rồi
mới chuyển giao cho nước chủ nhà, còn BTO thì sau khi xây dựng xong nhà đầu tư
chuyển nhượng cho nước chủ nhà, sau đó mới khai thác sử dụng.
iii) Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT)
Hình thức đầu tư BT, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình
cho nước chủ nhà, nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác
để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Tùy điều kiện của mỗi nước mà các hình thức FDI trên đây được áp dụng khác
nhau. Mỗi hình thức đầu tư đều có những mặt mạnh và những mặt hạn chế của nó nên
cần phải nghiên cứu vận dụng đa dạng hóa các hình thức đầu tư nhằm đem lại hiệu quả
cao, đáp ứng mục tiêu phát triển đất nước.
1.2. Một số lý thuyết về FDI
1.2.1. Các lý thuyết tổ chức công nghiệp
Các lý thuyết này ra đời vào đầu những năm 1960 đã giải thích sự phát triển của
các công ty lớn độc quyền ở Mỹ là nguyên nhân quan trọng tạo ra dòng FDI. Stephen

Hymer cho rằng, do kết cấu của thị trường độc quyền đã thúc đẩy các công ty của Mỹ
mở rộng chi nhánh ra nước ngoài để khai thác các lợi thế về vốn, công nghệ, kỹ thuật
quản lý, mạng lưới thị trường mà các công ty trong cùng ngành ở nước nhận đầu tư
không có được. Đó là nguyên nhân hình thành các TNCs và việc thành lập các chi
nhánh ở nước ngoài. Robert Z. Aliber giải thích hiện tượng FDI từ ảnh hưởng của yếu
tố thuế và quy mô thị trường tác động đến các công ty độc quyền. Theo Z. Aliber, thuế
làm tăng nhập khẩu nên các công ty phải di chuyển sản xuất ra nước ngoài để vượt qua
hàng rào thuế quan bảo hộ để giảm chi phí, hạ giá thành, tăng lợi nhuận. Mặt khác,
hiệu quả kinh tế còn phụ thuộc vào quy mô thị trường nên các công ty đã mở rộng thị
trường bằng cách thành lập chi nhánh ở nước ngoài. Richard E. Caver lý giải, những
sản phẩm được chế tạo bởi kỹ thuật mới thường có xu hướng độc quyền do có giá
thành hạ nên đã tích cực mở rộng phạm vi sản xuất ra nước ngoài để khai thác lợi thế
độc quyền kỹ thuật nhằm tối đa hóa lợi nhuận từ đó hình thành FDI.
1.2.2. Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm
7
Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm được Raymon Vernon đưa ra vào những
năm 1960. Theo lý thuyết này, chu kỳ sống của sản phẩm thường trải qua 5 giai đoạn:
Giai đoạn mới phát triển, giai đoạn tăng trưởng, giai trưởng thành, giai đoạn suy
giảm và cuối cùng là giai đoạn lạc hậu.
- Giai đoạn 1: Sản phẩm khi mới xuất hiện cần được nghiên cứu phát triển, cần có
những lao động tay nghề cao. Đây là thời gian để thị trường làm quen với sản phẩm và
khách hàng là một số ít người muốn và có khả năng mua sản phẩm mới với giá cao.
Do đó sản xuất được đặt gần thị trường các nước phát triển, nơi có những khách hàng
giàu có và có đội ngũ khoa học và kỹ sư chất lượng cao và xuất khẩu sản phẩm sang
những nước khác.
- Giai đoạn 2: Khi sản phẩm đã được thị trường chấp nhận, lượng hàng hóa bán
ra tăng nhanh và sản xuất có thể được mở rộng. Công nghệ sản xuất được tiêu chuẩn
hóa và cần sử dụng nhiều vốn hơn. Tiếp thị trở nên quan trọng hơn thiết kế kỹ thuật.
Các đối thủ cạnh tranh xuất hiện. Nhà sản xuất có thể đầu tư ra nước ngoài để giảm chi
phí sản xuất hoặc ngăn chặn sự xuất hiện của các nhà sản xuất địa phương tại thị

trường nước ngoài. Ban đầu, FDI có thể được tập trung ở các nước giàu nơi có nhu cầu
cao đối với sản phẩm. Với lợi tức tăng dần theo quy mô, chi phí sản xuất giảm xuống
và sản phẩm có thể được bắt đầu xuất sang các nước đang phát triển.
- Giai đoạn 3: Tăng trưởng doanh số đã đạt mức cực đại và nhiệm vụ trong tâm
chuyển sang những nỗ lực cắt giảm chi phí để giữ được lợi thế cạnh tranh. Vì sản phẩm
đã được tiêu chuẩn hóa toàn bộ nên không còn nhu cầu cao về tay nghề nhân công. Lúc
này có thể xuất hiện FDI sang các nước đang phát triển, nơi chi phí sản xuất thấp, giá
thành sản phẩm hạ và mức tiêu thụ ở thị trường các nước đang phát triển tăng lên. Sản
phẩm sản xuất tại những nơi đó có thể sẽ được xuất khẩu sang các nước phát triển.
- Giai đoạn 4 và 5: Sản phẩm dần mất sức hấp dẫn và doanh số giảm xuống.
Doanh nghiệp có thể chặn sự suy giảm đó bằng cách: (1) đưa ra sản phẩm mới (có thể
gần với sản phẩm cũ); (2) điều chỉnh và cải tiến sản phẩm hoặc tìm những ứng dụng
mới cho sản phẩm; (3) thay đổi công nghệ sản xuất để giảm chi phí sản xuất.
Lý thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm khá thuyết phục nhưng không nên áp
dụng một cách máy móc. Lý thuyết này vẫn không giải thích được vì sao phần với FDI
lại được di chuyển giữa các nước giàu với nhau. Hơn nữa, các hoạt động nghiên cứu
và phát triển hiện nay không chỉ được thực hiện tại nước đầu tư và nhiều MNC đã trở
8
thành công ty “toàn cầu” nên không nhất thiết phải thử nghiệm sản phẩm trước tiên tại
các nước phát triển. Hơn nữa, các MNC là các công ty độc quyền nhóm nên họ có thể
chuyển sang sản xuất ra nước ngoài ở giai đoạn sớm hơn trong lý thuyết nhằm đánh
bại hoặc theo chân đối thủ cạnh tranh.
1.2.3. Lý thuyết chiết trung
Dunning đã phát triển lý thuyết chiết trung bằng cách tổng hợp 3 dòng lý thuyết
về FDI: lý thuyết tổ chức công nghiệp, lý thuyết nội vi hóa và lý thuyết địa điểm công
nghiệp. Theo ông, một doanh nghiệp chỉ thực hiện FDI khi hội đủ 3 điều kiện đó là:
lợi thế về địa điểm, lợi thế về sở hữu và lợi thế về nội hóa.
- Lợi thế về địa điểm: Là lợi thế có được do việc tiến hành hoạt động kinh doanh
tại một địa điểm nhất định với những đặc thù riêng (do điều kiện tự nhiên hoặc được
tạo ra). Lợi thế về địa điểm có thể gắn với sự giàu có của nguồn tài nguyên thiên

nhiên, sự sẵn có các lực lượng lao động với giá rẻ, lao động lành nghề…
- Lợi thế về sở hữu: là lợi thế có được khi một công ty có cơ hội tham gia sở hữu
một số tài sản đặc biệt nhất định, chẳng hạn như nhãn hiệu sản phẩm, bản quyền công
nghệ hoặc cơ hội quản lý.
- Lợi thế nội hóa: là lợi thế đạt được do việc nội hóa hoạt động sản xuất thay vì
chuyển nó đến một thị trường kém hiệu quả hơn.
Lý thuyết chiết trung có khả năng lý giải được hầu hết mọi nguyên nhân xuất
hiện FDI. Nó nhấn mạnh rằng những lợi thế đã được đề cập ở các nước, các ngành, các
doanh nghiệp khác nhau là hoàn toàn khác nhau và chúng thay đổi theo thời gian. clợi
thế về sở hữu, về nội hóa của các doanh nghiệp trong nước đó và lợi thế về địa điểm
của nước đó tại chính thời điểm đó.
1.2.4. Lý thuyết về quyền lực thị trường:
Lý thuyết về quyền lực thị trường cho rằng, đầu tư quốc tế được thực hiện do
những hành vi đặc biệt của các công ty độc quyền nhóm trên phạm vi quốc tế, trong đó
bao gồm: phản ứng của các công ty độc quyền nhóm, hiệu quả kinh tế về quy mô và sự
liên kết đầu tư quốc tế theo chiều dọc. Tất cả các hành vi đó đều nhằm hạn chế cạnh
tranh, mở rộng thị trường và ngăn cản không cho đối thủ khác thâm nhập vào ngành và
thị trường của các công ty độc quyền nhóm.
Đầu tư quốc tế theo chiều dọc (hay còn gọi là liên kết theo chiều dọc giữa các nhà
sản xuất) tồn tại khi các công ty đầu tư ra nước ngoài để sản xuất các sản phẩm trung
9
gian. Sau đó những sản phẩm này được xuất khẩu ngược trở lại và được sử dụng làm
đầu vào sản xuất của nước chủ nhà. Đầu tư quốc tế theo chiều dọc là hình thức được
thực hiện phổ biến trong các ngành công nghiệp chế tạo và những ngành sử dụng
nhiều tài nguyên thiên nhiên.
Theo lý thuyết này, các công ty thực hiện đầu tư quốc tế với một số lý do như sau:
Thứ nhất, do nguồn cung cấp nguyên liệu ngày càng trở nên khan hiếm, trong khi
đó các công ty của nước sở tại lại không đủ khả năng thăm dò và khai thác nguyên liệu
mới. Do vậy, các công ty đa quốc gia tận dụng lợi thế cạnh tranh trên cơ sở khai thác
nguyên liệu ở nước sở tại. Điều đó góp phần lý giải tại sao đầu tư quốc tế theo chiều

dọc thường được thực hiện ở các nước đang phát triển.
Thứ hai, thông qua đầu tư quốc tế theo chiều dọc, các công ty độc quyền nhóm có
thể thiết lập nên các hàng rào cản không cho các công ty khác tiếp cận tới nguồn
nguyên liệu mà họ đang khai thác.
Thứ ba, đầu tư quốc tế theo chiều dọc còn có thể tạo ra lợi thế về chi phí thông
qua việc cải tiến kỹ thuật bằng cách phối hợp sản xuất và chuyển giao sản phẩm giữa
các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất. Đây là lợi thế lớn hơn hẳn lợi thế có
được từ sự phối hợp giữa các nhà sản xuất độc lập thông qua việc định giá.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khả năng thu hút
FDI của mỗi quốc gia phụ thuộc vào khá nhiều nhân tố, có nhân tố thuộc về trong
nước, có nhân tố phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Để thu hút FDI đạt hiệu quả cao,
các nước nhận đầu tư cần nghiên cứu kỹ lưỡng những nhân tố tác động sau đây:
1.3.1. Nhân tố bên ngoài
1.3.1.1. Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu trong thời
đại ngày nay, nó tác động lôi cuốn tất cả các quốc gia tham gia vào tiến trình này với
các hóa là quá trình hình thành và phát triển các thị trường toàn cầu, làm tăng sự tương
tác và tùy thuộc lẫn nhau, trước hết về kinh tế giữa các nước thông qua sự gia tăng
thương mại và đầu tư cùng với sự hình thành các định chế, tổ chức quốc tế, thì hội
nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng
nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên
cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Hay nói cách khác, hội nhập kinh tế
10
quốc tế thực chất là sự chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế hay khu
vực hóa. Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhận đầu tư càng sâu, rộng thì
ngày càng có cơ hội hút hút FDI. Mức độ ảnh hưởng của toàn cầu hóa, hội nhập kinh
tế quốc tế với việc thu hút FDI thể hiện như sau:
- Toàn cầu hóa, hội nhập KTQT thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế,
làm cho các rào cản bị loại bỏ dần, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các nước tăng

cường thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và các nguồn bên ngoài. Như vậy, toàn cầu
hóa và hội nhập KTQT đã kết nối các nền kinh tế lại với nhau, thúc đẩy sự thông
thoáng, mở cửa hoạt động đầu tư mà không bị giới hạn bởi các biên giới quốc gia,
chủng tộc, tôn giáo, chế độ chính trị - xã hội. Từ đó đặt ra yêu cầu đối với chính sách
thu hút FDI phải đa dạng hóa đối tác đầu tư.
- Cạnh tranh toàn cầu sẽ triệt tiêu dần các lợi thế độc quyền, hiệu quả kinh tế trở
thành thước đo chung cho mọi doanh nghiệp, mọi quốc gia. Các nhà đầu tư nước ngoài
luôn tìm đến những địa điểm đầu tư mang lại hiệu quả cao hơn. Đây vừa là cơ hội để
các nước phát huy lợi thế của mình, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức trong cạnh
tranh ạsách kinh tế cũng như chính sách thu hút FDI phù hợp để phát huy lợi thế cạnh
tranh và thu được kết quả cao nhất trong hội nhập KTQT.
- Tự do hóa thương mại và đầu tư đòi hỏi các nước tiến tới mở cửa hoàn toàn thị
trường nội địa để cho hàng hóa và nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh ở hầu hết
các lĩnh vực trên nguyên tắc tự do cạnh tranh và bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, từng bước hạ thấp và tiến tới loại bỏ hàng rào thuế quan và nhiều chính sách khác
liên quan đến bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước.
- Tham gia hội nhập KTQT, hệ thống pháp luật cũng như chính sách thu hút FDI
phải đầy đủ, đồng bộ theo hướng bình đẳng, công khai, minh bạch phù hợp với quy
định, thỏa ước, cam kết chung của khu vực và thế giới.
1.3.1.2. Xu hướng vận động của dòng FDI trên thế giới
Xu hướng tự do hóa đầu tư trên phạm vi toàn cầu đã tạo ra làn song đầu tư trên
thế giới diễn ra với quy mô, tốc độ lớn và ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế thế giới. Trong những thập kỷ qua, xu hướng vận động của dòng FDI
trên thế giới có những thay đổi sâu sắc về quy mô, nguồn cung cấp, địa chỉ hấp thụ và
có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế cũng như khả năng thu hút FDI của các nước.
Đón bắt được xu hướng vận động FDI trên thế giới là một nhân tố quan trọng để các
11
quốc gia đưa ra các chính sách thu hút FDI phù hợp nhằm tiếp nhận FDI đạt hiệu quả
cao nhất. Nếu một quốc gia thuộc dòng chảy của FDI, thì khả năng thu hút FDI là rất
cao, khi ấy có cơ hội lựa chọn các nhà đầu tư có đủ tiềm lực mạnh để đầu tư vào các

ngành, lĩnh vực kinh tế theo đúng mong muốn của nước nhận đầu tư. Ngược lại, một
quốc gia không thuộc dòng FDI đang vận động thì cần phải có những chính sách
khuyến khích nhiều hơn mới có thể lôi cuốn được các nhà đầu tư nước ngoài.
1.3.1.3. Môi trường kinh tế thế giới và chính sách của các nước công nghiệp
phát triển
Môi trường kinh tế thế giới và những chính sách liên quan đến hoạt động FDI của
các nước công nghiệp phát triển – nơi cung cấp nguồn FDI chủ yếu trên thế giới có
ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng thu hút FDI của các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh thế giới xảy ra khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính- tiền
tệ, khủng hoảng chính trị - xã hội, thảm họa hay dịch bệnh… đều ảnh hưởng đến khả
năng thu hút FDI. Khi đó, cho dù các nước có chính sách khuyến khích ưu đãi FDI bao
nhiêu đi chăng nữa thì tính khả thi cũng không cao. Ngược lại, nền kinh tế thế giới và
khu vực tăng trưởng cao và ổn định sẽ có vai trò thúc đẩy giao dịch thương mại và đầu
tư, tạo cơ hội tốt cho các nước đang phát triển thu hút FDI.
Các nước công nghiệp phát triển cũng đóng vai trò chi phối đáng kể dòng FDI
vào các nước đang phát triển. Các nước phát triển đã giảm dần những hạn chế đối với
các nước đang phát triển như xóa bỏ cấm vận, nới lỏng các chính sách thương mại
(như hạn ngạch), chính sách tài chính, tiền tệ làm cho dòng FDI vào các nước đang
phát triển được thuận lợi hơn. Ngoài ra, các nước phát triển thực hiện những chính
sách khuyến khích đầu tư vào các nước đang phát triển như ký các hiệp định song
phương và đa phương, tránh đánh thuế hai lần, miễn thuế tín dụng cho các công ty đầu
tư vào các nước đang phát triển…. Chính phủ các nước phát triển còn có chính sách
hỗ trợ các công ty trong nước xúc tiến đầu tư vào các nước đang phát triển như cung
cấp thông tin, tư vấn, trợ giúp về tài chính để nghiên cứu, tìm hiểu đơ hội đầu tư…
1.3.1.4. Các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các TNCs
Đối tượng tác động của chính sách thu hút FDI là các nhà đầu tư nước ngoài, vì
thế các nhà đầu tư nước ngoài là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến kết quả thu hút FDI của
các nước. Vì vậy, trong hoạch định và triển khai chính sách phải xem xét và đánh giá
đúng mức nhân tố này.
12

Trước hết để lôi cuốn được các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn vào đầu tư, phải
biết được những nhân tố tác động đến hành vi đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Để
đạt được mục tiêu đầu tư cuối cùng là thu được lợi nhuận cao hơn, các nhà đầu tư phải
quan tâm đến hai yếu tố là: (1) Doanh thu, đó là thị trường tiêu thụ sản phẩm cả trong
nước và xuất khẩu, hay nói cách khác là mức độ hay tổng cầu do nền kinh tế tạo ra; (2)
chi phí đầu tư, gồm nhiều yếu tố liên quan: Thuế, lãi vay, nếu lãi suất lớn hơn mức lợi
nhuận trung bình của nhà đầu tư thì sẽ triệt tiêu động lực đầu tư; các chi phí liên quan
thành lập doanh nghiệp (thủ tục hành chính, thời gian, lệ phí…); chi phí trung gian
(giao thông vận tải, thông tin liên lạc, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, tiền thuê nhân
công…). Những yếu tố này giúp cho các nước muốn thu hút FDI phải có được những
chính sách, biện pháp phù hợp tác động tới từng yếu tố theo hướng tích cực để thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, phải xem xét đến các yếu tố thuộc về nhà đầu tư, đó là: (1) Chiến lược
đầu tư: Thực hiện chiến lược kinh doanh toàn cầu, các TNCs không ngừng mở rộng
đầu tư tới mọi khu vực trên thế giới với quy mô ngày càng lớn hơn. Ngoài những khu
vực truyền thống, các TNCs đang vươn mạnh tới các khu vực mới đầy tiềm năng, nhất
là các quốc gia có nền kinh tế mới nổi nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn do giá nhân
công rẻ và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có, đồng thời còn chiếm lĩnh
được thị trường tiêu thụ, vượt qua hàng rào bảo hộ của nước nhận đầu tư…(2) Tiềm
lực về tài chính, công nghệ, kỹ năng kinh doanh của nhà đầu tư. Xem xét các yếu tố
này sẽ giúp cho các nước có được chính sách, biện pháp thu hút và lựa chọn các nhà
đầu tư tiềm năng đáp ứng tốt nhất theo mục tiêu phát triển từng ngành, lĩnh vực hay
khu vực kinh tế nhất định.
1.3.2. Các nhân tố bên trong
Trong chiến lược đầu tư của mình, các nhà đầu tư thường có xu hướng tìm tới
những nước có điều kiện tốt nhất đối với công việc kinh doanh của mình như điều
kiện kinh tế, chính trị, hệ thống pháp luật ra sao. Hàng loạt câu hỏi đặt ra của các nhà
đầu tư đòi hỏi các nước tiếp nhận và thu hút nguồn vốn này phải đưa ra các điều kiện
ưu đãi cho các nhà đầu tư, cho họ thấy được những lợi ích khi tham gia đầu tư ở nước
mình. Ngoài ra môi trường cũng có tác động không nhỏ đến công việc kinh doanh của

các nhà đầu tư vì cũng như hầu hết các hoạt động đầu tư khác, nó mang tính chất, đặc
điểm của các nghiệp vụ kinh tế nói chung, do vậy nó chịu tác động của các quy luật
13
kinh tế nói chung và những ảnh hưởng của môi trường kinh tế - xã hội, các chính sách
có liên quan, hệ thống cơ sở hạ tầng….
1.3.2.1. Môi trường chính trị - xã hội
Đây là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với nhà đầu tư nước ngoài, vì có ổn định
chính trị thì các cam kết của chính phủ nước chủ nhà đối với nhà đầu tư về sở hữu vốn
đầu tư, các chính sách ưu đãi, định hướng phát triển mới được đảm bảo.Đây là những
vấn đề có thể nói là được nhà đầu tư quan tâm nhất vì nó tác động rất mạnh đến yếu tố
rủi ro trong đầu tư. Nếu nước chủ nhà có một hệ thống chính sách đầy đủ và hợp lý,
đảm bảo sự nhất quán về chủ trương thu hút đầu tư cũng sẽ là những yếu tố quan trọng
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Môi trường văn hóa – xã hội cũng ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nước ngoài,
ví dụ sau sự kiện ngày 11/9/2001 tại Mỹ, tất cả các nhà đầu tư Mỹ và các nước trên thế
giới khi đầu tư tại một nước có dân số là đạo hồi đều rất dè dặt. Đây là yếu tố nhạy
cảm mà các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm, theo đó các nhà đầu tư xem xét có nên đầu
tư vào quốc gia này hay không.
1.3.2.2. Sự ổn định của môi kinh tế vĩ mô
Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Điều này đặc biệt
quan trọng đối với việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài. Để thu hút được FDI,
nền kinh tế địa phương phải là nơi an toàn cho sự vận động của vốn đầu tư và nơi có
khả năng sinh lợi cao hơn các nơi khác. Sự an toàn đòi hỏi môi trường vĩ mô ổn định,
hơn nữa phải giữ được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì mới có điều kiện sử dụng
tốt FDI.
Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô được đánh giá thông qua các tiêu chí: Chống lạm
phát và ổn định tiền tệ. Tiêu chí này được thực hiện thông qua các công cụ của chính
sách tài chính tiền tệ như lãi suất, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các công cụ của
thị trường mở đồng thời phải kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách hoặc giữ cho
ngân sách cân bằng.

1.3.2.3. Hệ thống pháp luật và bộ máy quản lý nhà nước
Môi trường pháp luật là bộ phận không thể thiếu đối với hoạt động FDI. Một hệ
thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện và vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố
tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi, định hướng và hỗ trợ cho các nhà đầu tư
nước ngoài. Vấn đề mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm là:
14
- Môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền sở hữu tài sản tư nhân được pháp luật
bảo đảm.
- Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối
với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài.
- Quy định về thuế, giá, thời hạn thuê đất….Bởi các yếu tố này tác động trực tiếp
đến giá thành sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận. Nếu các quy định pháp lý bảo đảm an
toàn về vốn của nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư không phương hại đến an ninh quốc
gia, đảm bảo mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước thuận tiện thì khả
năng thu hút FDI càng cao.
Do vậy, hệ thống pháp luật phải thể hiện được nội dung cơ bản của nguyên tắc: tôn
trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và theo thông lệ quốc tế. Đồng thời phải
thiết lập và hoàn thiện định chế pháp lý tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật thì nhân tố quyết định pháp luật có hiệu lực
là bộ máy quản lý nhà nước. Nhà nước phải mạnh với bộ máy quản lý gọn nhẹ, cán bộ
quản lý có năng lực, năng động, có phẩm chất đạo đức. Việc quản lý các dự án FDI
phải chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư song không ảnh hưởng đến
sự phát triển chung của nền kinh tế và xã hội.
1.3.2.4. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là cơ sở để thu hút FDI và cũng là nhân tố thúc đẩy hoạt
động FDI diễn ra nhanh chóng, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trước khi ra quyết định.
Quốc gia có hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới giao thông, năng lượng, hệ thống
cấp thoát nước, các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng ….tạo điều kiện cho các dự án
FDI phát triển thuận lợi. Mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố này phản ánh trình độ

phát triển của mỗi quốc gia và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn. Trong quá trình thực
hiện dự án, các nhà đầu tư chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh, thời gian thực hiện
dự án được rút ngắn, bên cạnh đó việc giảm chi phí cho các khâu vận chuyển, thông
tin sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư.
15
1.3.2.5. Hệ thống thị trường đồng bộ, chiến lược phát triển hướng ngoại
Hoạt động kinh doanh muốn đem lại hiệu quả cao thì phải diễn ra trong môi
trường thuận lợi, có đầy đủ các thị trường: thị trường lao động, thị trường tài chính, thị
trường hàng hóa - dịch vụ… Các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành sản xuất kinh doanh
ở nước chủ nhà nên đòi hỏi ở nước này phải có hệ thống trị trường đồng bộ, đảm bảo
cho hoạt động của nhà đầu tư được tồn tại và đem lại hiệu quả. Thị trường lao động là
nơi cung cấp lao động cho nhà đầu tư. Thị trường tài chính là nơi cho nhà đầu tư vay
vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh và thị trường hàng hóa – dịch vụ là nơi tiêu thụ
sản phẩm, lưu thông hàng hóa đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư. Hệ thống trị trường
này sẽ đảm bảo cho toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi
từ đầu vào đến việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại là thực hiện chiến lược hướng về xuất
khẩu. Mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh với các quốc gia khác
tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mại, chiếm được lòng tin của các nhà đầu tư.
1.3.2.6. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Đó là đặc điểm khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số, vị trí địa lý gấn….Đây là
những yếu tố tác động nhiều đến tính sinh lãi hoặc rủi ro trong đầu tư.
1.3.2.7. Trình độ quản lý và năng lực của người lao động
Nguồn nhân lực vừa là nhân tố thu hút vừa là nhân tố sử dụng có hiệu quả FDI.
Bởi con người có khả năng hợp tác kinh doanh cao, trình độ lao động phù hợp với yêu
cầu, năng lực quản lý cao thì sẽ tạo ra năng suất cao. Bên cạnh đó các nhà đầu tư sẽ
giảm được một phần chi phí đào tạo và bớt được thời gian đào tạo nên tiến độ và hiệu
quả của dự án sẽ đạt đúng theo mục tiêu đề ra. Trình độ thấp kém sẽ làm cho nước chủ
nhà thua thiệt, đặc biệt là các khâu của quá trình quản lý hoạt động FDI. Sai lầm của
các cán bộ quản lý nhà nước có thể làm thiệt hại cho nhà đầu tư nước ngoài và cho

nước chủ nhà. Vì vậy, nước chủ nhà cần nâng cao trình độ dân trí người lao động để
không chỉ có nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến mà còn nâng
cao kỹ thuật quản lý kinh tế.
1.3.2.8. Nhân tố lãi suất
Do một dự án đầu tư, chi phí và doạnh thu được thể hiện ở những thời điểm khác
nhau. Để so sánh doanh thu và chi phí trong điều kiện tiền có giá trị biến đổi theo thời
gian, các nhà đầu tư đã sử dụng lãi suất để tính chuyển các dòng tiền về mặt bằng thời
16
gian hiện tại. Như vậy, nếu lãi suất càng tăng thì lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu
tư càng giảm. Do đó mức lãi suất thấp là một trong những yếu tố khuyến khích những
người có tiền đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh hơn là gửi ngân hàng.
1.3.2.9. Chi phí sản xuất
Đây cũng là những yếu tố mà các nhà đầu tư quan tâm, bao gồm: Chi phí nguyên
vật liệu, chi phí nhân công, chi phí cho các dịch vụ hỗ trợ sản xuất của doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất giảm thì lợi nhuận sẽ tăng tại mọi mức lãi suất. Trong hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài, có một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chi phí sản xuất tại
nước nhận đầu tư đó là tỷ giá hối đoái. Nếu đồng tiền của nước nhận đầu tư tăng giá,
chi phí sản xuất ở đây sẽ tăng, chi phí tăng thì lợi nhuận giảm, đó là nhân tố làm giảm
quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.4.Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận vốn
1.4.1.Tác động tích cực:
- Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế bao gồm nguồn vốn trong nước và vốn nước
ngoài. Hầu hết các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu đều phải đương đầu với sự
khan hiếm vốn . Do vậy để đạt được sự tăng trưởng ổn định cao nhằm đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng đói nghèo , lạc hậu thì các nước này phải tìm kiếm nguồn bổ sung
từ bên ngoài mà trong đó FDI đóng vai trò quan trọng nhằm tăng cường vốn đầu tư
trong nước và bù đắp sự thiếu hụt ngoại tệ. Ngoài ra, FDI còn đóng góp đáng kể vào
nguồn thu ngân sách của Chính phủ các nước nhận đầu tư thông qua thuế …Đây là
nguồn vốn quan trọng để đầu tư cho các dự án phát triển của nước chủ nhà.

- Chuyển giao công nghệ:
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó vốn
bằng tiền mà còn chuyển vốn bằng hiện vật như máy móc, thiết bị ….và vốn vô hình,
chuyên gia kỹ thuật, bí kíp công nghệ, quản lý. Thông qua tiếp nhận FDI, nước nhận
đầu tư có thể tiếp nhận được công nghệ hiện đại, sau đó cải tiến và phát triển phù hợp
thành công nghệ nước mình.
- Học tập kinh nghiệm và tiếp cận thị trường mới:
FDI giúp các nước nhận đầu tư đào tạo kiến thức kinh doanh, quản lý, tay nghề
và tiếp cận thị trường thế giới. Thông thường ở các nước nhận đầu tư, trình độ quản lý
của các cán bộ quản lý, trình độ tay nghề và nhận thức của công nhân còn yếu kém nên
17
khi đầu tư, để tiếp cận công nghệ mới, các chủ đầu tư nước ngoài thường tổ chức các
lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ công nhân để thực hiện dự án. Bằng con
đường này, kiến thức của các cán bộ quản lý và tay nghề của công nhân được tăng lên.
Hơn nữa, FDI giúp các nước nhận đầu tư tiếp cận và xâm nhập vào thị trường thế giới
thông qua liên doanh và mạng lưới thị trường rộng lớn của hệ thống các công ty xuyên
quốc gia.
- FDI là công cụ để kích thích cạnh tranh:
Chính phủ các nước chủ nhà thường muốn sử dụng FDI như một công cụ kích
thích và liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp trong nước. Các công ty nước ngoài
như là một đối tượng để cho các doanh nghiệp trong. nước tăng tính cạnh tranh của
mình, thay đổi tác phong kinh doanh cũ. Mặt khác các doanh nghiệp nội địa cũng mở
rộng được quy mô sản xuất và lĩnh vực kinh doanh nhờ cung cấp các yếu tố đầu vào
và tiêu thụ đầu ra cho các công ty nước ngoài.
Ngày nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu khách quan trong
điều kiện quốc tế hóa, toàn cầu hóa nền sản xuất, lưu thông và ngày càng được tăng
cường mạnh mẽ. Có thể nói không một quốc gia nào dù phát triển hay đang phát triển
lại không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và coi đó là nguồn lực,
phương tiện để khai thác và hòa nhập vào cộng đồng quốc tế.
- FDI tạo công ăn việc làm cho nước sở tại:

FDI tạo công ăn việc làm và thu nhập đáng kể cho lực lượng lao động của nước
nhận đầu tư, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao
động theo các ngành nghề, lãnh thổ theo hướng tích cực. Điều đáng kể là số lao động
tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tiếp tục đào tạo hoặc được nâng
cao nghiệp vụ và được bố trí vào các vị trí của công ty.
1.4.2.Tác động tiêu cực
- Chi phí của việc thu hút FDI:
Để thu hút FDI, nước nhận đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho nhà đầu tư:
giảm thuế, miễn thuế trong một thời gian cho các dự án đầu tư nước ngoài hoặc mức
giá tiền thuê đất, nhà xưởng và một số dịch vụ trong nước thấp. Hay trong một số lĩnh
vực họ được nhà nước bảo hộ thuế quan như vậy đôi khi lợi ích của nhà đầu tư có thể
vượt lợi ích của nước nhận đầu tư trong một thời gian nhất định.
18
- Hiện tượng chuyển giá:
Các công ty xuyên quốc gia, các nhà đầu tư thường liên kết chặt chẽ với nhau để
nâng giá nguyên vật liệu đầu vào, bán thành phầm, máy móc, thiết bị nhập vào để
thực hiện đầu tư đồng thời giảm giá sản phẩm bán ra, thậm chí thấp hơn so với giá
thành phẩm, giấu lợi nhuận thực tế thu được để tránh thuế mà nước chủ nhà đánh vào
lợi nhuận của nhà đầu tư. Từ đó hạn chế đối thủ cạnh tranh xâm nhập thị trường, hạn
chế khả năng và dần đẩy đối tác của nước sở tại trong liên doanh đến phá sản do liên
doanh thua lỗ kéo dài. Hoặc tạo chi phí sản xuất cao ở nước sở tại và nước này phải
mua hàng hóa do nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao.
Tuy nhiên, việc tính giá đó chỉ xảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông tin, trình độ
quản lý yếu hoặc chính sách của nước đó có nhiều kẽ hở khiến các nhà đầu tư có thể
lợi dụng được.
- Nước nhận đầu tư nhận được công nghệ và kỹ thuật lạc hậu từ nhà đầu tư
nước ngoài:
Điều này được giải thích như sau: (1) Dưới tác động của khoa học kỹ thuật, cho
nên máy móc, công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu, vì vậy các nhà đầu tư nước
ngoài thường chuyển giao các công nghệ đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi

mới công nghệ, đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm ở chính quốc; (2) Vào giai
đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ sử dụng nhiều lao
động. Tuy nhiên, sau quá trình phát triển, giá lao động tăng lên làm cho giá thành sản
phẩm cao, vì vậy họ muốn thay thế công nghệ này bằng công nghệ có hàm lượng kỹ
thuật cao để hạ giá thành sản phẩm.
Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây ra nhiều thiệt hai cho nước nhận đầu
tư: (1) Khó tính được giá trị thực của những máy móc, thiết bị nhận chuyển giao, do
vậy, nước nhận đầu tư thường bị thiệt trong việc tính giá tỷ lệ góp vốn của các doanh
nghiệp liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc phân chia tỷ lệ lợi nhuận; (2)
Gây tổn hại đến môi trường; (3) Chất lượng sản phẩm thấp và chi phí sản xuất cao và
do đó sản phẩm của nước nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, mặt trái này cũng một phần tùy thuộc vào chính sách công nghệ, pháp
luật về đầu tư, bảo vệ môi trường,…và khả năng tiếp nhận công nghệ của nước nhận
đầu tư.
19
- Những tác động tiêu cực khác:
Mục đích của nhà đầu tư là kiếm được lợi nhuận tối đa nên họ chỉ đầu tư vào
những địa bàn có cơ sở hạ tầng tương đối tốt, những lĩnh vực nhanh chóng thu hồi vốn
và có lợi. Vì vậy, đôi khi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần tăng thêm sự
mất cân đối giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn. FDI cũng có thể có ảnh hưởng
xấu về xã hội: gây phân hóa giàu nghèo, thay đổi lối sống tiêu cực, xâm hại đến các
giá trị văn hóa – xã hội truyền thống cùng với sự gia tăng của các tệ nạn xã hội: mại
dâm, nghiện hút…
Từ phân tích trên ta thấy đối với mỗi nước nhận đầu tư, FDI không chỉ đem lại
những tác động tích cực mà còn gây ra những tác động tiêu cực, do đó cần phải có sự
quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này.
20
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM THU HÚT FDI
VÀO MỘT SỐ NƯỚC ASEAN
2.1. Thực trạng thu hút FDI của Thái Lan và Malaysia

Thái Lan và Malaysia là hai trong 5 nước sáng lập viên của tổ chức ASEAN,
đồng thời cũng là những nước đầu tiên trong khu vực ASEAN thu hút FDI vào phát
triển kinh tế đất nước. Nhìn vào bảng dòng vốn FDI vào các nước ASEAN trong giai
đoạn từ 1980 đến 2008, ta thấy FDI vào Malaysia là 99.025,4 triệu USD và Thái Lan
là 98.655,3 triệu USD, đứng sau Singapo là 269.974,6 triệu USD nhưng lại vượt xa
các nước thành viên ASEAN khác. FDI vào hai nước Thái Lan và Malaysia đều chiếm
tỷ trọng tương đối cao trong GDP (Thái Lan: 38,5% và Malaysia: 33%).
Bảng 1: Dòng vốn FDI vào các nước ASEAN giai đoạn 1980 đến 2008
ĐVT: Triệu USD
STT Nước FDI % GDP
1 Singapore 269.974,6 185,6
2 Malaysia 99.025,4 33,0
3 Thái Lan 98.655,3 38,5
4 Việt Nam 39.369,6 53,2
5 Indonesia 29.486 13,1
6 Philippines 29.483 12,7
7 Brunei 10.322,4 71,5
8 Myanmar 5.994,5 22,0
9 Campuchia 4.449,8 41,9
10 Lào 1.405,4 26,7
Nguồn: Tính toán của tác giả trên cơ sở số liệu từ UNCTAD (UNCTAD, 2009)
Tình hình thu hút FDI vào Thái Lan và Malaysia từ năm 1980 đến trước khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 có thể chia thành 3 giai đoạn chính. Giai đoạn 1, từ
1980 đến 1997, giai đoạn này FDI tăng lên nhanh, liên tục và đạt được mức đỉnh điểm
vào năm 1997. Giai đoạn 2, từ năm 1998 đến 2003, là thời kỳ FDI giảm sút liên tục.
Giai đoạn 3, từ 2003 đến trước khủng hoảng tài chính toàn cầu là thời kỳ FDI khôi
phục và phát triển mạnh mẽ.
Thực trạng trên của hoạt động FDI ở Thái Lan và Malaysia có thể giải thích bởi
một số lý do sau: một là, mặc dù hai nước này luôn khuyến khích FDI từ nhiều năm
qua và với môi trường kinh tế, chính trị ổn định họ đã thu được kết quả tốt, nhưng một

thực tế là vào giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, hai nước này bắt đầu chuyển hướng từ
công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hướng vào xuất khẩu. Sự
21
chuyển hướng này đã có tác động tích cực đến nhìn nhận của các nhà đầu tư nước
ngoài. Hai là, thực tiến thu hút FDI vào hai nước này cũng bị ảnh hưởng sâu sắc của
những biến cố trên thế giới và khu vực như sự giảm giá đồng tiền của các nước chủ
đầu tư. Các công ty của Nhật Bản chiếm tỷ trọng lớn nhất trong FDI ở Thái Lan và
Malaysia nên quyết định đầu tư của họ có ảnh hưởng lớn đến tình hình thu hút FDI
vào hai nước này. Sự gia tăng FDI ở hai nước này vào cuối những năm 1980, đầu
những năm 1990 một phần là do các công ty của Nhật Bản chịu tác động của thỏa ước
Plaza (1985). Dưới tác động của thỏa ước này, tỷ giá hối đoái của đồng yên Nhật đã
tăng mạnh so với đồng USD. Ba là, giai đoạn 1998 – 2003, dòng vốn FDI vào hai
nước này giảm sút do ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu
Á năm 1997, sự giảm sút của kinh tế Mỹ, Châu và sự suy thoái kinh tế của Nhật Bản
năm 2001. Sau nhiều nỗ lực, với nhiều chính sách ưu đãi được ban hành ở hai nước
này và cùng với đà phục hồi kinh tế ở Châu Á, từ 2003 – 2007, dòng FDI đã lấy được
đà tăng trưởng mạnh mẽ.
- Theo nguồn vốn đầu tư:
Bảng 2: FDI vào Malaysia và Thái Lan theo nguồn vốn, giai đoạn 2000 - 2008
Malaysia Thái Lan
Số lượng % Số lượng %
ASEAN 8.423,8 20,4 15.998,2 26,0
Các nước CN mới 1.316,9 3,2 3.239,4 5,3
Mỹ 7.431,1 18,0 20,935,6 34,1
EU 7.956,8 19,3 5.553,7 9,0
Nhật Bản 10.544 25,6 2.210,3 3,6
Các nước khác 5.546,9 13,5 13.486,3 22,0
Tổng cộng 41.219,5 100 61.423,5 100
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp theo Niên giám thống kê ASEAN, 2008.
Bảng 2 mô tả tình hình FDI vào Malaysia và Thái Lan phân theo một số nguồn

đầu tư chính. Có sự khác biệt về nguồn vốn đầu tư giữa Thái Lan và Malaysia phản
ánh sự khác nhau trong cơ cấu kinh tế và quan hệ lịch sử của hai nước với các nước
đầu tư. Malaysia là nước thu hút FDI lớn từ Nhật Bản và Châu Âu do nước này có hệ
thống cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực có chất lượng cao và chính sách tương đối cởi
mở, tự do. Trong khi đó nguồn FDI chiếm tỷ trọng lớn ở Thái Lan là từ Mỹ do vị trí
địa lý, chính trị quan trọng của Thái Lan đối với Mỹ. Hai nước đều thu hút FDI khá
lớn từ các nước ASEAN (chiếm trên 20%) là do từ cuối những năm 1980, các nước
thành viên mới của ASEAN bắt đầu tham gia vào cuộc cạnh tranh thu hút FDI, hoạt
22
động thu hút FDI trở nên sôi động hơn. Một số nước ASEAN đã bắt đầu xuất khẩu
vốn ra nước ngoài mà chủ yếu là vào các nước còn lại của ASEAN.
- Theo ngành kinh tế:
Bảng 3: FDI vào Thái Lan và Malaysia phân theo ngành kinh tế (1999 – 2003)
Malaysia Thái Lan
Nông, lâm, ngư nghiệp 67,32 24,62
Khai khoáng 3.652,79 99,43
Công nghiệp chế biến 6.084,9 6.333,48
Xây dựng 6 122,47
Thương mại 155 3.098,13
Tài chính 762 456,92
Bất động sản 136,48 403,64
Dịch vụ 20 1.722,3
Ngành khác 3.175,33 5.040,79
Nguồn: Niên giám thống kê ASEAN năm 2005
Theo bảng 3 ta thấy, Malaysia và Thái Lan có cơ cấu đầu tư khá giống nhau. Tại
hai nước này, ngành công nghiệp chế biến chiếm khoảng 40% tổng lượng vốn FDI mà
họ tiếp nhận. Sự phân bố FDI của hai nước này bị chi phối bởi chính sách kinh tế của
họ. Ở Thái Lan cho đến cuối những năm 1970, phần lớn FDI tập trung vào những
ngành thay thế nhập khẩu như dệt may, ô tô, xe máy và hóa chất để tận dụng sự ưu đãi
của chính sách dành cho các ngành này. Trong thập kỷ gần đây, FDI chuyển hướng

mạnh sang các ngành công nghiệp chế biến cho xuất khẩu như may mặc, giày dép, hay
các hoạt động lắp ráp linh kiện điện, điện tử. Trong thời gian thực hiện chiến lược thay
thế nhập khẩu, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước bằng cách
dựng lên hàng rào thuế quan cao. Chẳng hạn, năm 1975 mức thuế nhập khẩu áp dụng
cho các hàng hóa của các ngành công nghiệp chế biến là khoảng 35 đến 350%. Trong
một số ngành như dệt, sản xuất săm lốp, đồ gia dụng, ô tô xe máy, công nghiệp da,
hàng rào bảo hộ thậm chí còn cao hơn rất nhiều và đạt 1.693,4%. Trong thời kỳ này,
FDI vào Thái Lan hầu hết là đổ vào các ngành công nghiệp được bảo hộ này. Ngược
lại, trong thời kỳ thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, hàng rào thuế quan đã
được giảm nhằm thu hút FDI vào những ngành mà Thái Lan có lợi thế so sánh so với
các nước trên thế giới như điện tử, giấy dép.
2.2. Những chính sách, biện pháp mà Thái Lan, Malaysia đã áp dụng để thu
hút FDI
2.2.1. Những chính sách, biện pháp của Malaysia
23
2.2.1.1. Tiếp tục mở rộng tự do hóa đầu tư
Từ năm 1998, Malaysia cho phép nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% vốn trong
các ngành công nghiệp chế tạo mà không kèm theo bất kỳ điều kiện nào và được áp
dụng cho tất cả các dự án đầu tư mới cũng như dự án đầu tư mở rộng được phê chuẩn
từ ngày 31/12/2003. Đến năm 2003, Malaysia chủ trương tiếp tục thực hiện chính sách
này mà không giới hạn về thời gian áp dụng. Việc mở cửa tự do đầu tư đối với FDI
vào ngành công nghiệp chế tạo đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp FDI được cạnh
tranh tự do trong thị trường trong nước cũng như xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Năm 2000, Malaysia cho phép người nước ngoài và người không phải gốc Mã
lai mua cổ phần trong các công ty lớn thuộc tài sản chiến lược quốc gia mà trước đây
chỉ dành cho người Mã lai. Người nước ngoài được mua tới 40% cổ phần của hãng
hàng không Malaysia, được mua cổ phần của Tập đoàn sản xuất Ô tô Proton; Được
đầu tư vào các cảng và công ty hàng không; Được quản lý một số sân bay; Được thuê
đường sắt…
Cũng như Hàn Quốc và Thái Lan, Malaysia nới lỏng quy định về sở hữu bất động

sản đối với người nước ngoài, cụ thể: Cho phép người nước ngoài được vay vốn tại
các ngân hàng của Malaysia để mua bất động sản; Nâng mức giá trị bất động sản
không phải xin phép Ủy ban đầu tư nước ngoài từ dưới 5 triệu RM lên dưới 10 triệu
RM; Công ty và cá nhân bán bất động sản có giá trị dưới 20 triệu RM không phải xin
phép mà chỉ cần thông báo cho Ủy ban đầu tư nước ngoài để lưu hồ sơ; Các công ty
thành lập tại bất cứ quốc gia nào thuộc thành viên ASEAN nhưng hoạt động tại
Malaysia đều được sở hữu văn phòng có thể trị giá trên 25.000 RM (trước đây quy
định chỉ được mua bất động sản xây mới).
Cùng với việc mở rộng tự do hóa đầu tư đối với người nước ngoài, Malaysia đã
tiến hành sửa đổi một số bộ luật liên quan đến hoạt động FDI theo xu hướng áp dụng
bình đẳng, thống nhất đối với mọi Nhà đầu tư (trong nước và nước ngoài). Ví dụ, quy
định về tịch thu tài sản để thế nợ trong sửa đổi luật tịch thu tài sản đã tạo dựng một
môi trường chắc chắn đối với quyền sở hữu của các Nhà đầu tư; Sửa đổi luật phá sản
nhằm đảm bảo luật hóa việc an toàn đối với người cho vay.
2.2.1.2. Định hướng thu hút FDI
Malaysia xác định tám ngành công nghiệp then chốt, đóng vai trò trụ cột giúp cho
việc tăng trưởng và tạo giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế là: điện và điện tử, dệt và
24

×