Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

ÔN THI TỐT NGHIỆP MÔN KHOA HỌC HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.92 KB, 93 trang )

ÔN THI TỐT NGHIỆP MÔN KHOA HỌC HÀNH CHÍNH
Vấn đề 1: Khái niệm hành chính nhà nước (hay còn gọi là quản lý
HCNN, hoặc gọi là hành chính công) và đặc điểm của hành chính nhà
nước:
Ở Việt Nam hiện nay, hành chính công (hành chính quốc gia, hành
chính nhà nước hay quản lý HCNN có cách hiểu giống nhau. Hành chính
công là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà nước, là sự tác động
có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người do các cơ quan trong bộ máy hành
chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước nhằm duy trì và phát triển các mối quan hệ
xã hội và trật tự pháp luật, thoả mãn các nhu cầu hợp pháp của con người.
Theo quan niệm trên ta thấy, hành chính công bao gồm những nội
dung sau:
- Hành chính Nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp, là
hành pháp hành động, là hoạt động tổ chức đưa chính sách, pháp luật vào
cuộc sống. Quyền hành pháp bao gồm quyền lập quy và quyền hành chính.
+ Quyền lập quy là quyền ban hành các văn bản pháp quy dưới luật
để chi tiết hoá các văn bản luật và thực thi luật. Đó là quyền ban hành các
văn bản: Nghị định (Chính phủ ), quyết định (Thủ tướng Chính phủ, Chủ
tịch UBND), …
+ Quyền hành chính là quyền tiến hành tổ chức triển khai, điều hành,
quản lý, đưa các chính sách pháp luật vào cuộc sống thông qua đội ngũ cán
bộ công chức, tổ chức bộ máy, nguồn lực tài chính công.
- Hành chính Nhà nước là sự tác động có tổ chức mang tính hệ thống
(thông qua hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước) để đạt được mục
tiêu quản lý bằng việc tuân thủ những nguyên tắc, quy trình thủ tục, phạm
vi, chức năng, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
- Hành chính Nhà nước hoạt động trên cơ sở sử dụng quyền lực công,
quyền lực Nhà nước. Quyền lực này được nhân dân trao cho và luật hoá
trong các văn bản quy phạm pháp luật. Quyền lực công mang tính đơn


phương và tổ chức cao. Các cơ quan hành chính Nhà nước chỉ được làm
những gì mà pháp luật cho phép. Không một cơ quan, tổ chức hành chính
Nhà nước, cán bộ, công chức được đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp
luật, mà phải nghiêm chỉnh thực hiện theo quy định của pháp luật.
1
- Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động trung tâm của
hoạt động quản lý Nhà nước, là yếu tố động nhất của hoạt động quản lý
Nhà nước, mang tính thực tiễn cao. Hoạt động quản lý hành chính Nhà
nước mang tính chấp hành và điều hành. Hành chính Nhà nước đảm nhiệm
các công việc mang tính sự vụ hàng ngày, cho đến những công việc phức
tạp, giúp cho các nhà quản lý chỉ đạo, điều hành công việc. Ví dụ, đánh
văn bản, lưu văn bản, ra các chính sách, tổ chức thực hiện chính sách,…
- Chủ thể thực hiện hoạt động quản lý hành chính Nhà nước là hệ
thống các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở,
đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước.
Các yếu tố cấu thành nền hành chính quốc gia bao gồm có 04 yếu tố
sau:
Một là, hệ thống tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước bao gồm các
cơ quan hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
Hai là, Thể chế hành chính Nhà nước, hệ thống thể chế quản lý xã
hội theo pháp luật: Hiến pháp, luật, pháp lệnh, hệ thống các văn bản quy
phạm pháp quy.
Ba là, Đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước - những người tổ chức
thực thi quyền hành pháp, thực thi công vụ.
Bốn là, Hệ thống nguồn lực tài chính công, tài chính, ngân sách, kế
toán, kiểm toán và quản lý tài sản để duy trì hoạt động bộ máy hành chính
Nhà nước và thực các mục tiêu, chiến lược quốc gia.
Đặc điểm của hành chính nhà nước:
3.1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
Hành chính và chính trị luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau.

Không thể có hành chính và chính trị tách rời nhau. Chính trị liên quan đến
vấn đề giai cấp, giành và giữ quyền lực Nhà nước, thực hiện mục tiêu
chính trị. Hành chính là cụ thể hoá quyền lực chính trị, biến mục tiêu chính
trị thành hiện thực. Chính trị liên quan đến vấn đề phân chia lợi ích cho
các nhóm lợi ích, còn hành chính tạo ra và cung cấp sản phẩm cho các
nhóm lợi ích đó. Do đó, hành chính luôn luôn lệ thuộc vào chính trị và hệ
thống chính trị.
Nếu như quyền lực Nhà nước là trung tâm của quyền lực chính trị thì
nền hành chính quốc gia là trung tâm thực thi quyền lực Nhà nước. Nền
hành chính Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan hành chính Nhà
nước với chức năng, nhiệm vụ bằng những kỹ năng và phương pháp quản
2
lý cụ thể biến mục tiêu chính trị thành sản phẩm cụ thể. Khi mục tiêu
chính trị thay đổi thì hệ thống hành chính quốc gia cũng phải có sự điều
chỉnh tương thích. Nền hành chính Nhà nước lệ thuộc vào chính trị và thể
hiện bản chất Nhà nước. Nó vừa thực hiện chức năng bảo vệ lợi ích giai
cấp vừa thực hiện chức năng duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Vì vậy, bất kỳ nền hành chính quốc gia nào cũng phục vụ mục tiêu
chính trị và thực hiện nhiệm vụ chính trị, biến lợi ích chính trị của Đảng
cầm quyền thành hiện thực. Tính lệ thuộc đó ở từng quốc gia, vùng lãnh
thổ là khác nhau tuỳ thuộc vào yếu tố lịch sử, văn hoá, tương quan giai
cấp, tầng lớp trong xã hội.
Ở Việt Nam, nền hành chính Nhà nước là yếu tố quan trọng cấu
thành nên hệ thống chính trị theo nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ. Nền hành chính Việt Nam phục vụ cho lợi ích
của nhân dân, dân tộc Việt Nam.
Hành chính Nhà nước lệ thuộc vào chính trị nhưng nó có tính độc lập
tương đối. Hành chính Nhà nước độc lập tương đối với chính trị về các
biện pháp tác nghiệp hành chính, các quy luật quản lý, biện pháp và kỹ
thuật tổ chức thực hiện.

3.2. Tính pháp quyền
Hành chính Nhà nước sử dụng quyền lực công để thực hiện chức năng
quản lý. Quyền lực công này không phải tự các cơ quan hành chính Nhà
nước có quyền trao cho mình. Quyền lực công được cụ thể trong Hiến pháp,
luật, các văn bản pháp quy của Nhà nước. Tất cả các cơ quan hành chính
Nhà nước chỉ được phép hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, thẩm quyền đã được luật hoá. Không một chủ thể hành chính
Nhà nước nào được đứng trên pháp luật và đứng ngoài pháp luật.
Mặt khác, với tư cách là công cụ quyền lực công, hành chính Nhà
nước mang tính đơn phương, cưỡng chế, bắt buộc thi hành. Có như vậy, sự
vận hành nền hành chính Nhà nước mới mang tính hệ thống, kỷ luật, kỷ
cương. Do đó, nền hành chính Nhà nước mang tính pháp quyền.
Nền hành chính Nhà nước mang tính pháp quyền đặt ra yêu cầu:
- Trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước pháp luật phải được
tôn trọng tối cao. Mọi hoạt động chấp hành và điều hành chỉ được diễn ra
trong khuôn khổ của pháp luật. Cơ quan, bộ máy hành chính Nhà nước,
cán bộ, công chức hành chính và người dân tôn trọng pháp luật, hành động
theo pháp luật.
3
- Thẩm quyền, địa vị pháp lý của cơ quan hành chính Nhà nước được
quy định cụ thể, có sự phân công, phân cấp rành mạch tránh tình trạng
chồng chéo, trùng lắp chức năng nhiệm vụ quyền hạn giữa các cơ quan.
Các cơ quan hành chính Nhà nước chỉ được phép làm những gì mà pháp
luật cho phép. Cơ quan hành chính Nhà nước không được lạm quyền, sử
dụng quyền không đúng với quy định đặt ra.
- Nền hành chính Nhà nước có tính pháp quyền cũng đặt ra yêu cầu
các cơ quan hành chính Nhà nước, cán bộ, công chức hành chính phải bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
Xây dựng nền hành chính Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có các

điều kiện bảo đảm thực thi pháp luật. Các điều kiện bảo đảm thực thi gồm:
tài chính, chế tài, cơ chế giám sát, đánh giá, … Hệ thống pháp luật hành
chính hoàn thiện đi kèm với các điều kiện bảo đảm thực thi sẽ tăng tính
trách nhiệm trong thi hành công vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
Nhà nước.
3.3. Tính liên tục, tương đối ổn định và thích ứng
Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước là công việc mang tính
thường xuyên và liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu của công dân và toàn xã
hội, phục vụ cho lợi ích công. Vì các mối quan hệ xã hội, hành vi xã hội,
các quá trình xã hội được pháp luật hành chính điều chỉnh diễn ra hàng
ngày, hàng giờ, thường xuyên và không ngừng vận động. Từ những công
việc đơn giản nhất: đánh văn bản, đóng dấu chứng thực cho đến tổ chức
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.
Bởi vậy, cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính Nhà
nước cũng như hoạt động của nó phải liên tục, thường xuyên để bảo đảm
các quá trình xã hội, sự phát triển xã hội không bị gián đoạn, ngưng trệ
trong bất kỳ tình huống nào.
Tính liên tục đặt ra yêu cầu các cơ quan Nhà nước phải luôn xây
dựng được đội ngũ nhân sự có đủ năng lực và trình độ bảo đảm tính kế
cận, kế thừa và phát triển. Để tránh gây ra sự sáo trộn, đột biến trong cơ
cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự. Do đó, nó mang tính ổn định tương đối.
Các cán bộ dân cử, người đứng đầu đảng chính trị có thể hoạt động
theo nhiệm kỳ nhưng các công việc hành chính vẫn hàng ngày, hàng giờ
diễn ra. Bởi vậy mới có hiện tượng “chính trị ra đi, hành chính ở lại”.
Nhà nước là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Xã hội ngày càng
phát triển, các mối quan hệ xã hội, nhu cầu của con người ngày càng
4
phong phú và đa dạng. Nền hành chính Nhà nước muốn đáp ứng và phục
vụ tốt hơn nhu cầu của xã hội và con người thì cũng phải thay đổi phù hợp
với sự phát triển ấy. Khi nền hành chính Nhà nước thích nghi với nhu cầu

của xã hội sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Yêu cầu này
đặt ra cho nền hành chính Nhà nước của mọi quốc gia phải luôn đổi mới,
cải cách thường xuyên.
3.4. Tính chuyên môn hoá, kỹ năng hành chính và nghề nghiệp
cao
Hoạt động quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động mang tính đa
dạng, phức tạp. Nghiệp vụ, kỹ năng quản lý Nhà nước đòi hỏi phải thực sự
khoa học, văn minh hiện đại. Mặt khác, quản lý Nhà nước bao trùm trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi một lĩnh vực đặt ra yêu cầu về kỹ
năng, phương pháp quản lý nhất định. Nó đặt ra yêu cầu người làm công
tác quản lý hành chính trên lĩnh vực đó phải năm vững được chuyên môn
sâu, năng lực thực thi và óc tổ chức khoa học.
Vì vậy, tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao là yêu cầu bắt buộc
đối với hoạt động quản lý Nhà nước, là điều kiện để xây dựng nền hành
chính Nhà nước khoa học, hiện đại.
Cán bộ, công chức làm công tác quản lý hành chính Nhà nước không
những phải bảo đảm yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải tự
trang bị cho mình khối lượng kiến thức xã hội phong phú. Có như vậy, khi
thi hành công vụ mới đạt hiệu quả cao. Do quản lý Nhà nước là hoạt động
phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề: con người, tổ chức,…
Yêu cầu này đặt ra nhiệm vụ phải từng bước hiện đại hoá nền hành
chính Nhà nước và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính Nhà nước. Cán bộ, công chức Nhà nước phải là người “vừa hồng,
vừa chuyên” được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, có năng lực, trình độ và
phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức công vụ trong sáng.
3.5. Tính thứ bậc chặt chẽ
Công tác quản lý hành chính Nhà nước được thực hiện thông qua
một hệ thống các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước từ trung ương đến
cơ sở. Mỗi cơ quan hành chính Nhà nước là một mắt khâu, một bộ phận
trong hệ thống đảm nhiệm một chức năng, nhiệm vụ nhất định. Hệ thống

hành chính Nhà nước phải được vận hành một cách thống nhất và thông
suốt từ trên xuống dưới, từ trung ương đến cơ sở. Nó đòi hỏi cơ quan hành
chính Nhà nước phải có tính hệ thống chặt chẽ và phân định rõ thứ bậc cấp
trên, cấp dưới, mối quan hệ giữa các cơ quan đồng cấp với nhau.
5
Tính thứ bậc chặt chẽ thể hiện ở việc yêu cầu tuân thủ triệt để nguyên
tắc cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương chịu sự giám sát, điều hành
của trung ương. Bên cạnh đó, cũng đặt ra yêu cầu xác định rõ địa vị pháp
lý của mỗi cơ quan, cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan hành
chính.
Tuy nhiên, tính thứ bậc chặt chẽ không làm quan liêu hoá, cứng nhắc
bộ máy hành chính, nó phải đặt trong tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt
mới có thể đem lại hiệu quả trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước.
Muốn vậy, phải quy chế hoá rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng
cơ quan trong bộ máy Nhà nước; đơn giản hoá các thủ tục hành chính
trong thi hành công vụ, nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu.
Khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quy định thẩm quyền của
cơ quan hành chính Nhà nước phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, quyền hạn
và trách nhiệm, đồng thời đi kèm với các điều kiện thực hiện quy định đó.
3.6. Tính không vụ lợi
Khác với các tổ chức khác, các cơ quan Nhà nước nói chung, cơ
quan hành chính Nhà nước nói riêng hoạt động vì lợi ích công cộng, vì lợi
ích xã hội. Hoạt động quản lý Nhà nước là hoạt động không vụ lợi. Các
sản phẩm và lợi ích mà nó tạo ra không phục vụ cho lợi ích tự thân. Hoạt
động quản lý hành chính Nhà nước tạo ra sản phẩm và dịch vụ phục vụ
cho lợi ích của công sân và toàn xã hội, duy trì trật tự an ninh, an toàn xã
hội.
Tính không vụ lợi đòi hỏi trong hoạt động quản lý hành chính, các cơ
quan hành chính Nhà nước; cán bộ, công chức hành chính phải hoàn toàn
công tâm, khách quan, công khai, minh bạch, không theo đuổi mục tiêu lợi

nhuận không đòi hỏi người được hưởng sự phục vụ phải trả thù lao. Cán
bộ, công chức hành chính Nhà nước khi sử dụng công quỹ Nhà nước tuân
thủ theo đúng nguyên tắc thu chi tài chính, thực hiện chi đúng, chi đủ, chi
hiệu quả. Đặc điểm này chỉ rõ tính khác biệt đặc thù giữa tổ chức hành
chính Nhà nước với các tổ chức doanh nghiệp, tổ chức xã hội.
Tính không vụ lợi, hoạt động vì lợi ích xã hội cũng đòi hỏi các cơ
quan hành chính Nhà nước khi xem xét, giải quyết các vấn đề, nhất là các
vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia và toàn xã hội phải đặt lợi ích của
nhân dân, lợi ích của xã hội lên trên hết. Nó đòi hỏi các cơ quan quản lý
hành chính Nhà nước khi ra các quyết sách phải có sự cân nhắc, tính toán
kỹ lưỡng các phương án, các tác động mà khi triển khai thực hiện có thể
phát sinh để có thể đưa ra phương án hợp lý nhất đem lại hiệu quả cao,
6
thiết thực về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường, an ninh quốc gia. (Ví dụ,
như xây dựng nhà máy Dung Quất tại sao lại đặt ở Quảng Ngãi, ).
Trong khi sử dụng ngân sách Nhà nước để hoạt động, cơ quan hành
chính Nhà nước, cán bộ, công chức phải sử dụng tiết kiệm, hợp lý theo
định mức quy định. Các hoạt động thu, chi ngân sách phải thực hiện theo
quy trình, thủ tục luật định. Tuyệt đối không được có tư tưởng “tiền chùa”,
“đất công”, “ tiền công”.
3.7. Tính nhân đạo
Hoạt động quản lý Nhà nước suy cho cùng là phục vụ cho lợi ích của
con người, của từng cá nhân trong xã hội. Tăng trưởng kinh tế, thu nhập
quốc dân cao cũng nhằm mục đích đáp ứng tốt hơn nhu cầu vật chất và
tinh thần ngày càng cao của nhân dân.
Hơn nữa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Bởi vậy, nền hành chính Nhà nước
Việt Nam thể hiện tính nhân đạo. Đó cũng là một nội dung quan trọng
trong định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nền hành chính Nhà nước có tính nhân đạo là nền hành chính tôn

trọng con người, phục vụ con người và lấy mục tiêu phát triển con người là
thước đo trình độ quản lý. Hệ thống pháp luật, quy trình thủ tục, mục tiêu,
biện pháp thực hiện của các cơ quan hành chính Nhà nước phải xuất phát
từ lợi ích của nhân dân. Quản lý hành chính Nhà nước không phải là để
“cai trị ” dân mà là “dưỡng dân ”, “an dân”, “vi dân”. Nền hành chính Nhà
nước phải đơn giản hoá các quy trình thủ tục, tránh gây phiền hà, nhũng
nhiễu, quan liêu, cửa quyền, hách dịch đối với nhân dân, tạo điều kiện cho
nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách nhanh chóng,
tiết kiệm và hiệu quả.
Tính nhân đạo yêu cầu các cơ quan hành chính Nhà nước, cán bộ,
công chức Nhà nước phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe và tôn
trọng ý kiến của nhân dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực
hiện nghiêm túc: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Tính nhân đạo không có nghĩa là các cơ quan Nhà nước không được
dùng các biện pháp cưỡng chế trong hoạt động quản lý. Thực hiện biện
pháp cưỡng chế là hành động cần thiết để xử lý và ngăn chặn các hành vi
vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.
Thực hiện tính nhân đạo trong nền hành chính Nhà nước yêu cầu mọi
công dân phải được đối xử bình đẳng trước pháp luật. Các cơ quan quản lý
hành chính tạo điều kiện cho người dân có cơ hội tiếp cận các dịch vụ, đáp
7
ứng các lợi ích hợp pháp phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của người dân.
Các cơ quan hành chính Nhà nước luôn quan tâm, chăm lo thực thi các
chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với các đối tượng thiệt thòi trong
xã hội.
Vấn đề 2: Các chức năng của hành chính nhà nước
Chức năng được hiểu là những phương diện, mặt hoạt động của một
vật, một bộ phận, một thực thể nào đó. Ví dụ, chức năng của gan là tiết ra
mật.
Chức năng của một cơ quan tổ chức được hiểu là những công việc,

nhiệm vụ phải làm của cơ quan tổ chức đó. Mỗi một tổ chức được thành
lập đều được xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ riêng.
Trong bộ máy Nhà nước, mỗi cơ quan sẽ thực thi những chức năng,
nhiệm vụ nhất định. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất sẽ
thực thi quyền lập pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và
là cơ quan hành chính nhà nươc cao nhất thực thi quyền hành pháp. Tòa án
và Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền tư pháp.
Hệ thống cơ quan hành pháp là những cơ quan chịu trách nhiệm thực
hiện chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Cơ quan ấy được gọi
là cơ quan chấp hành, cơ quan thực thi quyền hành pháp, cơ quan hành
chính Nhà nước.
Chức năng hành chính Nhà nước là những phương diện, mặt hoạt
động của nền hành chính Nhà nước, là hoạt động hành chính được tách ra
trong quá trình phân công lao động quyền lực và chuyên môn hóa lao động
của các cơ quan hành chính Nhà nước được thực thi trong từng thời kỳ
nhất định. Thông qua các chức năng hành chính phản ánh vị trí, vai trò
hoạt động của các cơ quan thực thi quyền hành pháp đối với đời sống xã
hội.
Mỗi một chức năng hành chính Nhà nước là tổng thể các hoạt động,
tác động cùng loại nhất định của các cơ quan hành chính lên các đối tượng
quản lý nhằm giải quyết có hiệu lực, hiệu quả những mục tiêu, nhiệm vụ
đã đề ra. Các hoạt động cùng loại được nhóm vào với nhau để hình thành
lên các đơn vị theo chức năng. Ở Việt Nam, gọi tắc là “cơ quan chức
năng”.
Ở đây, cần phân biệt giữa chức năng hành chính Nhà nước tổng quát
với chức năng hành chính Nhà nước cụ thể của từng cơ quan hành chính
Nhà nước riêng biệt. Bởi vì, mỗi một cơ quan hành chính Nhà nước trong
phạm vi không gian, thời gian, đối tượng có thể thực hiện nhiều hay ít các
8
chức năng khác nhau của chức năng hành chính Nhà nước. Trong đó, chức

năng hành chính của Chính phủ luôn phản ánh phương hướng cơ bản, chủ
đạo về hoạt động và tính chất hành chính Nhà nước.
Việc nghiên cứu chức năng hành chính Nhà nước không chỉ có ý nghĩa về
mặt khoa học quản lý mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất cao. Nghiên cứu
chức năng hành chính Nhà nước có những lợi ích sau:
Thứ nhất: Chức năng hành chính Nhà nước thể hiện một cách rõ
nhất nội dung hành chính Nhà nước. Không làm rõ chức năng hành chính
Nhà nước không thể hình dung được các quá trình hành chính, cấp độ các
thể chế hành chính, thủ tục hành chính theo các khâu, các cấp hành chính,
cũng như các hoạt động chi tiết cụ thể của quá trình ấy trong một hệ thống
nhất định. Coi hành chính là sự tập hợp những chức năng hành chính đã
cho phép các công chức lãnh đạo quyết định thành công nhiều vấn đề
trong thực tiễn.
Thứ hai: Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện các chức năng hành
chính Nhà nước là một tiến trình lịch sử, một quá trình khách quan. Do đó,
gắn liền với từng giai đoạn lịch sử nhất định, trên cơ sở chức năng hành
chính Nhà nước sẽ làm căn cứ để thiết kế, thiết lập, phân tích các cơ quan
hành chính Nhà nước, xác lập địa vị pháp lý của các chủ thể hành chính.
Thứ ba, Trên cơ sở chức năng hành chính Nhà nước sẽ được cụ thể
hóa cho các khâu, các cấp, các nhiệm vụ, các chức năng hành chính, xây
dựng quy chế tổ chức, điều hành hoạt động, thực thi nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, Phân định rõ chức năng hành chính Nhà nước là cơ sở để
xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước, thực hiện thành công cải cách
hành chính, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả.
Có nhiều cách phân loại chức năng hành chính nhà nước khác nhau.
Nếu phân theo phạm vi tác động có thể chia ra chức năng bên trong và
chức năng bên ngoài.
Chức năng bên trong của hành chính Nhà nước hay còn gọi là
chức năng vận hành nền hành chính nhà nước. Xem xét chức năng hành

chính Nhà nước khi vận hành vào một cơ quan hành chính công quyền nào
đó thường là sự chi tiết hóa các chức năng hành chính thành những hoạt
động hành chính thường xuyên ổn định.
Nghiên cứu chức năng bên trong của nền hành chính Nhà nước là
một trong những chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu hành chính quan tâm.
Nghiên cứu chức năng bên trong có tác dụng phục vụ trực tiếp cho công
9
tác quản lý hành chính Nhà nước tại từng cơ quan hành chính. Chức năng
bên trong gồm có:
1.Chức năng quy hoạch, kế hoạch: là chức năng dựa trên cơ sở
cương lĩnh, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đã được hoạch định trong
đường lối của Đảng và được nhất trí thông qua. Chính phủ, Bộ, chính
quyền địa phương các cấp phải xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch,
kế hoạch phát triển ngành, địa phương trong từng giai đoạn cụ thể.
Đây là chức năng hàng đầu trong tiến trình hành chính Nhà nước, vì
xét theo góc độ vận hành, nó có những nội dung dưới đây:
- Xác lập hệ thống mục tiêu; xác định tốc độ phát triển; cơ cấu và cân
đối lớn; các chính sách, giải pháp để dẫn dắt đất nước phát triển theo định
hướng kế hoạch.
- Tiến hành dự báo, dự toán; mô hình hóa, xây dựng chiến lược; quy
hoạch phát triển; lập các chương trình, dự án cho từng ngành, từng vùng,
từng lĩnh vực, kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm.
- Việc quy hoạch và kế hoạch phải bao quát các ngành, các vùng, các
lĩnh vực và các thành phần kinh tế phù hợp với cơ cấu và cơ chế quản lý
kinh tế mới ở nước ta, công khai hóa chiến lược, quy hoạch phát triển, kế
hoạch (trừ những vấn đề thuộc bí mật Nhà nước).
2.Chức năng tổ chức bộ máy hành chính là việc thiết lập và tạo
dựng một bộ máy vận hành hoạt động, thực thi chức năng, nhiệm vụ được
giao. Đó là việc thiết lập các bộ phận, định việc cho từng bộ phận, thiết lập
các mối quan hệ dọc, ngang; quản lý chặt chẽ cường độ, năng suất hoạt

động của bộ máy, quản lý sự thay đổi của tổ chức.
Chức năng này, gồm các nội dung cơ bản sau:
- Xây dựng bộ máy,
- Chỉ đạo sự vận hành của bộ máy,
- Hiệp đồng bên trong và bên ngoài khi triển khai nhiệm vụ,
- Liên kết công việc, liên kết tổ chức và con người.
3.Chức năng sắp xếp, bố trí, phát triển, quản lý nguồn nhân lực là
sắp sếp cán bộ, công chức theo tiêu chuẩn chức danh; tiêu chuẩn hóa đội
ngũ công chức hành chính, tổ chức hệ thống công việc theo số lượng định
biên thích hợp.
Ý nghĩa chức năng này từ xưa đến nay đã quan trọng và từ nay về
sau càng quan trọng hơn khi nhân tố con người được xác định là trung tâm
10
của mọi nguồn lực. Do đó, việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, sử dụng
và bồi dưỡng nhân tài là quốc sách hàng đầu, là nguyên nhân, cội nguồn
của sự hưng thịnh quốc gia. Quản lý con người và tối ưu nguồn nhân lực
đòi hỏi nhiều hoạt động hành chính cụ thể.
4.Chức năng ra các quyết định hành chính là tập hợp đầy đủ các
thông tin; xử lý thông tin; đề ra các phương án khác nhau; thẩm định hiệu
quả từng phương án; ban hành quyết định quản lý hành chính Nhà nước.
Xét cho cùng, thì quyết định là sản phẩm, là hành vi quan trọng nhất của
công chức lãnh đạo, quản lý. Đó là sự lựa chọn tiên quyết để sẵn sàng thực
hiện các mục tiêu đã đề ra. Những vấn đề về phương pháp ra quyết định, tổ
chức thực hiện quyết định luôn luôn là đối tượng quan tâm của các nhà
hành chính.
5.Chức năng điều hành, hướng dẫn thi hành là xây dựng các chỉ
dẫn cụ thể để thực hiện các quyết định của cấp trên, bên ngoài và trong nội
bộ cơ quan, đặc biệt là kế hoạch chi tiết cho từng hoạt động, tiến độ thực
hiện; chỉ dẫn các quy định, hiệu quả và chất lượng hoạt động.
6. Chức năng phối hợp là sự chỉ đạo dọc, sự đồng bộ hoạt động theo

cấp hành chính về thời gian; phối hợp ngang giữa các đơn vị khác nhau;
xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả.
7. Chức năng tài chính là xây dựng ngân sách, chú trọng nuôi
dưỡng và khai thác nguồn thu, nhất là thu thuế; sử dụng hiệu quả, tiết kiệm
ngân sách được cấp đúng chế độ, đúng chủ trương phân cấp; quản lý chặt
chẽ công sản bao gồm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và những vật
tư cần thiết khác.
8. Chức năng theo dõi, giám sát, kiểm tra, nhằm làm sáng tỏ những
kết quả đạt được; dự đoán chiều hướng hoạt động của từng bộ phận và
toàn hệ thống; phát hiện những sai sót, vướng mắc, khó khăn trong quá
trình thực hiện những hoạt động hành chính. Chức năng này gắn liền nghĩa
vụ, trách nhiệm cá nhân và tổ chức, là cơ sở đánh giá thực thi và điều
chỉnh hoạt động công vụ.
Lãnh đạo, quản lý mà không theo dõi, giám sát, kiểm tra thì coi như
không có lãnh đạo và quản lý. Do đó, để thực hiện tốt chức năng này đòi
hỏi phải thiết lập một hệ thống kiểm tra có đủ thẩm quyền, công việc theo
dõi, giám sát, kiểm tra có tính toàn diện, liên tục, thuyết phục, công khai
và quần chúng, là một biện pháp quan trọng phản ánh trung thực hiện
trạng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hành chính Nhà nước.
11
9. Chức năng báo cáo, sơ kết, tổng kết, đánh giá là thiết lập các báo
cáo định kỳ (hàng tháng, 6 tháng, hàng năm) và báo cáo tổng kết dài hạn
(2 năm, 5 năm, 10 năm). Trong các bản báo báo này cần đánh giá việc thực
hiện mục tiêu, số lượng, chất lượng, hiệu quả thực hiện công vụ. Chức
năng này đóng vai trò quan trọng, giúp người lãnh đạo thẩm định những
việc đã làm được, những việc chưa làm được, làm cho phong phú thêm
tính lý luận và thực tiễn hành chính, từ đó định ra phương hướng, giải
pháp cho những năm tiếp theo.
Chức năng bên ngoài của hành chính chính là sự tác động, là
những hoạt động của hành chính nhà nước tác động lên tới các đối tượng

chịu sự điều chỉnh, tác động của hành chính nhà nước. Nó có thể được chia
gồm những chức năng sau;
1. Chức năng hành chính đối với dân
- Các cơ quan hành chính Nhà nước thực thi các chính sách an dân,
dưỡng dân, khơi dậy và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tính năng
động, sáng tạo của mỗi cá nhân trong xã hội. Nhà nước tạo mọi điều kiện
để công dân phát huy hết năng lực của mình đồng thời bảo đảm các điều
kiện để công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Thực hiện chức năng hành chính đối với dân, cơ quan hành chính
Nhà nước còn trao quyền để nhân dân trực tiếp tham gia các dịch vụ hành
chính công nhất định như: bảo vệ môi trường, công chức,… Bên cạnh đó,
Nhà nước khuyến khích nhân dân trực tiếp tham gia quản lý tại nơi cư trú
bằng các hình thức tự quản, các làng, xã xây dựng hương ước, quy ước để
quản lý.
- Nhà nước tạo ra các dịch vụ đáp ứng nhu cầu giải trí và hưởng thụ
của nhân dân, nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của
người dân. Ví dụ, xây công viên, nhà hát, trường học, bệnh viện,…
Cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện các chính sách an sinh xã
hội, trợ giúp các đối tượng khó khăn, khiếm khuyết trong xã hội: người
nghèo, trẻ em, người khuyết tật, người già cô đơn, không nơi nương tựa,…
Thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, chiến lược phát triển con
người.
2. Chức năng hành chính Nhà nước đối với nền kinh tế
Quản lý và điều hành nền kinh tế là một chức năng không thể thiếu
của hành chính Nhà nước. Ngày nay, khi Đảng và Nhà nước ta xác định
nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lại
càng đòi hỏi cơ quan hành chính Nhà nước phải không ngừng đổi mới và
12
cải cách để thực thiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế. Nội dung
chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế gồm có:

- Định hướng phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời nền
kinh tế thị trường với vai trò là “bà đỡ ” cho sự phát triển và tăng trưởng
kinh tế. Nhà nước bằng việc tạo lập hành lang pháp lý thông thoáng, xây
dựng các chương trình, kế hoạch, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội để thu hút, điều hành cho mọi thành phần kinh tế phát triển theo
mục tiêu định sẵn.
- Tạo lập môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế thị trường
đúng hướng, lành mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo
đảm mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật đồng thời khuyến
khích các thành phần kinh tế phát huy vai trò, thế mạnh của mình, giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế quốc dân.
- Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế, các cá nhân tham
gia sản xuất kinh doanh vào những lĩnh vực nhất định phục vụ những mục
tiêu quốc gia. Như xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng sâu, vùng xa, đầu tư
cho miền núi, hải đảo,… bằng các chính sách kinh tế, đòn bẩy kinh tế.
- Nhà nước thông qua các tập đoàn kinh tế Nhà nước, các tổng công
ty Nhà nước tiến hành đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực theo chốt
ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia, an toàn xã hội. Xây dựng thành
phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
- Nhà nước điều tiết kinh tế, phân phối và phân phối lại thu nhập
quốc dân, điều hòa lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể và xã hội; bảo
đảm công bằng xã hội.
- Khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, thực hiện chức năng hành chính
Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ
tiến hành các biện pháp ngăn ngừa, trừng phạt và khắc phục hậu quả do
các hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể trong nền kinh tế gây ra.
- Nhà nước sở hữu, quản lý, sử dụng hợp lý tài sản quốc gia: đất đai,
tài nguyên thiên nhiên, đường dây 500 KV, …
- Chức năng hành chính Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân còn

là việc giao lưu hội nhập kinh tế quốc tê, tiến hành các hoạt động pháp lý,
xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
tìm đầu ra cho các sản phẩm của nền kinh tế quốc dân; bảo vệ chủ quyền
và lợi ích kinh tế của quốc gia.
3. Chức năng hành chính đối với xã hội
13
Hành chính Nhà nước không chỉ bảo vệ lợi ích và thực hiện chức
năng giai cấp của Nhà nước mà còn phải thực hiện chức năng xã hội, giữ
gìn sự ổn định và phát triển của xã hội.
Thực hiện chức năng đối với xã hội, hành chính Nhà nước tiến hành
các nội dung sau:
- Xây dựng hành lang pháp lý để xã hội vận hành trong khuôn khổ
theo mục tiêu định sẵn. Duy trì trật tự xã hội theo mong muốn, ước nguyện
của nhân dân.
- Bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, cuộc sống bình
yên cho nhân dân; nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm
an toàn tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân.
- Hành chính Nhà nước thực hiện và bảo đảm công bằng, tiến bộ xã
hội, hỗ trợ và tạo điều kiện cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng, địa
phương trong cả nước.
- Kiên quyết đấu tranh, phòng ngừa và ngăn chặn các tai, tệ nạn xã
hội; phòng chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả; tạo sự đồng thuận
trong xã hội, củng cố, lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý Nhà nước.
- Xây dựng các dịch vụ công ích;
- Giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường, bảo vệ môi trường sinh
thái;
- Kiểm soát các vấn đề dân số, kế hoạch hóa gia đình; văn hóa, y tế,
giáo dục;
- Xây dựng và hoàn thiện chế định pháp luật về bảo hiểm xã hội, hệ

thống an sinh xã hội, vấn đề thuế thu nhập quốc dân,…
- Tổ chức các phong trào quần chúng, thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở,…
4. Chức năng hành chính đối với bên ngoài
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, không một
quốc gia nào có thể đứng ngoài quy luật chung, xu thế chung là hòa bình,
hợp tác và cùng phát triển. Do đó, quốc gia nào cũng phải tăng cường hợp
tác quốc tế, mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, từng
bước khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sẽ liên quan đến nhiều vấn đề:
lợi ích quốc gia, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh văn hóa,
14
chính trị,… Những vấn đề đó thuộc chức năng quản lý của nền hành chính
Nhà nước. Chính phủ phải đảm nhiệm việc bảo vệ an ninh quốc gia, chống
ngoại xâm và nâng tầm ảnh hưởng của quốc gia trong sân chơi quốc tế.
- Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa kinh tế diễn ra ngày càng nhanh,
chủ quyền quốc gia đứng trước nhiều thách thức, các thế lực phản động
quốc tế, các chùm khủng bố thường xuyên dùng mọi thủ đoạn không
ngừng chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Chính phủ, các cơ quan
hành chính Nhà nước phải áp dụng các phương thức mới, biện pháp mới
và linh hoạt trong các tình huống xử lý để thực hiện tốt chức năng hành
chính bên ngoài.
Vấn đề 3: Thể chế hành chính nhà nước và vai trò của thể chế
hành chính nhà nước:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thể chế. Cách hiểu chung nhất
đó là, Thể chế là hệ thống các quy tắc, quy chế được sử dụng để điều
chỉnh sự vận hành của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
Trong tổ chức Nhà nước, việc phân chia hoặc phân công thực thi các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tạo ra hệ thống các cơ quan thực thi
các quyền đó. Để thực thi quyền hành pháp, cần phải có hệ thống các cơ

quan hành chính Nhà nước và những quy tắc, quy chế vận hành hoạt động
của các cơ quan này tạo thành thể chế hành chính Nhà nước. Là một bộ
phận cấu thành nên bộ máy Nhà nước, do đó thể chế Nhà nước bao trùm
lên thể chế hành chính Nhà nước. Thể chế hành chính Nhà nước là một
thành tố quan trọng cấu thành của thể chế Nhà nước.
Hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước trực tiếp tổ chức và thực thi
quyền hành pháp, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng
và triển khai thực hiện quỳên lực của nhân dân. Các cơ quan hành chính
Nhà nước luôn là bộ phận lớn nhất cấu thành nên bộ máy Nhà nước. Cơ
quan hành chính Nhà nước là các tổ chức nắm thực quyền. Hệ thống này
trực tiếp thi hành quyền lực Nhà nước, biến các mục tiêu, chương trình
quốc gia thành hiện thực. Vì vậy, hoạt động của nó đòi hỏi phải có những
quy định chặt chẽ về mặt pháp lý. Không có những chế định pháp lý rõ ràng
quy định về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, nội dung hoạt động của cơ quan
hành chính Nhà nước, nền hành chính Nhà nước khó mà thực hiện hiệu quả
quyền hành pháp để duy trì sự ổn định và phát triển xã hội theo mục tiêu
định ra. Bởi vậy, gắn với hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước là một
thể chế được cấu thành từ những yếu tố nhằm bảo đảm thực thi các hoạt
động hành chính Nhà nước một cách thống nhất.
15
Từ những nhận định trên, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về
thể chế hành chính Nhà nước như sau: Thể chế hành chính Nhà nước là
bộ hệ thống các quy định, quy tắc do nhà nước ban hành tạo thành
khuôn khổ pháp lý cho các cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để hiểu rõ định nghĩa thể chế hành chính Nhà nước, cần xem xét các
yếu tố cấu thành thể chế hành chính Nhà nước gồm có:
- Hệ thống các quy định của Nhà nước điều chỉnh sự phát triển kinh
tế - xã hội trên mọi lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,… Hay còn
gọi là thể chế quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực.

- Hệ thống các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của
các cơ quan thuộc bộ máy hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Đó là các văn bản như: Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức HĐND và
UBND,…
- Hệ thống quy định chế độ công vụ, công chức. Ví dụ Luật Cán bộ,
công chức,…
- Hệ thống các chế định về tài phán hành chính nhằm giải quyết
những tranh chấp giữa công dân với nền hành chính thông qua khiếu nại,
khiếu kiện về vi phạm pháp luật của các cơ quan quản lý hành chính, cán
bộ, công chức. Ví dụ, Luật Khiếu nại, tố cáo; Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính,…
- Hệ thống các thủ tục hành chính nhằm giải quyết các quan hệ giữa
Nhà nước với công dân, tổ chức xã hội.
Thể chế hành chính nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong
hoạt động quản lý HCNN. Vai trò của nó thể hiện trên các mặt sau:
1. Thể chế hành chính Nhà nước là cơ sở pháp lý của quản lý
hành chính Nhà nước
Cơ quan hành chính Nhà nước được lập ra để thực hiện chức năng
quản lý hành chính Nhà nước. Thể chế hành chính Nhà nước với một hệ
thống pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành là cơ sở
pháp lý cho các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp thực hiện quản lý
mọi mặt của đời sống xã hội. Hoạt động quản lý xã hội là một hoạt động
phức tạp, một mặt vừa phải đáp ứng nhu cầu xã hội, một mặt phải được
tiến hành trên cơ sở pháp luật. Do đó, hệ thống cơ quan hành chính Nhà
nước muốn hoạt động được, muốn quản lý được phải dựa trên cơ sở hệ
thống văn bản quy định địa vị pháp lý, thẩm quyền của các cơ quan đó và
các văn bản có liên quan.
16
Xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, quản lý theo pháp luật và tôn trọng

pháp luật. Pháp luật trở thành công cụ hữu hiệu nhất trong Nhà nước pháp
quyền. Cơ quan hành chính Nhà nước sử dụng công cụ đó để quản lý Nhà
nước. Cơ quan hành chính Nhà nước sử dụng pháp luật, thi hành pháp luật
chứ không đứng trên, hay ngoài pháp luật.
2. Thể chế hành chính Nhà nước là cơ sở để xây dựng cơ cấu tổ
chức bộ máy hành chính Nhà nước thực hiện các chức năng quản lý
Nhà nước đã được phân công
Thực hiện chức năng hành chính, thực thi quyền hành pháp phải
thông qua hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước. Cơ cấu của Chính
phủ, cơ cấu hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước là bộ xương của thể
chế hành chính. Bất kỳ một thể chế hành chính nào cũng được xây dựng
trên một hình thái tổ chức nhất định. Cơ cấu tổ chức cơ quan hành chính
Nhà nước được tổ chức theo chiều dọc và chiều ngang. Tổ chức theo chiều
dọc là hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở
theo cấp đơn vị hành chính. Tổ chức theo chiều ngang là gồm các cơ quan
quản lý theo ngành, lĩnh vực cụ thể. Sự hợp lý, tính khoa học trong cơ cấu
của các cơ quan này như thế nào do thể chế hành chính Nhà nước quy
định. Cơ quan hành chính Nhà nước nào cũng chỉ được thành lập trên cơ
sở các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Có cơ quan hành chính do cơ quan quyền lực Nhà nước lập ra (Chính
phủ), bầu ra (UBND), hoặc quyết định thành lập của một cơ quan cấp trên.
Hệ thống văn bản đó là một nội dung quan trọng của thể chế hành chính.
Thể chế hành chính Nhà nước về tổ chức xác định cụ thể chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ dọc, ngang
của các cơ quan cũng như các phương tiện kỹ thuật, vật chất, nhân sự để tổ
chức hoạt động. Thể chế hành chính Nhà nước quy định sự phân chia chức
năng, quyền hạn giữa các cơ quan hành chính của Chính phủ trung ương
và chính quyền các cấp. Chính phủ thực hiện chức năng, thẩm quyền đến
đâu; địa phương thực hiện những chức năng gì,… Mối quan hệ giữa các cơ
quan như thế nào? Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật?

Trên cơ sở những quy định đó, các cơ quan hành chính Nhà nước mới hoạt
động được, hệ thống hành chính Nhà nước trở thành một chỉnh thể thống
nhất, hoạt động thông suốt.
Liên quan đến vấn đề cơ cấu tổ chức bộ máy, thể chế hành chính Nhà
nước xác định:
17
- Cơ quan hành chính Nhà nước ở trung ương cần bao nhiêu bộ, bao
nhiêu đầu mối thực hiện công việc,…
- Cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương chia làm mấy cấp, bao
nhiêu đơn vị hành chính tổ chức theo hình thức nào: tản quyền, phân
quyền, ủy quyền thì phù hợp.
- Mối liên kết dọc, liên kết ngang ở mức độ nào để không chồng lấn,
trùng lắp chức năng, nhiệm vụ.
3. Thể chế hành chính là cơ sở xác lập nhân sự trong các cơ quan
hành chính Nhà nước
Nhân tố con người luôn là trung tâm của mọi tổ chức. Tổ chức được
lập ra và vận hành như thế nào do chính nhân sự của tổ chức đó thực hiện.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, yêu cầu của từng vị trí
công việc sẽ hình thành nên các vị trí nhân sự bảo đảm nhận công việc cụ
thể trong bộ máy. Thể chế hành chính Nhà nước sẽ quy định chức vụ, chức
trách, chức quyền của mỗi cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính.
Thể chế hành chính Nhà nước sẽ chức danh hóa, tiêu chuẩn hóa các
vị trí công việc làm căn cứ để cơ quan Nhà nước tuyển nhân sự vào làm
việc. Ví dụ, thể chế hành chính Nhà nước ban hành văn bản quy định tiêu
chuẩn của giám đốc sở, tiêu chuẩn công chức xã,…
Thể chế hành chính Nhà nước xác lập quy trình tuyển dụng, hệ thống
các văn bản liên quan đến quản lý, sử dụng cán bộ, công chức; đánh giá,
khen thưởng, kỷ luật, thuyên chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, điều động, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Thể chế hành chính Nhà nước còn quy định chế độ chính sách đãi

ngộ, quyền lợi và nghĩa vụ, các điều kiện bảo đảm cho đội ngũ nhân sự
trong cơ quan hành chính Nhà nước yên tâm làm việc và cống hiến.
4. Thể chế hành chính Nhà nước là cơ sở xây dựng quan hệ cụ thể
giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và các tổ chức trong xã hội
Nhà nước ra đời để thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã
hội. Xã hội ngày càng phát triển, dân chủ thì chức năng xã hội của Nhà
nước ngày càng được quan tâm và trở thành vấn đề trung tâm của mọi Nhà
nước (mặc dù chức năng giai cấp thể hiện bản chất của Nhà nước). Do đó,
Chính phủ ngày nay đang chuyển dần từ mô hình Chính phủ “cai trị” và
“chỉ huy” sang mô hình Chính phủ “dịch vụ” và “hỗ trợ”. Vì vậy, mối
quan hệ giữa Chính phủ với công dân, Chính phủ với các tổ chức trong xã
hội ngày càng được củng cố theo tinh thần dân chủ và bình đẳng.
18
Trong quá trình quản lý xã hội, Chính phủ luôn phải tác động, điều
chỉnh, tiếp xúc với công dân, tổ chức hình thành nên mối quan hệ hai chiều
và đa chiều giữa chủ thể quản lý là Chính phủ với các đối tượng quản lý là
mọi công dân, tổ chức trong xã hội. Mối quan hệ đó được quy định trong
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và được hiện thực hóa trong quá
trình tổ chức thực hiện. Chính phủ, các cơ quan hành chính Nhà nước có
trách nhiệm như thế nào đối với các thành viên trong xã hội. Công dân, tổ
chức trong xã hội có nghĩa vụ gì với Nhà nước. Nhà nước bảo đảm quyền
và nghĩa vụ công dân như thế nào, công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình bằng phương tiện gì, trình tự thủ tục ra sao, những vấn đề này
đều được thể chế hành chính Nhà nước quy định.
Nhà nước tổ chức và trực tiếp sử dụng quyền lực mà nhân dân trao
cho. Nhà nước có quyền ban hành hệ thống văn bản pháp luật buộc mọi
chủ thể phải tuân thủ. Vì vậy, xét ở phương diện này, mối quan hệ giữa
Nhà nước với công dân, tổ chức là mối quan hệ bất bình đẳng. Trong đó
Nhà nước là người có quyền còn bên kia là người trao quyền nhưng lại
chịu sự quản lý, điều hành của bên được trao quyền. Do đó, trong mối

quan hệ này, các cơ quan hành chính Nhà nước thường có xu hướng lạm
quyền nếu không có một cơ chế kiểm soát chặt chẽ.
Nhân dân trao quyền của mình cho Nhà nước sử dụng, nhân dân có
quyền đặt ra yêu cầu, đòi hỏi và quyền được phục vụ cũng như nhân dân có
thể bãi miễn quyền đó. Vì vậy, Nhà nước, cơ quan hành chính Nhà nước
phải đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, thể hiện ý chí của
nhân dân, phục vụ nhân dân. Xét trên phương diện này, Công dân, tổ chức
là “khách hàng đặc biệt”, còn Nhà nước là “người phục vụ đặc biệt”. Điều
này thể hiện bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Như vậy, bất cứ nhà nước nào cũng phải giải quyết tốt hai mặt đối
lập của mối quan hệ trên mới duy trì và thúc đẩy xã hội phát triển.
Vấn đề 4: Tổ chức bộ máy HCNN
4.1. Khái niệm:
Bộ máy Nhà nước được thiết lập nhằm thực hiện quyền lực Nhà
nước. Quyền lực Nhà nước bao gồm: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Mỗi quyền này đòi hỏi phải có một hệ thống tổ chức, hệ thống các biện
pháp, cách thức tổ chức thực hiện khác nhau. Tùy theo chế độ chính trị của
mỗi nước mà hình thành nên hệ thống cơ quan tổ chức Nhà nước để thực
hiện quyền lực Nhà nước. Ở Việt Nam, cũng giống như bộ máy Nhà nước
của nhiều nước khác, có cơ cấu tổ chức phức tạp bao gồm nhiều loại cơ
quan được hình thành bằng cách thức khác nhau, và được trao những
19
nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau để thực hiện chức năng riêng phù hợp với
đặc điểm của từng cơ quan trong bộ máy Nhà nước.
Là một bộ phận cấu thành của bộ máy Nhà nước, cơ quan hành chính
Nhà nước thực hiện quyền hành pháp. Bộ máy hành chính là hệ thống
trung tâm của bộ máy Nhà nước, có quy mô lớn, nhiều cơ quan, nhiều bộ
phận khác nhau.
Bộ máy hành chính Nhà nước là tổng thể các cơ quan hành chính
Nhà nước được thành lập theo quy định của pháp luật, trong quá trình

hoạt động có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, hợp thành hệ thống
thống nhất nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ chung của
Nhà nước.
Đặc điểm của các cơ quan hành chính Nhà nước:
- Các cơ quan hành chính Nhà nước được thành lập để thực hiện
chức năng quản lý hành chính Nhà nước, tức là hoạt động chấp hành và
điều hành. Hoạt động chấp hành và điều hành mang tính dưới luật, được
tiến hành trên cơ sở Hiến pháp, luật, pháp lệnh và để thực hiện luật.
- Thẩm quyền của các cơ quan hành chính Nhà nước chỉ giới hạn
trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành. Thầm quyền này được
quy định chủ yếu trong các văn bản luật hoặc quy chế,…
- Hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước mang tính thường
xuyên, liên tục, tương đối ổn định là cầu nối trực tiếp đưa đường lối chính
sách, pháp luật vào cuộc sống.
- Các cơ quan hành chính Nhà nước là hệ thống phức tạp, có số
lượng nhiều nhất, có mối liên hệ chặt chẽ, tạo thành một hệ thống thống
nhất từ trung ương tới địa phương, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của một trung
tâm thống nhất là Chính phủ - cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất.
- Các cơ quan hành chính Nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp trực
thuộc cơ quan quyền lực Nhà nước, chịu sự lãnh đạo, kiểm tra, giám sát của
các cơ quan quyền lực Nhà nước ở cấp tương ứng và chịu trách nhiệm báo
cáo công tác trước cơ quan đó.
- Hoạt động của nó khác với hoạt động của cơ quan quyền lực, hoạt
động kiểm sát của Viện kiển sát nhân dân và hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân. Hoạt động của các quan hành chính Nhà nước chịu sự giám sát
của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Các cơ quan hành chính
Nhà nước có nghĩa vụ, trách nhiệm xem xét và trả lời các yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát và Tòa án trong những trường hợp
nhất định.
20

- Các cơ quan hành chính Nhà nước có đối tượng quản lý rộng lớn.
Đó là những cơ quan, tổ chức, xí nghiệp, mọi công dân trong xã hội. Trong
khi, Tòa án, Viện kiểm sát không quản lý những đối tượng này.
Vấn đề 5: Vị trí và cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Việt Nam. Dựa trên những mô tả đó hãy đưa ra những nhận xét, đánh
giá về bộ máy hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay.
Bộ máy Nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, được tạo thành bởi
các cơ quan Nhà nước. Là một bộ phận cấu thành của bộ máy Nhà nước,
cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện quyền hành pháp. Bộ máy hành
chính là hệ thống trung tâm của bộ máy Nhà nước, có quy mô lớn, nhiều
cơ quan, nhiều bộ phận khác nhau.
Bộ máy hành chính Nhà nước là tổng thể các cơ quan hành chính
Nhà nước được thành lập theo quy định của pháp luật, trong quá trình
hoạt động có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, hợp thành hệ thống
thống nhất nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ chung của
Nhà nước.
Về cơ cấu tổ chức Bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay
gồm có:
Tổ chức bộ máy HCNN cấp trung ương: bao gồm: Chính phủ và
các Bộ, cơ quan ngang Bộ.
1. Chính phủ: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ
quan hành chính Nhà nước cao nhất của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
- Cơ cấu tổ chức của Chính phủ:
+ Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có: các Bộ, Cơ quan ngang Bộ
do Quốc hội quyết định thành lập theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Nhiệm kỳ hiện tại trong Chính phủ có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ.
+ Cơ cấu thành viên Chính phủ gồm: Thủ tướng Chính phủ, các Phó
Thủ tướng (4 phó thủ tướng), các Bộ trưởng (18 Bộ trưởng), Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ (4 thủ trưởng cơ quan ngang Bộ).

Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ lãnh đạo và điều
hành hoạt động của Chính phủ, quyết định những vấn đề được Hiến pháp
và luật pháp quy định ( Điều 20 Luật Tổ chức Chính phủ).
Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số các đại biểu quốc hội
theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm
21
trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, UBTV Quốc hội và
Chủ tịch nước.
Các Phó thủ tướng là người giúp việc cho Thủ tuớng, làm nhiệm vụ
theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ. Khi Thủ tướng vắng mặt,
một phó thủ tướng được thủ tướng ủy nhiệm sẽ thay mặt Thủ tướng giải
quyết công việc. Hiện nay, trong cơ cấu của Chính phủ không có chức
danh Phó Thủ tướng thường trực.
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là người đứng đầu lãnh
đạo một bộ, một cơ quan ngang bộ, phụ trách một số công tác của Chính
phủ, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội về phạm vi
quản lý ngành, lĩnh vực được giao.
Số Phó thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ do
Quốc hội quyết định. Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn và
đề nghị việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với các Phó
thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị
quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm ,cách chức,
chấp thuận từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ.
2. Bộ, cơ quan ngang Bộ:
Bộ, cơ quan ngang Bộ (dưới đây gọi chung là Bộ) là cơ quan của
Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực
được giao trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong
các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
- Cơ cấu tổ chức của Bộ gồm có các bộ phận sau:

+ Các cơ quan giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước như các vụ, thanh tra, văn phòng. Một số được tổ chức thành cục,
tổng cục có chức năng quản lý hành chính Nhà nước chuyên ngành. Ví dụ,
Bộ Tài nguyên – Môi trường có Tổng cục địa chính, Cục Tài nguyên nước,

+ Các cơ quan sự nghiệp của Bộ: các viện nghiên cứu, báo, tạp trí
trực thuộc bộ, các cơ sở đào tạo,… Ví dụ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn có Viện Chính sách Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
trường Đại học Nông nghiệp, trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ nông
nghiệp,…
+ Các cơ quan đại diện của Bộ tại địa phương trong và ngoài nước:
ví dụ Bộ Nội vụ có cơ quan đại diện tại khu vực miền Trung Tây Nguyên,
cơ quan đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh,….
22
Cơ cấu bộ máy HCNN cấp địa phương gồm có:
1. UBND các cấp:
UBND do HĐND bầu ra là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan
hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND cùng
cấp và cơ quan Nhà nước cấp trên.
Về cơ cấu tổ chức:
Về nhân sự: UBND gồm chủ tịch, các phó chủ tịch và các Ủy viên
UBND.
Số lượng thành viên UBND các cấp như sau:
- UBND cấp xã: 3 -5 thành viên
- UBND cấp huyện: 7-9 thành viên
- UBND cấp tỉnh: 9-11 thành viên.
Chủ tịch UBND do HĐND bầu ra theo sự giới thiệu của chủ tịch
HĐND trong số các đại biểu HĐND. Phó chủ tịch và các thành viên khác
của UBND do HĐND bầu theo đề nghị của chủ tịch UBND. Chủ tịch
UBND lãnh đạo, điều hành, hoạt động của UBND.

Khi quyết định những vấn đề quan trong của địa phương, UBND
thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. UBND làm việc theo chế độ tập
thể, trong đó thành viên UBND chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác
của mình trước UBND. Chủ tịch UBND cùng với các thành viên khác của
UBND chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của UBND trước HĐND
cùng cấp và cơ quan Nhà nước cấp trên.
Nhiệm kỳ của UBND theo nhiệm kỳ của HĐND cùng cấp. Khi
HĐND hết nhiệm kỳ, UBND và chủ tịch UBND tiếp tục làm việc đến khi
HĐND khóa mới bầu chủ tịch và UBND cho nhiệm kỳ tiếp.
- Về bộ máy: UBND thành lập các cơ quan chuyên môn tham mưu
giúp UBND cùng cấp thực hiện chức năng QLNN ở địa phương và thực
hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự uỷ quyền của UBND cùng cấp
và theo quy định của pháp luật.
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh gọi là Sở và cơ quan
tương đương (gọi chung là Sở). Hhiện nay cấp tỉnh có từ 17 -20 sở theo
quy định tại nghị định 13/2008/NĐ-CP.
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện gọi là phòng và cơ
quan tương đương (gọi chung là Phòng) .Hiện nay cấp huyện có 12 phòng
theo quy định tại nghị định 14/2008/NĐ- CP.
23
Cấp xã không có cơ quan chuyên môn mà có 7 chức danh công chức
cấp xã phụ trách từng mảng công việc theo quy định tại Nghị định
92/2009/NĐ-CP.
2. Cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp:
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND đa phần được tổ chức theo
nguyên tắc “song trùng trực thuộc”, tức là:
- Cơ quan chuyên môn thuộc UBND chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ
chức, biên chế và công tác của UBND cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo
về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên. Thủ trưởng
cơ quan chuyên môn thuộc UBND chịu trách nhiệm và báo cáo công tác

trước cơ quan chuyên môn cấp trên, khi cần thiết báo với HĐND.
- Người đứng đầu cơ quan chuyên môn do chủ tịch UBND cùng cấp
bổ nhiệm, nhưng trước khi bổ nhiệm có sự thỏa thuận với người đứng đầu
cơ quan chuyên môn cấp trên.
Trong 2 mối quan hệ này, mối quan hệ ngang về tổ chức và nhân sự là
cơ bản có tính trội hơn mối quan hệ dọc – quan hệ chuyên môn. Tuy nhiên
có một số cơ quan chỉ trực thuộc theo chiều ngang (Văn phòng UBND); có
cơ quan chỉ trực thuộc theo chiều dọc (Công an, quân đội ). Cơ quan chuyên
môn hoạt động theo chế độ thủ trưởng.
Chỉnh phủ quy định tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND. Số lượng các cơ quan chuyên môn từng cấp phụ thuộc
vào quy mô từng địa phương và do Chính phủ quy định.
Nhận xét đánh giá về cơ cấu tổ chức bộ máy HCNN Việt Nam:
- Cơ cấu tổ chức bộ máy HCNN Việt Nam đang cải cách từng bước
theo hướng thành lập các cơ quan đa ngành, đa lĩnh vực nhằm thu gọn đầu
mối, giảm cấp trung gian. Ví dụ, nhiệm kỳ Chính phủ 2002 – 2007, có bộ
Công nghiệp và Bộ Thương mại, nhưng từ sau năm 2007, chức năng,
nhiệm vụ của hai bộ này gộp lại và tổ chức thành Bộ Công thương; Bộ
Thủy sản không còn nữa mà thay vào đó là một số chức năng, nhiệm vụ
chuyển sang giao cho Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn và Bộ Tài
nguyên và Môi trường thực hiện.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy HCNN Việt Nam được tổ chức gần như
tương tự nhau ở cả 4 cấp chính quyền: trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và
cấp xã. Điều này do đặc thù trong cách phân chia đơn vị hành chính lãnh
thổ của Việt Nam. Chưa phân biệt được rõ nét chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mỗi cấp chính quyền.
24
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy HCNN Việt Nam đều hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm tính thứ bậc chặt chẽ trong nền
hành chính. Cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung

ương.
- Tuy có cải cách theo hướng gọn nhẹ, tinh giản biên chế, thành lập
cơ quan đa ngành, đa lĩnh vực nhưng hiện nay, vẫn có xu hướng mở rộng
quy mô bộ máy HCNN. Có hiện tượng cục nâng lên thành tổng cục, phòng
nâng lên thành ban,… làm cho bộ máy càng ngày càng phình to và tăng
biên chế.
Qua thống kê cho thấy: Năm 1996: 10.848 đơn vị hành chính các
cấp, trong đó, cấp tỉnh là 53 đơn vị, gồm 50 tỉnh, 3 thành phố trực thuộc
Trung ương; cấp huyện là 574 đơn vị, gồm 475 huyện, 21 quận, 62 thị xã,
16 thành phố thuộc tỉnh; cấp xã là 10.221 đơn vị, gồm 8.862 xã, 856
phường, 503 thị trấn.
Năm 2000: 11.154 đơn vị, trong đó, cấp tỉnh là 61 đơn vị; cấp huyện
là 615 đơn vị; cấp xã là 10.478 đơn vị.
Năm 2004, (bắt đầu nhiệm kỳ 2004-2009): 11.502 đơn vị hành chính,
trong đó, cấp tỉnh là 64 đơn vị; 662 đơn vị cấp huyện; 10.776 đơn vị cấp
xã.
Đến nay 30/9/2010: 11.863, trong đó cấp tỉnh có 63 đơn vị, gồm 58
tỉnh, 5 thành phố trực thuộc Trung ương; cấp huyện có 697 đơn vị, gồm
554 huyện, 47 quận, 46 thị xã, 50 thành phố thuộc tỉnh; cấp xã có 11.109
đơn vị, gồm 9.091 xã, 1.391 phường, 627 thị trấn.
Như vậy qua 13 năm: số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh tăng thêm
10 đơn vị cấp tỉnh); cấp huyện tăng thêm 123 đơn vị; cấp xã tăng thêm
888 đơn vị.
- Thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu là Chủ tịch UBND
với tập thể UBND chưa rõ ràng, rành mạch nhất là khi xảy ra hậu quả kinh
tế - xã hội khó quy kết trách nhiệm cá nhân.
- Cơ quan HCNN Việt Nam chia làm 2 loại. Cơ quan HCNN có thẩm
quyền chung và cơ quan HCNN có thẩm quyên riêng.
Cơ quan HCNN có thẩm quyền chung là Chính phủ và UBND các
cấp hoạt động theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Trên cơ

sở phát huy trách nhiệm cá nhân người đứng đầu và các thành viên trong
tổ chức.
25

×