Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP THI HẾT MÔN QUẢN LÝ KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.96 KB, 40 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP THI HẾT MÔN
MÔN: QUẢN LÝ KINH TẾ
*Lưu ý: Qua trao đổi với Thầy Nguyễn Văn Dũng, Thầy nhắc lớp là đối với các câu hỏi thuộc
chuyên đề của Thầy thi lưu ý như sau:
- Trước khi nêu phần giải pháp đối với một vấn đề nào đó (theo yêu cầu của đề thi) thì phải
nêu phần thực trạng (thành tựu và hạn chế). Trong đó, cần tập trung nêu phần hạn chế, còn
phần thành tựu thì chỉ nêu ngắn gọn.
- Khi trình bày thực trạng cả nước (chủ yếu dựa vào Báo cáo kinh tế - xã hội của Chính phủ
năm 2014) thì lồng ghép vào thực trạng của tỉnh (chủ yếu dựa vào Báo cáo kinh tế - xã hội của
tỉnh năm 2014). Phần thực trạng của tỉnh được xem như là phần liên hệ thực tiễn.
STT Nội dung câu hỏi Trang
1 Xác định các thách thức đặt ra trong quản lý tài chính
công ở Việt Nam hiện nay? Các giải pháp cải cách
quản lý tài chính công trong thời gian tới.
2 - 7
2 Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế ở
Việt Nam, giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý kinh tế trong tình hình mới.
8 - 11
3 Trình bày các nội dung chủ yếu của hệ thống các mục
tiêu kinh tế vĩ mô, phân tích mối quan hệ giữa các mục
tiêu kinh tế vĩ mô. Liên hệ thực tiễn, hiện mục tiêu kinh
tế vĩ mô nào được ưu tiên trong phát triển kinh tế-xã
hội tại địa phương?
12 – 18
4 Trình bày vai trò, chức năng QLNN về kinh tế. Liên hệ
thực tiễn ? (cả nước và địa phương - Khái quát những
thành công, hạn chế và đề ra giải pháp để hoàn thiện,
thực hiện các chức năng của QLNN KT trong nền
KTTT đ/hướng XHCN Việt Nam hiện nay)
19 - 28


5 Trình bày khái quát bộ máy quản lý nhà nước về kinh
tế. Phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ
thống BMQLNN về KT ở nước ta
29 - 36
6 Phân tích hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về
kinh tế. Phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ
thống BMQLNN về KT ở nước ta.
37 – 42
7 Bằng kiến thức quản lý kinh tế và thực tiễn công tác,
đồng chí hãy Làm rõ nội dung sau: “ Nhà nước tập
trung duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng phát
triển, tạo điều kiện để nền kinh tế phát triển nhanh, bền
vững. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật; chính
sách kinh tế….Phân định rõ hơn chức năng quản lý
kinh tế của nhà nước và chức năng của các tổ chức
kinh doanh vốn và tài sản nhà nước”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu
43 - 47
1
toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG - ST, tr.215).
Câu 1: Xác định các thách thức đặt ra trong quản lý tài chính công ở Việt Nam hiện
nay?
Bài làm
(Lưu ý: Câu này cũng hơi dài. Vì vậy, nên dựa vào yêu cầu của đề thi để chọn nội dung
trình bày cho phù hợp)
1. Mở bài: Cá nhân tự viết
2. Thân bài:
2.1. Nêu các khái niệm liên quan:
Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu và chi bằng tiền của nhà nước, phản ánh
mối quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền

tệ của nhà nước nhằm thực hiện các chứa năng vốn có của nhà nước đối với xã hội.
Quản lý tài chính công là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển và kiểm soát các
hoạt động thu và chi của nhà nước nhằm thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước.
Hiệu quả của quản lý tài chính công vừa phản ảnh năng lực của bộ máy nhà nước, vừa có
tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động của các cơ quan trong bộ máy quản lý.
2.2. Nêu quá trình quản lý tài chính công ở Việt Nam:
Cải cách hệ thống thuế góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần, thúc đầy kinh tế tăng trưởng nhanh trong
những năm qua.
Cải cách tổ chức bộ máy quản lý tài chính công với các bộ phận chức năng ngày càng
phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường
Ban hành và sửa đổi luật Ngân sách nhà nước như: Mở rộng quyền hạn, trách nhiệm
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp trong việc quyết định, phân bổ và phê chuẩn
quyết toán ngân sách; đổi mới phân cấp quản lý tài chính – ngân sách dựa trên cơ sở sự thống
nhất của hệ thống tài chính quốc gia; tăng cường phân cấp quản lý chi tiêu công nhiều hơn cho
các bộ ngành và địa phương; cải thiện tính minh bạch trong quản lý chi tiêu công; thực hiện
cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính từ năm 2000; tin quản lý tài chính, thực hiện
công khai, minh bạch tài chính ngân sách phù hợp với thông lệ quốc tế.
2.3. Nêu bối cảnh kinh tế - tài chính và tác động tới quản lý tài chính công ở Việt Nam
Bối cảnh kinh tế - tài chính thế giới: Trong hai thập kỷ qua, tình hình kinh tế - tài chính
thế giới có nhiều biến động với những bước phát triển to lớn, song cũng gánh chịu các thất bại
nặng nề, đặc biệt là 2 cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á (bắt đầu từ tháng 7-1997),
2
khủng hoảng tài chính – tiền tệ thế giới năm 2008 và khủng hoảng nợ công đã ảnh hưởng rộng
lớn và sâu sắc trên phạm vi toàn cầu.
Bối cảnh kinh tế - tài chính ở Việt Nam:
Giai đoạn tăng trưởng cao (1991 – 1996), Chính phủ thực hiện một loạt chính sách
chuyển từ cơ chế chỉ huy tập trung sang phát triển theo hướng kinh tế thị trường, làm cho nền
kinh tế khởi sắc, đạt tốc độ tăng trưởng cao.

Giai đoạn suy thoái (1997 – 2001), Chính phủ thực hiện nhiều chính sách năng động để
kích thích kinh tế (cải cách thể chế theo cơ chế thị trường, mở cửa thu hút vốn đầu tư, thúc
đẩy thương mại quốc tế, phát triển thị trường tài chính)
Giai đoạn phục hồi (2002 – 2007) ổn định sự tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu cao,
nhưng chịu nhiều biến động của kinh tế thế giới.
Giai đoạn suy thoái (2008 – 2012) do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính – tiền tệ thế
giới, Chính phủ thực hiện các nhóm giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tăng
trưởng bền vững và thực thi chính sách xã hội.
2.4. Nêu các thách thức đặt ra trong quản lý tài chính công
2.4.1. Thách thức về nguồn thu ngân sách
Mặc dù cải cách thuế có những thành công, song nguồn thu ngân sách vẫn không đáp ứng
nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng cao của tiến trình phát triển kinh tế và CNH, tình trạng thâm
hụt ngân sách cao và chưa khắc phục.
Sự tăng trưởng kinh tế chưa thật sự ổn định, đặc biệt trong giai đoạn chịu tác động của
khủng hoảng kinh tế,…đang đặt nhà nước trước thách thức về việc cải cách thuế theo hướng
tăng nguồn thu và giảm thâm hụt ngân sách.
2.4.2. Thách thức về hiệu quả phân bổ và sử dụng chi tiêu công
Nguồn lực ngân sách phân bổ một cách dàn trải, kém hiệu quả, không có thứ tự ưu tiên.
Sử dụng ngân sách nhà nước kém hiệu quả: Hiệu quả chi tiêu công thấp, không tương
xứng với chất lượng tăng trưởng kinh tế
Tình trạng lãng phí, thất thoát vẫn diễn ra phổ biến, trở thành căn bệnh của đời sống kinh
tế - xã hội, là nguy cơ kéo lùi đà tăng trưởng và làm cho khoảng cách giàu nghèo ngày thêm
doãng rộng.
2.4.3. Thách thức về phân cấp ngân sách
Mức độ phân cấp ngân sách còn thấp, việc phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương ở
một số nơi còn bất hợp lý.
Trong xu thế tăng cường phân cấp trong hành chính nhà nước hiện nay, đòi hỏi cần trao
nhiều quyền nhiều hơn cho chính quyền địa phương.
2.4.4. Thách thức trước yêu cầu chuyển từ quản lý ngân sách theo đầu vào sang chú trọng

đến các kết quả đầu ra.
Quản lý ngân sách hiện nay dựa trên phương thức lập ngân sách theo các khoản mục đầu
vào, không chú trọng đến các kết quả đầu ra gắn với mục tiêu chiến lược ưu tiên.
3
Thách thức trong chuyển sang quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra gặp phải lực cản rất
lớn về tư duy và cách làm trong quản lý ngân sách hiện nay.
2.4.5. Thách thức về tầm nhìn trong lập và chấp hành ngân sách
Ngân sách thường được lập và chấp hành trong thời hạn một năm, đó là khung thời gian
quá ngắn để đạt mục tiêu đề ra.
Việc chấp hành ngân sách phải đảm bảo chi tiêu hết kinh phí được giao nên đôi lúc chi
tiêu mang tính vội vàng, không quan tâm đến hiệu quả chi tiêu.
2.4.6. Thách thức trong đảm bảo cân đối ngân sách và giảm nợ công
Ở Việt nam thâm hụt ngân sách chủ yếu được bù đắp từ các nguồn vốn vay trong và
ngoài nước hình thành nên nợ công. Thâm hụt ngân sách cao là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
sự gia tăng nợ công.
Trong điều bối cảnh kinh tế phát triển chưa ổn định, nhu cầu chi tiêu ngày một lớn,
nguồn thu lại chậm cải thiện thách thức về giảm bội chi ngân sách và nợ công ngày càng trở
nên nghiêm trọng.
2.4.7. Thách thức trước đòi hỏi gia tăng hỗ trợ người nghèo
Chi tiêu công tập trung vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo thông qua các chương trình mục
tiêu quốc gia ngày tăng lên nhanh chóng. Nhưng, kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững,
số hộ nghèo còn cao.
Chi tiêu công cho xóa đói giảm nghèo còn nhiều bất cập: nguồn lực đến đối tượng không trọn
vẹn; một số khoản chi hiệu quả không cao; nguồn vốn bị phân tán.
2.4.8. Thách thức trong mua sắm và sử dụng tài sản công
Tình trạng mua sắm tài sản công còn lãng phí: vượt tiêu chuẩn, định mức; việc đấu thầu,
thẩm định mang tính hình thức, không đúng quy định.
Sử dụng tài sản công kém hiệu quả, nhiều tài sản công sử dụng không hết công suất, sử
dụng sai mục đích.
Thiếu sự ghi chép, đánh giá giá trị và tổng kết tài sản, không theo dõi sự biến động, số

liệu thống kê thiếu chính xác.
Tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý tài sản công bất cập: cơ quan quản lý tài sản công
không được hình thành đầy đủ, đội ngũ cán bộ mỏng và thiếu kiến thức chuyên môn.
Thiếu sự thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đúng mức.
2.5. Các giải pháp cải cách quản lý tài chính công trong thời gian tới.
2.5.1. Thực trạng: (Cả nước, tỉnh). Từng cá nhân tự viết (dựa vào Báo cáo của Chính phủ và
của tỉnh)
- Thành tựu
- Hạn chế
2.5.2. Các giải pháp
*Giải pháp thứ nhất: Cải cách thuế
Quy mô thu ngân sách cần so sánh với quy mô nền kinh tế từng thời kỳ, không nhất thiết
duy trì một tỷ lệ thu ngân sách trên GDP quá cao.
4
Bao quát hết các nguồn thu và nâng cao vai trò điều tiết của nhà nước. Tạo ra một cơ cấu
thu bền vững và hợp lý.
Tái phân phối lại thu nhập thông qua thuế. Khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực cần
thiết, giảm tổn thất phúc lợi vô ích.
Cải cách thuế dựa trên nguyên tắc mức thuế suất thấp và cơ sở thuế rộng, đồng thời giảm
các hành vi trốn thuế, tránh thuế thông qua hoạt động dịch chuyển thu nhập hay chuyển giá.
Tăng cường năng lực cạnh tranh, đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng hệ thống thuế thống
nhất, trung lập, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, cắt giảm thuế nhập khẩu để doanh nghiệp tăng
cường đổi mới.
Giảm sự quá tải của hệ thống quản lý thuế, giảm chi phí tuân thủ thuế và quản lý thu
thuế. Hiện đại hóa công tác thu nộp và tăng cường thanh tra, kiểm tra về thuế.
*Giải pháp thứ hai: Nâng cao hiệu quả chi tiêu công
Hoàn thiện các thể chế về quản lý chi tiêu công nhằm tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ
và phù hợp trong phân bổ và sử dụng chi tiêu công, đảm bảo chi tiêu công được sử dụng cho
các nhiệm vụ đích thực, tập trung vào cung ứng các dịch vụ công thiết yếu, đảm bảo hiệu quả
KT – XH cao nhất.

Mở rộng công khai, minh bạch tài chính đối với việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà
nước. Khắc phục việc công khai một cách hình thức, cần có lý giải cụ thể nhiệm vụ chi tiêu,
mức độ đạt được mục tiêu có dữ liệu so sánh, đối chiếu, vá xác định hiệu quả.
*Giải pháp thứ ba: Tăng cường quản lý nợ công
Có kế hoạch tổng thể về huy động vốn của Chính phủ được xây dựng cho từng giai đoạn,
phân định theo từng năm, chi tiết từng loại thời hạn gắn với huy động vốn và được công bố
rộng rãi.
Xác định mức vay nợ nước ngoài để định hướng việc huy động vốn nước ngoài không vượt
quá giới hạn an toàn cho phép. Cần lựa chọn những lĩnh vực phù hợp để vận động ODA nhằm tạo
sự lan tỏa của các chương trình, dự án ODA.
Xác định rõ và công bố công khai các mục tiêu về quản lý nợ, các biện pháp quản lý chi
phí, rủi ro. Phân định rõ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong quản lý nợ công.
Thực hiện công khai minh bạch các thông tin về nợ để chủ động phân tích, đánh giá và
phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra.
Bảo đảm vay và sử dụng có hiệu quả vốn vay. Tăng cường giám sát, kiểm tra, kiểm toán
việc tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng vốn vay.
*Giải pháp thứ tư: Tăng cường phân cấp quản lý ngân sách
Việc phân cấp phải được nghiên cứu và tiến hành thận trọng, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng,
đảm bảo tính hiệu quả và ổn định trong quản lý ngân sách, tạo cơ sở cho thành công cải cách
tài chính.
Thực hiện phân tách rõ ràng giữa các cấp ngân sách, hướng đến xây dựng một hệ thống
ngân sách thật đầy đủ và chính quyền địa phương có sự tự chủ nhiều hơn về ngân sách cấp
mình.
5
Cho phép chính chính quyền địa phương tự chủ ở một mức độ thích hợp trong việc ra các
quyết định chi tiêu theo thứ tự ưu tiên của địa phương, nhưng phải phù hợp với chiến lược và
mục tiêu phát triển quốc gia.
Đẩy mạnh phân cấp quản lý ngân sách gắn với việc tăng cường tính minh bạch và trách
nhiệm giải trình về tài chính ở địa phương. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát nhằm
đảm bảo nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý.

*Giải pháp thứ năm: Đổi mới cơ chế quản lý chi tiêu công nhằm hổ trợ người nghèo
có hiệu quả
Xác định phạm vi và thứ tự ưu tiên trong chi tiêu công.
Phân bổ ngân sách vào những dịch vụ công mà người nghèo sử dụng nhiều nhất. Đồng
thời, bảo đảm cơ cấu chi ngân sách trong mỗi lĩnh vực dịch vụ công hướng vào lợi ích của
người hưởng thụ dịch vụ đó.
Đối với những dịch vụ công quan trọng, mức phân bổ ngân sách không thể tính trên qui
mô dân số, mà cần có khoản hỗ trợ phụ thêm cho các địa phương nghèo, nơi các nhà cung ứng
dịch vụ công không tham gia đầu tư.
Nâng cao hiệu quả các chương trình mục tiêu xóa đói giảm nghèo: Tập trung hơn vào đối
tượng nghèo nhất, đảm bảo phân bổ đúng đối tượng.
Mở rộng diện hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng nghèo và nâng dần mức hỗ trợ; đặc biệt
cần tăng cường tín dụng đối với người nghèo.
*Giải pháp thứ sáu: Lập ngân sách theo kết quả đầu ra
Thiết lập các mục tiêu mang định hướng chính sách mang tính khoa học, cơ sở chuẩn
xác.
Xác định các đầu ra cần hoàn thành để đạt được mục tiêu.
Xác định, tính toán các nguồn lực tài chính để thực hiện đạt được mỗi đầu ra cũng như
mục tiêu đề ra.
Xác định thời gian và chi phí cần thiết để đạt được đầu ra.
Xây dựng chỉ số đánh giá thời gian thực hiện và mức độ hoàn thành cho mỗi hoạt động.
Phân công trách nhiệm cụ thể, lập hệ thống theo dõi để giám sát hoạt động và sự thay đổi
của chỉ số đánh giá.
*Giải pháp thứ bảy: Lập khuôn khổ chi tiêu trung hạn
Khuôn khổ chi tiêu ngân sách trung hạn (MTEF) là quá trình lập và xây dựng kế hoạch
ngân sch1 minh bạch, trong đó chính phủ và các bộ, ngành và chính quyền địa phương thống
nhất về việc phân bổ nguồn lực theo ưu tiên chiến lược trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc tài
khóa tổng thể.
Mục tiêu lập khuôn khổ chi tiêu trung hạn:
Tạo cơ sở chiến lược cho việc soạn lập ngân sách, trong đó các khoản chi tiêu hướng tới

việc đạt được các mục tiêu đề ra.
Xây dựng một ngân sách thống nhất, bao gồm cả chi đầu tư và chi thường xuyên, từ
nguồn lực của Chính phủ, của khu vực tư nhân và của các nhà tài trợ.
Chú trọng đến hiệu quả hoạt động của các ngành, các địa phương và hiệu quả sử dụng
tổng nguồn lực.
Đưa ra một tầm nhìn trung hạn để các bộ ngành và địa phương có thể lập kế hoạch cho
thời kỳ trung hạn đó.
6
*Giải pháp thứ tám: Bảo toàn và phát triển tài sản công
Xây dựng quy chế quản lý, sử dụng tài sản công, khoán mua sắm những tài sản công có
thể và sử dụng theo định mức.
Tăng cường tính công khai minh bạch trong mua sắm tài sản công. Gắn việc mua sắm tài
sản công với kết quả đầu ra trong sử dụng tài sản công đó.
Phân cấp QL đi đôi với kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan QLTSC.
Thực hiện nghiêm chế độ theo dõi, ghi chép biến động, đánh giá, báo cáo tài sản công.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý.
Tăng cường kiểm tra, giám sát trong mua sắm, quản lý và sử dụng tài sản công; xử lý
nghiêm vi phạm. Qui trách nhiệm cá nhân về thất thoát, lãng phí, đặc biệt là trách nhiệm
người đứng đầu.
3. Kết luận: Cá nhân tự viết.
Câu 2: Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế ở Việt Nam, giải pháp cơ
bản nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trong tình hình mới.
Bài làm
1. Mở bài:
(Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của dân tộc.
Trọng điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, vai trò của cán bộ
ngày càng được nâng cao, đặc biệt là cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế.)
2. Thân bài:
Khái niệm: Cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế là tất cả các cá nhân thực hiện những
chức năng quản lý nhất định trong bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế của quốc gia.

Đặc điểm:
Thứ nhất, cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế gắn với bộ máy quản lý nhà nước từ TW
đến địa phương, từ các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế đến các đơn vị kinh doanh, các tổ
chức sự nghiệp kinh tế.
Thứ hai, cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế gắn với lao động quản lý, hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế. Đặc thù của lao động này là làm việc với thông tin, sản phẩm của lao động là
các quyết định quản lý.
Thứ ba, cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế hoạt động trong ngành, lĩnh vực quan trọng,
rất nhạy cảm, liên quan đến khối tài sản lớn gắn với lợi ích vật chất với nhiều cám dỗ. Do vậy,
đòi hỏi họ cần có phẩm chất đạo đức “liêm, chính”.
Thứ tư, việc hoạch định và thực thi chính sách kinh tế phụ thuộc rất lớn và năng lực, tư
duy của cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế.
Vai trò:
Cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế trực tiếp xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế của quốc gia, của ngành kinh tế, của địa
phương cũng như từng đơn vị, tổ chức kinh tế.
Cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế trực tiếp tổ chức quản lý toàn bộ nền kinh tế cũng
như từng ngành, kĩnh vực, từng hoạt động kinh tế cho đến các tổ chức kinh tế.
7
Cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế trực tiếp điều hành nền kinh tế cũng như các ngành,
các đơn vị kinh tế.
Cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế có vai trò quan trọng trong việc phân bổ, sử dụng các
nguồn lực quốc gia.
Cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế là người trực tiếp xử lý các quan hệ giữa nhà nước,
các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với nhân dân.
Những yêu cầu cơ bản đối với cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế:
Yêu cầu về phẩm chất đạo đức, lối sống: Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất con
người tốt, phẩm hạnh trong sáng, cách ứng xử tốt với mọi người, đạo đức và lương tâm nghề
nghiệp chuẩn mực.
Yêu cầu về trình độ, năng lực: Đáp ứng được yêu cầu về kiến thức chuyên môn, kinh tế -

kỹ thuật và quản lý cần thiết cho công việc, đặc biệt là quản lý, thể hiện được khả năng vận
dụng hiểu biết lý luận vào thực tiễn, biến lý luận thành hành động thực tiễn.
Nội dung cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế bao gồm:
Xây dựng tiêu chuẩn, chức danh cán bộ; Quy hoạch cán bộ; Bầu cử, tuyển dụng và bổ nhiệm
cán bộ; Đánh giá cán bộ; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; Thực hiện chính sách đối với cán bộ.
Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế
(Lưu ý: Trong phần này, các đồng chí nêu thêm thực tế ở địa phương, cố gắng có
liên quan đến phần giải pháp phía dưới, như vậy bài làm logic hơn.)
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế thể hiện qua các nội dung của công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ từ xây dựng tiêu chuẩn, chức danh đến thực hiện chính sách đối với
cán bộ. Cụ thể như sau:
1. Về chuẩn chức danh: đã được định hình theo ba nhóm (cán bộ, công chức, viên chức) với
các chức danh cụ thể. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu đồng bộ, chưa bao quát, mới tiến hành ở một
số cấp, khâu. Trong nhiều đơn vị chưa phân định rõ nhóm cán bộ (cán bộ, công chức, viên
chức), đặc biệt là trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Phần lớn các tiêu chuẩn đối với cán bộ
còn chung chung, nặng về tiêu chí định tính, rất khó đánh giá, khó xác định.
2. Về quy hoạch: Công tác quy hoạch cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế mới được triển khai
thực hiện từ khi có nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII và đặc là nghị quyết số 42-
NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị, đến nay công tác này được tiến hành trong hệ
thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế trên cả nước. Tuy nhiên, còn hạn chế trong nhận
thức về công tác quy hoạch, quy hoạch còn mang tính hình thức, chiếu lệ, không phát huy tác
dụng của công cụ này. Ở cấp cao, quy hoạch cán bộ mới được triển khai từ khi có chủ trương
của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI.
3. Công tác đánh giá: được duy trì và thực hiện hàng năm (chủ yếu là tự phê bình và phê
bình, theo tiêu chí thi đua). Tuy nhiên, Trong công tác đánh giá cán bộ, tình trạng nể nang,
“Dĩ hòa vi quý” vẫn còn tồn tại; tiêu chí đánh giá chưa rõ ràng, phương pháp còn nặng tính
chủ quan, cảm tính.
4. Tuyển dụng, bố trí và sử dụng cán bộ: từng bước thực hiện theo quy định của pháp luật; tổ
chức công khai, dân chủ; việc bổ nhiệm, bố trí và sử dụng cán bộ dần đi vào nề nếp. Tuy
nhiên, việc tuyển dụng còn thiếu khách quan, thậm chí trá hình, vi phạm pháp luật. Ở một số

cơ quan, lợi dụng việc tuyển dụng cán bộ để đưa con em vào cơ quan nhà nước; tình trạng
mua quan bán chức và hối lộ để được nhận vào cơ quan vẫn còn là vấn đề rất bức xúc. Việc bố
8
trí cán bộ không đúng người, đúng việc không đáp ứng , trình độ, phẩm chất đạo đức vẫn còn
diễn ra thường xuyên.
5. Điều động, luân chuyển cán bộ được thực hiện tốt từ sau nghị quyết Hội nghị Trung ương
3 khóa VIII, năm 1997. Đến nay, nhiều cán bộ Trung ương được điều động về các địa phương
và ngược lại. Tuy nhiên, nhiều trường hợp điều động chưa hợp lý, chưa thật sự hiệu quả.
Thậm chí còn hiện tượng lợi dụng điều động, luân chuyển để đẩy người không hợp ra khỏi cơ
quan, đơn vị.
6. Công tác đào tạo, bồi dưỡng được tiến hành rộng khắp cho phù hợp với yêu cầu, chương
trình, thời gian phù hợp nâng cao được trình độ, năng lực cán bộ, nhờ đó, đáp ứng được một
phần quan trọng yêu cầu nâng cao trình độ, năng lực cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh
tế nói riêng. Tuy nhiên, một số chương trình, nội dung, phương pháp chưa hiệu quả, không
thiết thực. Chủ yếu một số chương trình đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu để “giải ngân” thay vì
nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ.
7. Thực hiện chính sách đã được điều chỉnh nhiều lần, cơ bản đảm bảo lợi ích và đời sống của
cán bộ. Lương, phụ cấp được quyết định theo ngạch, bậc công chức, việc tính lương căn cứ
vào mức lương cơ bản. Cán bộ ở vị trí lãnh đạo, quản lý được nhận phụ cấp trách nhiệm từ 0,2
đến 1,3 (đối với vị trí cao nhất). Tuy nhiên, lương tối thiểu còn thấp vì vậy cán bộ còn dựa
vào các nguồn thu nhập không chính thức, còn chênh lệch lớn về thu nhập giữa các ngành,
chế độ thưởng phạt còn hạn chế, chưa thực sự kích thích cán bộ gắn với công việc.
Một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về KT
1. Nâng cao nhận thức về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế; xem đây là
công việc trọng yếu của quốc gia và là việc làm thường xuyên, liên tục; là nhiệm vụ cơ bản,
lâu dài.
2. Xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn chức danh trong từng ngành, từng vị trí, công việc
như: trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức,…Các tiêu chí đánh giá cần xây dựng theo hướng
có thể lượng hóa để đảm bảo tính chính xác và khách quan.
3. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh

bạch, khách quan, toàn diện, công tâm; lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ làm
thước đo chính; coi trọng và phát huy trách nhiệm của người đứng đầu, người trực tiếp quản
lý, sử dụng cán bộ trong các cơ quan, tổ chức đơn vị kinh tế.
4. Hoàn thiện công tác quy hoạch cán bộ theo hướng nâng cao chất lượng, chủ động, có tầm
nhìn xa, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Triển khai quy hoạch đồng ở các cấp, khâu;
tăng cường phối hợp giữa các cấp, ngành, địa phương trong công tác quy hoạch.
5. Đổi mới tuyển dụng, bố trí sử dụng cán bộ đảm bảo đúng người, đúng việc. Việc tuyển
dụng và bố trí sử dụng cán bộ cần gắn với cơ chế trách nhiệm cao, trách nhiệm của người
đứng đầu.
6. Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, theo tiêu
chuẩn chứa danh cán bộ. Chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo phù hợp, thiết
thực, gắn với thực tiễn.
7. Cải cách hệ thống chính sách đối với đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế: chế độ
tiền lương, thu nhập, chế độ nhà ở công vụ, …. Đảm bảo đồng bộ, thống nhất, công bằng. Cải
9
cách công tác thi đua, khen thưởng để tạo động lực thúc đẩy phong trao thi đua yêu nước một
cách thực chất, tránh hình thức, lãng phí.
8. Đổi mới công tác quản lý cán bộ: nội dung, phương thức quản lý, tăng cường kiểm tra,
kiểm soát, nâng cao trình độ của cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế ở tất cả các cấp, ngành, tổ
chức kinh tế.
3. Kết luận
(Tóm lại, trong điều kiện phát triển đất nước hiện nay, với việc coi phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH, thì cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế càng có
vai trò, vị trí quan trọng nhưng cũng gánh chịu nhiều trách nhiệm nặng nề, Đây là bộ phận cán
bộ thuộc những ngành, lĩnh vực gắn với lợi ích vật chất, nắm giữ và quản lý khối tài sản lớn
của quốc gia, rất dễ phát sinh, tiêu cực, tham nhũng, thoái hóa, biến chất. Do đó, việc xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế vững mạnh là một trong những vấn đề “hệ
trọng” của quốc gia.)
10

Câu 3: Trình bày các nội dung chủ yếu của hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô, phân
tích mối quan hệ giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Liên hệ thực tiễn, hiện mục tiêu kinh tế
vĩ mô nào được ưu tiên trong phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương?
Bài làm
1. Mở bài
{Các bạn dùng nội dung trong mục 1 giáo trình để mở bài, có thể tham khảo như sau:
Trong nền KTTT hỗn hợp hiện đại, QLKT vĩ mô có vai trò rất quan trọng, tạo điều kiện
cho các chủ thể kinh tế hoạt động sx, kd, tiêu dùng ổn định, hiệu quả, đồng thời điều tiết quá
trình phân phối của cải xh hướng tới xh văn minh, có trình độ phát triển kinh tế ngày càng cao.
Muốn vậy, chúng ta cần nắm rõ nội dung hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu, mối
quan hệ giữa chúng nhằm xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói
chung và địa phương nói riêng.
2. Thân bài
2.1. Về quản lý kinh tế vĩ mô (QLKTVM)
Kinh tế vĩ mô là khoa học xem xét những vấn đề kinh tế chung, bao trùm của nền kinh tế
quốc dân, là những quan hệ kinh tế có tác động tới hoạt động tổng thể nền kinh tế quốc dân.
Quản lý kinh tế vĩ mô là sự tác động của cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế tới các quá
trình và cân đối chung của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được các mục tiêu chung của quốc
gia như hiệu quả, công bằng và ổn định.
Từ khái niệm quản lý kinh tế vĩ mô, ta cần chú ý các phương diện sau:
Thứ nhất, chủ thể của quản lý kinh tế vĩ mô là hệ thống các cơ quan nhà nước được ủy
quyền quản lý nền kinh tế quốc gia.
Thứ hai, đối tượng tác động của quản lý kinh tế vĩ mô là sự vận động của tổng thể nền
kinh tế quốc dân.
Thứ ba, quản lý kinh tế vĩ mô, phải hướng đến các mục tiêu chung của nền kinh tế quốc
gia.
Thứ tư, tác động quản lý kinh tế vĩ mô, một mặt, dựa trên quyền lực chính trị của Nhà
nước, mặt khác, phải phù hợp với các nguyên tắc, quy luật vận động của thị trường
Quản lý kinh tế vĩ mô có nhiều vai trò quan trọng:
Một là, quản lý kinh tế vĩ mô hướng hành vi của các chủ thể kinh tế tới các lợi ích chung

của quốc gia.
Hai là, quản lý kinh tế vĩ mô góp phần phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
Ba là, quản lý kinh tế vĩ mô hiệu quả góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững.
Bốn là, quản lý kinh tế vĩ mô còn thống nhất sức mạnh quốc gia, tạo dựng năng lực cạnh
tranh của quốc gia trên thị trường thế giới.
2.2. Về nội dung hệ thống các mục tiêu KTVM
Hệ thống các mục tiêu KTVM là thước đo phản ánh lợi ích chung của quốc gia và trạng
thái của nền kinh tế quốc gia mà chủ thể quản lý KTVM (nhà nước) mong muốn đạt tới sau
một thời gian dự kiến trên cơ sở đánh giá, phân tích các yếu tố nội sinh và ngoại sinh ảnh
hưởng đến nền kinh tế. Bao gồm các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu sau đây:
11
Một là, mục tiêu giải quyết việc làm cho lực lượng lao động
Mục tiêu này là nhằm nổ lực tạo ra nhiều việc làm hơn nữa để giảm đến mức thấp nhất số
người thất nghiệp, hay nói cách khác là nâng cao hiệu quả chung của nền kinh tế bằng cách sử
dụng với hiệu quả cao nhất nguồn lực lao động của quốc gia.
Thực tế cho thấy lực lượng lao động của quốc gia là nguồn lực quan trọng đóng góp phần
lớn vào tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế quốc gia. Việc giải quyết việc làm cho lực
lượng lao động có ý nghĩa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa tạo điều kiện công bằng trong
tiếp cận nguồn lực của mọi người dân có khả năng và nhu cầu lao động, đồng thời góp phần
ổn định xã hội và cho phép một quốc gia có khả năng tiến tới mức sản lượng lớn nhất có thể
có (sản lượng tiềm năng) của nền kinh tế.
Các chỉ tiêu đo lường cho mục tiêu này như: Tỷ lệ thất nghiệp (là tỷ lệ phần trăm giữa số
người thất nghiệp và lực lượng lao động xã hội ở thời điểm tính toán); số lượng việc làm mới
mà nền kinh tế đã tạo ra trong một thời kỳ kế hoạch; và một số chỉ tiêu khác nhu: Tỷ lệ thất
nghiệp theo lứa tuổi, tỷ lệ thất nghiệp theo giới, theo ngành nghề, tỷ lệ thất nghiệp do cơ cấu
lại nền kinh tế, số người làm việc không theo đúng chuyên môn đào tạo
Mục tiêu giải quyết việc làm được xác định căn cứ vào nhu cầu việc làm tăng thêm của
lực lượng lao động và nhu cầu sử dụng lao động của các khu vực kinh tế do đầu tư và sản xuất
gia tăng.
Hai là, mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải

Lạm phát là thuật ngữ kinh tế chỉ tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng lên trong
thời kỳ xem xét. Nếu mức giá chung giảm đi trong thời kỳ xem xét thì gọi là thiểu phát.
Chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá lạm phát là mức tăng mức giá chung trong nền kinh tế tính
theo chỉ số giá tiêu dùng theo công thức sau:
Chỉ số lạm phát năm t =
100 x
CPI năm t - CPI năm (t-1)
CPI năm (t-1)
Kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải (đối với các nước đang phát triển như VN là dưới
10%/năm) là nội dung quan trọng của mục tiêu ổn định KTVM, bảo đảm môi trường kinh tế
không bị xáo trộn do các cú sốc giá, qua đó khuyến khích mở rộng đầu tư và ổn định đời sống
dân cư.
Mức độ lạm phát quá cao hay thiểu phát đều tác động tiêu cực tới sản xuất, tiêu dùng, tới
sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xh. Một số tác động của lạm phát như: phân phối lại thu
nhập và của cải, sự điều chỉnh lãi suất danh nghĩa, tác động tới sản lượng: Lạm phát do cầu
kéo (Sản lượng tăng), lạm phát do chi phí đẩy (Sản lượng giảm)… Hiện nay, các biện pháp để
giảm lạm phát thường là kiểm soát mức cung tiền cho phù hợp với tăng lượng hàng hóa trên
thị trường và đi đôi với chính sách tài khóa hợp lý.
Ba là, mục tiêu ổn định tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giá trị khi chuyển đổi đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ. Có 2 cách
tính tỷ giá:
Một là, tính giá trị 1 đơn vị đồng ngoại tệ trong so sánh với giá trị đồng nội tệ theo công
thức (yết giá trực tiếp):
12
D =
Giá trị đồng nội tệ
1 đơn vị đồng ngoại tệ
Hai là, tính theo giá trị 1 đơn vị đồng nội tệ trong so sánh với giá trị ngoại tệ theo công
thức (yết giá gián tiếp):
E = Giá trị đồng ngoại tệ

1 đơn vị đồng nội tệ
Ý nghĩa kinh tế của tỷ giá hối đoái nhằm so sánh sức mua giữa các đồng tiền, đóng vai
trò kích thích và điều chỉnh xuất nhập khẩu đồng thời điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh
tế đối ngoại; ngoài ra, tỷ giá còn là công cụ sử dụng trong cạnh tranh thương mại, giành giật
thị trường tiêu thụ hàng hóa, khai thác nguyên liệu của nước khác với giá rẻ.
Cùng với mục tiêu khống chế, kiểm soát lạm phát, việc duy trì và ổn định tỷ giá hối đoái
thực tế trên thị trường còn là yếu tố quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ
phát triển kinh tế quốc gia.
Các biện pháp chủ yếu thường dùng để điều chỉnh TGHĐ là: Chính sách chiết khấu,
chính sách hối đoái, lập quỹ bình ổn hối đoái, vay nợ và phá giá hay nâng giá tiền tệ để điều
chỉnh tỷ giá hối đoái.
Bốn là, mục tiêu cân bằng cán cân thanh toán quốc tế
Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế được hiểu một cách khái quát là cân bằng tích cực
giữa thu và chi ngoại tệ của cả nền kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển tích cực của nền
kinh tế quốc gia, bao gồm hai bộ phận:
Thứ nhất, cán cân vãng lai bao gồm các khoản mục phải cân đối như: cán cân thương
mại, cán cân dịch vụ, thu nhập đầu tư ròng, chuyển nhượng hiện hành…
Thứ hai, cán cân vốn và tài chính bao gồm các bộ phận: Chuyển nhượng vốn, Đầu tư trực
tiếp, Đầu tư vào giấy tờ có giá, Đầu tư khác, tín dụng ngắn hạn, thay đổi tài sản có nước ngoài
ròng của hệ thống ngân hàng…
Trong điều kiện kinh tế mở, mục tiêu cân bằng cán cân thanh toán quốc tế rất qua trọng,
nó phản ánh năng lực cạnh tranh, tình trạng lành mạnh của nền kinh tế, quy mô và mức độ mở
cửa, hội nhập và khả năng hấp thụ, tiếp nhận các hoạt động trao đổi hàng hóa và đầu tư với
nước ngoài của nền KT.
Trong quản lý kinh tế vĩ mô, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế có tác động tích cực tới
các hoạt động kinh tế trong nước, tránh cho nền kinh tế quốc dân lâm vào tình trạng bất lợi
như phụ thuộc quá lớn vào nước ngoài, vỡ nợ, khủng hoảng tài chính, tiền tệ, và làm cơ sở
thiết lập các chính sách tiền tệ, thương mại và ngân sách
Để duy trì tình trạng cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, Nhà nước thường thi hành các
chính sách như: Khuyến khích xuất khẩu; khuyến khích đầu tư nước ngoài; kiểm soát nhập

khẩu; kiểm soát các luồng ngoại tệ ra và vào nền kinh tế, khuyến khích chuyển tài sản từ nước
ngoài về nước…
Năm là, mục tiêu bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội
13
Luận chứng cho việc đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội là một mục tiêu của quản lý
kinh tế vĩ mô được thể hiện trên hai giác độ sau:
Thứ nhất, công bằng và tiến bộ xã hội là một trong những điều kiện phát triển toàn diện
con người, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, một nền kinh tế đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng các cơ hội lao động, việc làm,
phát triển cá nhân chính là mục tiêu của phát triển kinh tế.
Trong nền KTTT định hướng XHCN, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội càng được
coi là một mục tiêu quan trọng, đồng thời cũng là một lĩnh vực thu hút sự đồng thuận của xh.
Các tiêu chí đo lường mức độ công bằng và tiến bộ xã hội là hệ số GINI, chỉ số phát triển
con người HDI, chỉ số phát triển giới GDI,…
Quan điểm thực hiện mục tiêu công bằng không có nghĩa là bình quân, cào bằng, mà phải
vừa phát huy động lực kinh tế của từng cá nhân, từng tổ chức, khuyến khích mọi người làm
giàu chính đáng, đồng thời vừa quan tâm tạo điều kiện để các đối tượng khác có thể phát huy
năng lực của mình đi đôi với hỗ trợ của xã hội nhằm đạt được mức thu nhập trung bình của xã
hội.
Nhà nước thường thực hiện mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội thông qua hệ thống các
chính sách xã hội như: chính sách người có công, chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách
giáo dục, y tế có sự hỗ trợ của nhà nước, chính sách an sinh xã hội, chính sách bình đẳng giữa
các dân tộc, chính sách bình đẳng giới…
Tuy nhiên, nhu cầu tài chính để thực hiện các chính sách xh là khá lớn, trong khi nguồn
lực ngân sách có hạn, vì vậy nhà nước cần biết cách sắp xếp thứ tự ưu tiên thực hiện các chính
sách xh phù hợp với trình độ phát triển kt và ngân sách của Nhà nước.
Sáu là, mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
Tăng trưởng nhanh và bền vững vừa là kết quả của thực hiện các mục tiêu nêu trên, vừa
là là tiền đề để có thể tiếp tục thực hiện các mục tiêu đó trong giai đoạn tiếp theo.
Đối với các nước đang phát triển, tăng trưởng nhanh là mục tiêu tối quan trọng để các

quốc gia này có thể thu hẹp khoảng cách lạc hậu với các nước phát triển. Bên cạnh đó, tăng
trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế không những phải ở mức
cao nhất có thể đạt được mà còn phải bảo đảm sự ổn định của quá trình tăng trưởng, tức là tốc
độ tăng trưởng phải ổn định liên tục trong một thời kỳ dài, đồng thời bảo đảm sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực sản xuất, bảo vệ môi trường, tái tạo được các nguồn lực tự nhiên đi đôi với
chi phí thỏa đáng cho thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
Các chỉ tiêu đo lường mức độ tăng trưởng kinh tế bao gồm: tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), mức GDP bình quân tính trên đầu người; tốc độ tăng trưởng của các
ngành sx chính.
Đối với các chỉ tiêu đo lường mức độ phát triển bền vững, việc đo lường các chỉ tiêu trên
được đặt trong mqh với các chỉ tiêu đo lường mức độ công bằng, tiến bộ xh và bảo vệ môi
trường.
Ngoài ra, việc đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế được
xem xét thông qua chỉ tiêu năng suất tổng hợp của các yếu tố đầu vào (TFP), hệ số gia tăng tư
bản – đầu tư (ICOR), đây là 2 chỉ tiêu quan trọng và các chỉ tiêu khác như: tốc độ đổi mới
công nghệ, mức độ ô nhiễm môi trường,…
14
2.3. Phân tích mối quan hệ giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Về tổng thể, các mục tiêu kinh tế vĩ mô phản ánh mong muốn của Nhà nước muốn nền
kinh tế quốc gia đạt được trong một thời kỳ nhất định. Các mục tiêu này và các chỉ số đo
lường chúng hợp thành một hệ thống thống nhất có quan hệ chặt chẽ với nhau, chế định lẫn
nhau, thậm chí có thể đánh đổi cho nhau (ví dụ mục tiêu công bằng và hiệu quả, mục tiêu
kiểm soát lạm phát và giải quyết việc làm…). Trong kinh tế vĩ mô, điều cần chú ý là xác định
thứ tự ưu tiên của các mục tiêu cần đạt được phù hợp với đk cụ thể trong từng gđ phát triển
đất nước. Trên cơ sở đó, Nhà nước xây dựng các chiến lược phát triển kt-xh nhằm sử dụng tốt
nhất nguồn lực của đất nước để hoàn thành các mục tiêu đề ra.
Một ví dụ tiêu biểu là mqh giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với đảm bảo công bằng,
tiến bộ xh, hai mục tiêu này, vừa có mqh thống nhất vừa mâu thuẫn nhau, cụ thể:
Đối với mặt thống nhất,
Trước tiên, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cơ bản và tiên quyết tạo ra của cải vật chất

làm cơ sở cho việc thực hiện công bằng xã hội, cụ thể tăng trưởng kinh tế:
Một là, tạo điều kiện tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển mở rộng sản xuất, tạo việc làm,
tăng thu nhập; tạo điều kiện để xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng, rút ngắn khoảng cách giữa
các vùng miền, tạo điều kiện cho mọi thành viên đều có cơ hội tiếp cận với các nguồn lực và
tham gia vào quá trình phát triển kinh tế.
Hai là, tăng dự trữ quốc gia, giải quyết biến động lớn của đất nước do thiên tai, địch họạ
gây ra, kịp thời trợ giúp cho những nhóm dân cư dể bị tổn thương có cơ hội vượt qua hiểm
nguy.
Ba là, tăng kinh phí cho phát triển khoa học, công nghệ để tăng năng lực sản xuất cho
phát triển.
Bốn là, tạo kinh phí cho việc giải quyết các vấn đề xã hội như: đầu tư giáo dục, y tế, văn
hoá, thể thao, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, thực hiện các chính sách xã hội, chiến
lược dân số, xoá đói giảm nghèo…
Như vậy, nếu không có tăng trưởng kinh tế thì không có điều kiện để thực hiện được
công bằng xã hội.
Đến lượt mình, công bằng, tiến bộ xã hội có tác động kích thích và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Khi công bằng xã hội được thực hiện sẽ khơi dậy tính tích cực, sáng tạo của người lao
động, tạo động lực phát triển kinh tế; việc an sinh được đảm bảo xã hội, xã hội được ổn định
là điều kiện quan trọng tạo nên sự đồng thuận xã hội. Ngoài ra, CBXH được thực hiện sẽ tập
hợp, phát huy được mọi nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đối với mặt mâu thuẫn
Một là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để thực hiện công bằng xã hội, nhưng không
tự phát đưa đến công bằng xã hội, vì:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với phân phối nguồn lực sản xuất theo cơ chế thị trường
(tối ưu) nó không quan tâm tới phân phối kết quả sản xuất có công bằng hay không.
- Chênh lệch giữa các ngành và các vùng miền.
- Trong nhiều trường hợp để tập trung cho tăng trưởng kinh tế phải dồn nguồn lực đầu tư
cho phát triển kinh tế. Do đó, đầu tư cho xã hội bị hạn chế làm ảnh hưởng tới việc thực hiện
công bằng xã hội.
15

Như vậy, điều kiện đủ để thực hiện được công bằng xã hội là phải có sự điều tiết của Nhà
nước và sự tham gia của cộng đồng dân cư. Trong đó, điều tiết của Nhà nước được thực hiện
bằng cách phân phối lại thu nhập thông qua 3 công cụ: Chính sách thuế; trợ cấp chính phủ:
tăng thu nhập người nghèo bằng những phương thức thích hợp và phúc lợi xã hội.
Hai là, nếu tập trung vào giải quyết công bằng xã hội thái quá - thiên về đảm bảo phúc
lợi xã hội thì sẽ kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn để có ngân sách cho đảm bảo phúc
lợi xã hội thì phải tăng sự điều tiết của Nhà nước và của dân cư.
- Điều tiết của Nhà nước: thuế cao sẽ làm giảm đầu tư, mất động lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
- Điều tiết của cộng đồng dân cư: thông qua các phong trào đền ơn đáp nghĩa, quỹ cộng
đồng. Nếu huy động quá mức sức dân cũng ảnh hưởng đến đầu tư cho tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, sự điều tiết của Nhà nước và của dân cư phải luôn quan tâm thoả đáng đến cả 2
mục tiêu: tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Trong điều kiện nước ta hiện nay phải coi
tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết để thực hiện công bằng xã hội.
2.4. Liên hệ thực tiễn
{Các bạn liên hệ thực tiễn theo nội dung mục 3 bài 2 trong giáo trình hoặc theo Báo
cáo tình hình KT-XH An Giang 2014, phương hướng nhiệm vụ 2015 hoặc kết hợp cả hai}
3. Kết luận
16
Câu 4: Trình bày vai trò, chức năng QLNN về kinh tế. Liên hệ thực tiễn ? (cả nước và
địa phương - Khái quát những thành công, hạn chế và đề ra giải pháp để hoàn thiện,
thực hiện các chức năng của QLNN KT trong nền KTTT đ/hướng XHCN Việt Nam
hiện nay)
Bài làm
1. Mở bài (tự làm)
2. Thân bài
Khái niệm QLNN về KT
Để thực thi quyền lực, nhà nước phải tiến hành quản lý mọi lãnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có lĩnh vực quản lý kinh tế đối với nền kinh tế quốc dân.
QLNN về KT là sự tác động và điều khiển có mục đích của các chủ thể quản lý (các cơ

quan có thẩm quyền ra quyết định quản lý trong hệ thống kinh tế) tới các hoạt động kinh tế
diễn ra trong hệ thống kinh tế, thông qua các công cụ quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu đặt
ra trong quá trình phát triển của hệ thống kinh tế quốc dân.
Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta trước hết cũng giống như các Nhà nước khác thể hiện ở việc thực hiện các mục tiêu
quản lý kinh tế vĩ mô, mà cơ bản và khái quát nhất là bảo đảm sự phát triển ổn định; thực hiện
công bằng; tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
Ngoài vai trò chung như các nước khác trong quản lý nền kinh tế thị trường, do tính chất
đặc thù của nước ta, Nhà nước còn thể hiện vai trò quan trọng trên các nội dung sau:
- Nhà nước quyết định sự thành công hay không thành công của sự nghiệp đổi mới,
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch, chỉ huy tập trung sang phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước quyết định tốc độ nhanh hay chậm của quá trình đổi mới.
- Nhà nước quyết định sự định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Trong quá trình đổi mới, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước không hề bị suy giảm mà
ngày càng tăng lên. Cần nhận thức rằng, tăng cường vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế
không có nghĩa là Nhà nước nắm tất cả, can thiệp vào tất cả mọi hoạt động kinh tế mà Nhà nước
phải nắm những lĩnh vực, những khâu, thực hiện những công việc quan trọng nhất mà thị trường
và nhân dân không làm được, biết sử dụng cơ chế thị trường một cách khôn khéo, hiệu quả để
17
phục vụ cho mục tiêu quản lý của mình, biết phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường
và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế đó.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
* Nhận thức chung về chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là những hoạt động tổng quát nhất về phương diện quản lý nền kinh tế mà Nhà

nước phải thực hiện để đạt mục tiêu đã đề ra, trả lời câu hỏi: Nhà nước phải làm những gì?
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa do bản chất của Nhà nước, do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và do
tình hình kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử quy định. Trong những điều kiện cụ thể,
do mục tiêu và những điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì vai trò và thứ tự ưu tiên của các
chức năng có thể có sự thay đổi nhất định, tuy nhiên tên gọi của các chức năng ít thay đổi.
* Những chức năng của quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Có thể khái quát thành 5 chức năng quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện nay như sau:
tạo môi trường thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế thị trường hoạt động; định hướng và hướng dẫn
sự phát triển của nền kinh tế; tổ chức và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều tiết nền
kinh tế; kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hoạt động của các chủ thể kinh tế. Tùy theo yêu cầu
phục vụ nhiệm vụ chính trị và kinh tế - xã hội của từng giai đoạn mà việc sắp xếp thứ tự ưu tiên
và nội dung cụ thể của các các chức năng có thể thay đổi.
1. Tạo lập môi trường và điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế hoạt động
Các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế chỉ có thể hoạt động tốt khi có môi trường
thuận lợi. Bằng quyền lực và sức mạnh kinh tế của mình, Nhà nước có trách nhiệm chính
trong việc xây dựng và bảo đảm môi trường thuận lợi, bình đẳng cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh, đồng thời còn bảo đảm môi trường phù hợp cho chính cơ chế mới đang hình thành,
phát triển và phát huy tác dụng. Nhà nước cần tạo lập nhiều loại môi trường, trong đó có các
môi trường chính sau đây:
Một là, xây dựng môi trường chính trị ổn định, thật sự phát huy các nguồn lực và sức
sáng tạo của nhân dân của các doanh nghiệp.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế vận động và phát triển
thuận lợi.
Ba là, xây dựng môi trường văn hóa xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường, xã hội
ngày càng tôn trọng và tôn vinh nghề kinh doanh và người kinh doanh.
Bốn là, bảo đảm môi trường an ninh trật tự, kỷ luật, kỷ cương, mọi cá nhân và tổ chức
đều phải tuân thủ pháp luật.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện môi trường thông tin.

Với chức năng này, Nhà nước có vai trò như một bà đỡ giúp cho các cơ sở sản xuất kinh
doanh phát triển, đồng thời bảo đảm các điều kiện tự do, bình đẳng trong kinh doanh.
2. Định hướng, hướng dẫn sự vận động, phát triển của toàn bộ nền kinh tế
18
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhà kinh doanh và các tổ chức kinh tế được tự chủ kinh doanh nhưng không thể nắm được hết
tình hình và xu hướng vận động của thị trường, do đó họ thường chạy theo thị trường một
cách bị động, dễ gây ra thua lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Hơn
nữa, Nhà nước còn phải định hướng nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế –
xã hội đã được Đảng và Nhà nước định ra cho mỗi giai đoạn. Do đó, Nhà nước có chức năng
định hướng phát triển kinh tế và hướng dẫn các nhà kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động
hướng đích theo các mục tiêu chung của đất nước. Nhà nước định hướng và hướng dẫn bằng
các công cụ như chiến lược, quy hoạch, chính sách, kế hoạch, thông tin và các nguồn lực của
Nhà nước.
3. Tổ chức thực hiện, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và bảo hộ cho các chủ
thể kinh doanh đúng pháp luật
Nhà nước phải sắp xếp, tổ chức lại các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế quan trọng,
trong đó có sắp xếp, củng cố lại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp nhà
nước, tổ chức các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đây là những công việc nhằm tạo cơ cấu
kinh tế hợp lý.
Nhà nước phải bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế thị trường như cân đối tổng cung
- tổng cầu, cân đối xuất khẩu – nhập khẩu, cân đối thu - chi ngân sách bảo đảm ổn định kinh
tế vĩ mô của nền kinh tế thị trường.
Nhà nước phải bảo hộ và bảo vệ cho các chủ thể kinh doanh đúng pháp luật, can thiệp
vào nền kinh tế thị trường khi có những biến động lớn như khủng hoảng, suy thoái kinh tế.
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan quản lý của Nhà nước về kinh
tế từ trung ương đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào tạo lại, sắp
xếp đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp nhà nước, thiết lập
mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức quốc tế.
4. Điều tiết hoạt động của toàn bộ nền kinh tế

Trong khi điều hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước vừa phải tuân
thủ và vận dụng các quy luật khách quan của thị trường, phát huy mặt tích cực, hạn chế những
tiêu cực của thị trường, vừa điều tiết sự hoạt động của thị trường theo định hướng của Nhà
nước, đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, công bằng và có hiệu quả. Để điều tiết, Nhà
nước phải sử dụng các chính sách, các công cụ như: tài chính, tiền tệ, thuế, tín dụng, lãi
suất ,các nguồn lực mạnh để điều tiết nền kinh tế thị trường.
5. Kiểm tra, kiểm soát và xử lý các vi phạm của các chủ thể tham gia thị trường
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm nhằm thiết lập trật
tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp
luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng
trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mới phát triển, thậm chí còn sơ khai như ở nước
ta: tình trạng rối loạn, tự phát, vô tổ chức và các hiện tượng tiêu cực còn khá phổ biến, có nơi,
có lúc rất trầm trọng và phức tạp, càng cần phải đề cao chức năng của Nhà nước kiểm tra,
kiểm soát, xử lý vi phạm đối với các chủ thể kinh tế tham gia thị trường, đồng thời cũng kiểm
tra, kiểm soát, xử lý vi phạm của chính các cơ quan và các cán bộ, công chức quản lý kinh tế
của Nhà nước.
19
Liên hệ thực tiễn ở nước ta:
Những thành công của quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách phù hợp, tạo điều kiện, môi trường
thuận lợi cho nền kinh tế thị trường phát triển.
Thứ hai, đã phát huy vai trò tích cực của các chủ thể kinh tế.
Thứ ba, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa đã
hình thành, phát huy tác dụng.
Thứ tư, hệ thống thị trường ngày càng phát triển, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng.
Những hạn chế, yếu kém của quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Có thể khẳng định mọi thành công của nền kinh tế đều là kết quả lãnh đạo đúng đắn của

Đảng, quản lý của Nhà nước, mọi hạn chế, yếu kém của nền kinh tế cũng do những hạn chế,
bất cập trong lãnh đạo của Đảng, trong quản lý của Nhà nước. Đảng ta cũng nhận thức rất rõ
vấn đề đó. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định:
"Tư duy phát triển kinh tế -xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp
ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước; bệnh thành tích còn nặng; hệ thống pháp luật còn nhiều
bất cập, việc thực thi chưa nghiêm, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém; tổ chức bộ máy
cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất”
1
.
Có thể khái quát những hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta
trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, chưa phát huy
đầy đủ những mặt tích cực và hạn chế tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Chưa giải
quyết tốt mối quan hệ nhà nước – thị trường – doanh nghiệp. Quản lý nhà nước chưa trở thành
nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Thứ hai, hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và thiếu nhất quán, thực
hiện chưa nghiêm.
Thứ ba, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa đã
hình thành nhưng chưa đồng bộ, quản lý các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch
hóa, thương mại, phân phối thu nhập, đất đai, vốn và tài sản Nhà nước chưa tốt và chậm đổi
mới, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí còn lớn và ngày càng phức tạp.
Thứ tư, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế còn nặng nề và còn nhiều vướng
mắc; tình trạng quan liêu, phân tán cục bộ, vô cảm với dân còn nghiêm trọng; đội ngũ cán bộ,
công chức quản lý nhà nước về kinh tế đông nhưng không mạnh, tình trạng không làm tốt
chức trách của mình khá phổ biến, hiện tượng tham nhũng, tiêu cực có xu hướng ngày càng
tăng và phức tạp.
Thứ năm, quản lý tài sản công nói chung, quản lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và
các doanh nghiệp nhà nước nói riêng còn quá nhiều bất cập, thậm chí yếu kém, gây lãng phí,
thất thoát rất lớn, để lại những hậu quả rất nặng nề về kinh tế và xã hội.
Nguyên nhân của những hạn chế trên đây có nhiều, trong đó có cả những nguyên nhân

khách quan như: nước ta đang trong quá trình đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường định
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.94
20
hướng xã hội chủ nghĩa là công việc mới mẻ, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử, nhưng chủ
yếu do các nguyên nhân chủ quan. Đại hội XI của Đảng đã nêu các nguyên nhân hạn chế, yếu
kém sau đây:
- Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới;
- Bệnh thành tích còn nặng;
- Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, thực thi chưa nghiêm;
- Quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém;
- Tổ chức bộ máy cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm
chất;
- Tổ chức thực hiện kém hiệu quả;
- Chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết những khâu đột phá, then chốt
và những vấn đề xã hội bức xúc;
- Quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ;
- Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm;
- Tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi
2
.
Giải pháp hoàn thiện và thực hiện tốt các chức năng QLNN về KT
1. Nhận thức lại các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, thực hiện tốt việc phân
công, phân cấp trong thực hiện các chức năng
2. Xử lý tốt mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng với quản lý nhà nước về kinh tế,
giữa quản lý của nhà nước với quản lý kinh doanh của doanh nghiệp
3. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước về kinh tế. Thể
hiện trên hai nội dung chủ yếu sau đây:
Nâng cao hiệu lực quản lý thống nhất của Nhà nước trung ương đi đôi với phân cấp quản
lý cho chính quyền địa phương.

Tăng cường phối hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.
4. Tập trung mọi nguồn lực thực hiện tốt ba khâu đột phá chiến lược: xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
5. Tiếp tục đẩy mạnh quá trình sắp xếp, cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp nhà
nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
6. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước về kinh tế, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng
Liên hệ thực tiễn năm 2014: (tham khảo)
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2014 phát triển với những tín hiệu tích cực, tạo cơ hội cho
các nhà đầu tư kinh doanh, phát triển sản xuất: Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định. Lạm phát được
kiểm soát tốt (CPI tăng 4,09%). Tăng trưởng đạt mức tăng khá (5,98%) và có dấu hiệu khả
quan ở những ngành, lĩnh vực trọng yếu. Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi (tăng trưởng
7,6%), nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo. Cầu trong nước đã có chuyển biến theo hướng
tích cực. Cán cân thương mại được cải thiện, trong đó xuất siêu đạt mức cao (2 tỷ USD). Dư
nợ tín dụng tăng cao hơn mức tăng của các năm trước (12,62% so với 12,51% của năm 2013).
Thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối ổn định. Khó khăn của doanh nghiệp đang dần được
tháo gỡ. Đời sống dân cư ổn định.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.94
21
Mặc dù đạt được nhiều kết quả so với năm trước, kinh tế - xã hội nước ta trong năm tới
vẫn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức: Tình hình thế giới còn nhiều biến động khó
lường, ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tác động đến xuất khẩu và
lạm phát trong nước. Sản xuất của khu vực doanh nghiệp đứng trước thách thức của cơ chế thị
trường và sức ép hội nhập quốc tế trong điều kiện năng suất lao động thấp, chậm được cải
thiện và năng lực cạnh tranh yếu. Nợ xấu vẫn còn nhiều quan ngại, nhất là nợ xấu của doanh
nghiệp Nhà nước. Cầu nội địa tuy tăng hơn năm trước nhưng chưa mạnh. Cán cân thương mại
thặng dư song chưa thật vững chắc do tập trung chủ yếu ở khu vực FDI với giá trị gia tăng
thấp, sản xuất các sản phẩm phụ trợ trong nước nhằm giảm nhập khẩu chuyển biến chậm. Để

tiếp tục vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế cần làm tốt
những nội dung chủ yếu sau:
Một là tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt phù hợp với diễn biến
kinh tế vĩ mô nhằm vừa bảo đảm thanh khoản, tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển, vừa giữ ổn định vĩ mô. Tích cực xử lý nợ xấu trên cơ sở phân loại
nợ của các doanh nghiệp, nhất là nợ của doanh nghiệp Nhà nước. Tháo gỡ kịp thời những
vướng mắc đang tồn tại trong khâu cung ứng vốn nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho doanh
nghiệp tiếp cận vốn phát triển sản xuất kinh doanh.
Hai là nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đây là một trong các nhân tố quan
trọng quyết định năng lực cạnh tranh của quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh năm 2015 nước ta
là thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN và thực hiện các hiệp định mới được ký. Các
doanh nghiệp cần nâng cao thương hiệu sản phẩm; xây dựng năng lực tài chính đáp ứng yêu
cầu phát triển sản xuất quy mô lớn. Ngoài ra, phải giải quyết kịp thời và hiệu quả những bất
cập về thủ tục hành chính trong môi trường đầu tư, kinh doanh.
Ba là, nâng cao năng suất lao động, phương thức quan trọng nhất để nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế. Chính phủ có chính sách tăng cường đầu tư quy trình sản xuất
trang thiết bị hiện đại cho người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế; tập trung đào tạo
nguồn nhân lực có trình độ và kiến thức cao trong xu thế hội nhập ngày càng sâu, tạo sự phù
hợp hơn giữa kỹ năng sản xuất và yêu cầu công việc. Đổi mới thể chế kinh tế nhằm tăng năng
suất các nhân tố tổng hợp (TFP), trong đó tập trung khuyến khích khu vực doanh nghiệp nâng
cao khả năng xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh cũng như năng lực quản trị. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp phải tập trung đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (RD), chủ động
tiếp thu và ứng dụng tri thức mới, đồng thời tăng khả năng sáng tạo trong sản xuất kinh doanh.
Các Bộ, ngành, lĩnh vực và địa phương cần tăng tính hiệu lực và hiệu quả trong quản lý điều
hành.
Bốn là, mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa theo hướng đa dạng. Đẩy nhanh tốc
độ chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm qua chế biến,
giảm dần tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng thấp để đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế ngày càng sâu. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất hàng phụ trợ, tạo liên kết
giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đáp ứng nguyên liệu phụ trợ và hạn chế nhập khẩu

nguyên nhiên vật liệu đầu vào từ nước ngoài phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng
xuất khẩu, góp phần gia tăng giá trị cho nền kinh tế.
Năm là, giải quyết triệt để nợ đọng khối lượng xây dựng cơ bản từ các năm trước, nhất là
các công trình có quy mô vốn lớn tác động làm gia tăng khoản nợ xấu. Nâng cao ý thức trách
nhiệm của các đơn vị tư vấn cũng như các chủ đầu tư trong việc thực hiện đúng các quy định
về đầu tư xây dựng của Nhà nước. Tăng cường quản lý chặt chẽ quy trình chuẩn bị đầu tư.
Đẩy mạnh hơn nữa việc xã hội hóa đầu tư, hoàn thiện các cơ chế chính sách, nhất là chính
22
sách đối với hình thức hợp tác công - tư để thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài Nhà nước.
Xem xét, thu hồi các dự án không đủ năng lực, nhất là các dự án bất động sản, nghỉ dưỡng.
Đối với các dự án thủy điện cần tập trung vốn hoàn thành những công trình quan trọng. Các
địa phương tiếp tục tập trung giải quyết nhanh công tác giải phóng mặt bằng, nhất là đối với
các dự án trọng điểm, dự án lớn. Tăng cường và nâng cao năng lực công tác hướng dẫn, phổ
biến pháp luật về đầu tư xây dựng công trình cho cán bộ quản lý xây dựng cấp xã, phường, thị
trấn. Hoàn thiện cơ chế quản lý xây dựng cơ bản, tăng cường công tác thanh tra, giám sát đầu
tư xây dựng.
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội và cải tiến hệ thống chính sách an
sinh xã hội theo hướng tập trung, đầy đủ, đồng bộ. Tiếp tục rà soát, bổ sung cơ chế chính sách
nhằm giảm nghèo bền vững, chống tái nghèo. Tạo việc làm phải bảo đảm tính bền vững.
Nghiên cứu đổi mới công tác giáo dục và đào tạo cho các bậc học, đáp ứng yêu cầu phát triển
của xã hội. Tổ chức có hiệu quả công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, tạo điều kiện cho
họ tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật để vận dụng vào thực tiễn sản xuất, góp phần tạo việc
làm, cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống. Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ
người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Liên hệ tỉnh An Giang
Trong tỉnh, hai mặt hàng chủ lực tiếp tục gặp khó khăn về giá cả và thị trường, tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh của đa số doanh nghiệp vẫn chưa hồi phục, chi phí đầu vào
tăng mạnh đã tác động nhiều đến đời sống người dân, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp vẫn
còn bấp bênh.
Trong 24 chỉ tiêu Nghị quyết số 15/2013/NQ-HĐND ngày 10 tháng 12 năm 2013 của

Hội đồng nhân dân tỉnh, đã thực hiện đạt và vượt 16 chỉ tiêu (chiếm 66,7% tổng chỉ tiêu), còn
lại 08 chỉ tiêu không đạt nghị quyết đề ra, chủ yếu là các chỉ tiêu về kinh tế, cụ thể: tăng
trưởng GDP chỉ đạt 5,1%, GDP bình quân đầu người chỉ đạt 29 triệu đồng/năm, kim ngạch
xuất khẩu chưa đạt kế hoạch đề ra, nhập siêu, thu ngân sách nhà nước không đạt dự toán
UBND tỉnh giao
Kinh tế thế giới phục hồi và tiếp tục tăng trưởng tích cực hơn năm 2014, đây là điều kiện
để các doanh nghiệp trong tỉnh đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và tìm kiếm thị trường mới.
Các chính sách về cánh đồng lớn và tái cơ cấu kinh tế, các chính sách về ứng dụng công nghệ
cao sẽ tạo điều kiện để tỉnh ta phát triển trong năm 2015 và những năm tiếp theo.
hai mặt hàng chủ lực của tỉnh là lúa và cá vẫn chưa thể sớm phục hồi trong thời gian
trước mắt, những tồn tại trong sản xuất nông nghiệp Chính phủ chưa có giải pháp căn cơ để
tháo gỡ để mang lại lợi ích lâu dài cho nông dân; các chính sách cho nông nghiệp chưa đủ
mạnh để giúp các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực này (lĩnh vực chịu nhiều tác
động của thiên nhiên và thị trường thế giới); bảo hộ thương mại đang có xu hướng ngày càng
gia tăng trên phạm vi toàn cầu. Chất lượng nguồn lao động chưa đáp ứng nhu cầu phát triển
của tỉnh; các công trình giao thông của chính phủ mới xây dựng chưa phát huy tác dụng trong
thời gian ngắn; hạ tầng giao thông tuy được quan tâm đầu tư nhưng nhìn chung còn thiếu đồng
bộ sẽ ảnh hưởng đến việc kêu gọi đầu tư của tỉnh; Chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà
nước còn rời rạc, bị cắt khúc và thiếu đồng bộ; chậm hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền.
Giải pháp
- Từng bước triển khai có hiệu quả Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; Tăng cường
mời gọi đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp ưu tiên các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao
23
động địa phương thông qua các kênh xúc tiến thương mại - đầu tư, các ấn phẩm nhanh chóng
giao mặt bằng và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai dự án; rà soát, nâng cao
hiệu quả các khu, cụm công nghiệp, bảo đảm an toàn, an ninh cho các doanh nghiệp hoạt
động; Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các công trình khu, cụm công nghiệp
gắn với lợi thế vùng kinh tế trọng điểm nhất là tạo sự gắn kết với thành phố Cần Thơ, phát
huy tối đa lợi thế khu vực biên giới và thuận lợi giao thông thủy bộ.
- Thường xuyên kiểm tra tiến độ triển khai thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm. Tạo

mọi điều kiện để nhân dân giám sát đối với các công trình xây dựng trên địa bàn.
- Triển khai thực hiện tốt Quy hoạch phát triển ngành Thương mại tỉnh An Giang đến
năm 2020, có xét đến năm 2025; đề án tiếp cận, thiết lập và xâm nhập hệ thống kênh phân
phối để hỗ trợ sản phẩm hàng hóa chủ lực của tỉnh xâm nhập thị trường trong và ngoài nước
năm 2012-2016; Phát triển mạnh thương mại biên giới mà trọng tâm là tập trung đầu tư hoàn
chỉnh các khu chức năng, khu quản lý để tạo tiền đề cho những năm tiếp theo. Hướng phát
triển ưu tiên cho các khu kinh tế cửa khẩu là thương mại dịch vụ và công nghiệp chế biến
phục vụ xuất khẩu.
- Tổ chức mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp với nông dân sản xuất xây dựng
vùng nguyên liệu sạch, an toàn và chất lượng đáp ứng yêu cầu của các thị trường nhập khẩu;
Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đang có thị trường và kể cả những
mặt hàng có dấu hiệu giảm sút, tích cực phát triển các mặt hàng có tiềm năng thành những mặt
hàng xuất khẩu mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến,
chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất
khẩu thô.
- Kiểm soát chặt chẽ nguồn thu, chống thất thu thuế, chống buôn lậu, gian lận thương
mại, tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế, thực hiện tốt công tác hoàn thuế, kịp thời phát
hiện các đối tượng có dấu hiệu gian lận thương mại để thanh tra, kiểm tra thuế. Tăng cường
kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng trên
địa bàn trong việc thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Trung ương, đảm bảo chính
sách tiền tệ được ổn định, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu phương
tiện thanh toán cho nền kinh tế.
- Nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, ứng dụng đối với các đề tài, dự án khoa học
ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; Đổi mới công nghệ, ưu tiên ứng dụng,
chuyển giao công nghệ sau thu hoạch, công nghệ sản xuất sạch
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quản lý, sử dụng đất đai, khai thác tài
nguyên khoáng sản, tài nguyên nước. Kiên quyết xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật
về quản lý sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường; làm tốt công tác giải quyết khiếu nại tố
cáo trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường.

Câu 5: Trình bày khái quát bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Phương hướng, giải
pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống BMQLNN về KT ở nước ta.
Bài làm
1. Mở bài: Các đ/c tự làm
2. Thân bài:
24
• K/n: BMQLNN về KT là một chỉnh thể các bộ phận trong cơ cấu tổ chức quyền lực
NN, có chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ khác nhau, có quan hệ, ràng buộc và phụ thuộc lẫn
nhau, được bố trí thành cấp và khâu để thực hiện chức năng nhất định của QLNN về KT nhằm
đạt mục tiêu đã đặt ra. Trong k/n này chúng ta cần hiểu rõ:
- Chỉnh thể các bộ phận hợp thành bộ máy: Số lượng các bộ phận của BMQL vừa đủ,
không thừa, không thiếu xét theo cả quan hệ dọc và quan hệ ngang.
• Chức năng quản lý là những hoạt động tất yếu nảy sinh và là kết quả của phân công
lao động trong quá trình quản lý, được xác định cho từng bộ phận của BMQL nói chung,
BMQLNN về KT nói riêng. Chức năng của BMQL nói chung là nhiệm vụ cơ bản, xuyên suốt
vốn có của một tổ chức, một đơn vị mà từ đó bộ máy quản lý được hình thành, hiện hữu và
vận động vì tổ chức, vì đơn vị đó. . chức năng của BMQLNN về KT cũng vậy.
Vấn đề quan trọng là chỉ ra chức năng khách quan, vốn có và xác định các chức năng đó
cho bộ phận nào của BMQLNN về KT.
Các quyền hạn, nhiệm vụ được xác định tương ứng cho từng bộ phận trong bộ máy quản
lý nhà nước về kinh tế.
Quyền hạn luôn gắn với mỗi chủ thể nhất định, có thể theo cấp, có thể theo khâu của bộ
máy quản lý nhà nước về kinh tế.
Quyền hạn của chủ thể quản lý là hệ thống các quy phạm pháp luật về hành vi tạo khả
năng thực hiện các chức năng, các nhiệm vụ quản lý đã được xác định.
Quyền hạn của chủ thể quản lý có liên quan chặt chẽ với trách nhiệm thực hiện các
nhiệm vụ quản lý được giao. Quyền hạn lớn mà trách nhiệm nhỏ dễ tạo khả năng cho bệnh
độc đoán hành chính, duy ý chí, chủ quan và những quyết định quản lý thiếu thận trọng.
Ngược lại, nhiệm vụ to lớn với trách nhiệm nặng nề, quan trọng mà quyền hạn nhỏ sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động của bộ máy quản lý.

Quyền hạn và nhiệm vụ của mỗi chủ thể, mỗi bộ phận của bộ máy quản lý phải được
phân định một cách hợp lý theo trình độ khác nhau của các cấp quản lý.
Quyền hạn phải tương ứng với nghĩa vụ, trách nhiệm của từng bộ phận. Tuy vậy, trên
thực tế tuân thủ điều này không hề đơn giản, bởi con người chịu sự chi phối lợi ích gắn với
quyền hạn nhiều hơn, phổ biến hơn, trong khi lại có xu hướng né tránh trách nhiệm, nghĩa vụ.
Quan hệ ràng buộc, phụ thuộc nhau: Mỗi bộ phận có tính độc lập tương đối, nhưng
không tách rời, không đối lập nhau, ngược lại, là tiền đề cho nhau.
Cấp quản lý: Cấp quản lý thể hiện là quan hệ dọc, giữa cấp trên, cấp dưới. Mỗi cấp là
một tập hợp gồm nhiều bộ phận.
Quan hệ theo cấp là biểu hiện quan hệ giữa quyền lực và sự phục tùng, tuân thủ. Quan hệ
cấp lấy phục tùng làm tiền đề. Vì vậy, một mặt, cần xác định đúng, đủ quyền lực của mỗi cấp,
tránh tình trạng không đủ quyền lực thực thi trong thực tiễn quản lý, nhưng cần tránh tập trung
quá nhiều quyền lực tại một vài cấp vì dẫn tới lạm quyền. Mặt khác, phục tùng đòi hỏi cấp
dưới phải tuân thủ nghiêm minh sự điều hành, chỉ thị, mệnh lệnh đúng đắn của cấp trên.
Khâu quản lý: Khâu quản lý là tập hợp các bộ phận của cùng một cấp quản lý. Do các bộ
phận trong cùng một cấp là ngang quyền, bình đẳng, nên quan hệ giữa các khâu là hợp tác với
nhau trên cơ sở cùng phối hợp hoàn thành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao cho cấp
đó.
o Đặc điểm:
25

×